Tại sao dân chủ pháp luật thật sự phát triển chưa có ở Việt Nam?

Nguyễn Hữu Đổng

 

Dân chủ, pháp luật là các khái niệm biểu hiện thực chất thật sự phát triển tiến bộ, văn minh của xã hội loài người. Cách đây hơn bảy thập kỷ, sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh, thoát khỏi ách nô lệ thực dân, phong kiến, nhân dân Việt Nam đã lập nên “nước dân chủ cộng hòa” – hình thức quốc gia có nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện, bảo đảm “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của nhân dân. Thế nhưng tại sao đã hơn bảy thập kỷ trôi qua mà dân chủ pháp luật thật sự phát triển chưa có ở Việt Nam? Để trả lời được câu hỏi này, cần phải nhận thức bản chất, thực chất, tính chất của dân chủ thật sự, pháp luật, thật sự phát triển là gì?

Thật sự phát triển là gì?

Thật sự là khái niệm có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như sau: “bản chất sự thật – thực chất thật – tính chất thật sự” [1]. Theo đó, trong mối liên hệ với sự thật, thật, thì thật sự chỉ là khái niệm biểu hiện của tính chất bên ngoài; sự thật là khái niệm biểu hiện của bản chất bên trong; còn thật là khái niệm biểu hiện của thưc chất toàn diện ở giữa bên ngoài và bên trong.

Từ mô hình cấu trúc thực chất thật nêu trên cho thấy rằng, phát triển là khái niệm có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như sau: bản chất tăng về chất (sự thật cân đối của hiện tượng: chưa phát triển) – thực chất (thật hài hòa giữa sự vật và hiện tượng tồn tại: phát triển) – tính chất giảm về lượng (thật sự cân bằng của sự vật: không phát triển). Tức phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức “học thuật” (tri thức khoa học do học tập, nghiên cứu mà có) về sự cân đối, cân bằng, hài hòa giữa các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội.

Thực chất thật và phát triển là có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm thật sự phát triển hay phát triển thật sự. Tức thật sự phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức học thuật về sự cân đối, cân bằng, hài hòa thật sự giữa các sự vật, hiện tượng tồn tại trong  thế giới tự nhiên và xã hội.

Mô hình cấu trúc của thật sự phát triển có thể được biểu thị như sau: bản chất thật sự chưa phát triển (hiện tượng cân đối) – thực chất thật sự phát triển (tồn tại hài hòa) – tính chất thật sự không phát triển (sự vật cân bằng).

Pháp luật là gì?

Từ các phân tích ở phần trên cho thấy rằng, pháp luật là khái niệm biểu hiện ở tính chất, bản chất và thực chất. Tính chất của pháp luật biểu hiện ở nguyên lý pháp quyền để bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển công bằng; bản chất của pháp luật biểu hiện ở phương pháp phi bạo lực hay nguyên tắc luật để thực hiện mục tiêu chính sách phát triển bình đẳng; thực chất của pháp luật biểu hiện ở nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển công bằng, bình đẳng, công lý.

Điều đó có nghĩa, pháp luật trong quốc gia có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức học thuật về nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền thực hiện, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển, tức bảo đảm “sự cân đối (bình đẳng), cân bằng (công bằng), hài hòa (công lý) về phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng” [2].

Mô hình cấu trúc của pháp luật có thể được biểu thị như sau: luật (bản chất: nguyên tắc luật thực hiện mục tiêu chính sách phát triển) – luật, pháp quyền (thực chất: xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển) – pháp quyền (tính chất: xây dựng nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển).

Dân chủ thật sự là gì?

Từ các mô hình cấu trúc được phân tích ở trên cho thấy rằng, dân chủ trong quốc gia có thể được biểu thị theo mô hình cấu trúc như sau: dân chủ chưa thật sự (bản chất nhóm công dân của nhân dân làm chủ trực tiếp trong chính quyền) – “dân chủ thật sự” [3, t. 11, tr. 41] (thực chất nhân dân trong cộng đồng quốc gia vừa là chủ, vừa làm chủ trực tiếp, gián tiếp trong chính quyền, xã hội, quốc gia) – dân chủ không thật sự (tính chất cá nhân cư dân của nhóm công dân là chủ gián tiếp trong xã hội).

Từ mô hình cấu trúc này cho thấy, dân chủ thật sự là khái niệm biểu hiện tri thức học thuật về các cá nhân, nhóm, cộng đồng dân tộc trong quốc gia vừa là chủ, vừa làm chủ trực tiếp, gián tiếp trong chính quyền, xã hội, quốc gia. Dân chủ thật sự là nói về “dân chủ nhân dân” - tức “chính quyền của nhân dân” [3, t.9, tr. 38] - chứ không phải “dân chủ xã hội chủ nghĩa” [4]. Chính quyền của nhân dân tức là chính quyền của tất cả các cá nhân (công dân, cư dân), nhóm (đảng phái, hội đoàn), cộng đồng (dân tộc, tôn giáo); chính quyền do nhân dân tức là các cá nhân, nhóm, cộng đồng đều được quyền tự do bầu và cử ra những người đại diện cho mình trong chính quyền trung ương, địa phương; chính quyền vì nhân dân tức là mọi đường lối, mục tiêu chính sách phát triển trong quốc gia đều phải bảo đảm đạt được sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi (quyền được sống), giá trị (quyền tự do), tinh thần (quyền mưu cầu hạnh phúc) của nhân dân.

Mối liên hệ giữa dân chủ, pháp luật, thật sự phát triển

Dân chủ, pháp luật, thật sự phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên dân chủ pháp luật thật sự phát triển. Trong mối liên hệ này, thì thật sự phát triển được nhìn nhận là mục tiêu chính sách phát triển; dân chủ được nhìn nhận là phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị thực hiện mục tiêu chính sách phát triển; còn pháp luật được nhìn nhận là nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển.

Điều đó cho thấy rằng, pháp luật là gắn chặt với pháp quyền và “luật phát triển” [3, t. 7, tr. 41]; không có luật đúng đắn, pháp quyền nhân nghĩa thì quốc gia không thể có dân chủ thật sự và phát triển bền vững.

Tức dân chủ pháp luật thật sự phát triển có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất các cư dân, công dân, nhân dân vừa là chủ gián tiếp trong xã hội, vừa làm chủ trực tiếp trong chính quyền bằng phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị, nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để thực hiện, bảo đảm đạt được sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.

Nguyên nhân nào làm cho dân chủ pháp luật thật sự phát triển chưa có ở Việt Nam?

Tác giả bài viết này đưa ra ba nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, do Đảng Cộng sản đã nắm độc quyền tư tưởng, báo chí; từ đó làm cho nhân dân mất quyền tự do về tư tưởng và ngôn luận, trong khi Hồ Chí Minh nói rõ rằng: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do” [3, t. 10, tr. 378]. Tức nền tảng tư tưởng của Đảng đã sai lầm nghiêm trọng, do tư tưởng (quan điểm, chủ nghĩa) mắc phải căn bệnh “giáo điều” – tư tưởng “xã hội chủ nghĩa”, “cộng sản chủ nghĩa” (tính chất hình thức của tư tưởng). Về thực chất, đây là hình thức tư tưởng biểu hiện tương tự tệ nạn “mù chữ” [5] – kẻ thù cực kỳ nguy hiểm trong quốc gia dân chủ và xã hội loài người. Tư tưởng đã mắc phải bệnh giáo điều thì hành động tất yếu sẽ lệch lạc; hay nói cách khác: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm” [3, t. 7, tr. 114].

Hai là, do Đảng Cộng sản đã đứng trên pháp luật; hay Đảng tự coi mình là luật, không “tuân theo pháp luật của nhân dân” [3, t. 8, tr. 264], bởi vì đã “thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước” vào Hiến pháp Việt Nam năm 2013 một cách công khai [6, Lời nói đầu]. Tức Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng tương tự như “ông vua tập thể”, Tổng Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy, Huyện ủy các địa phương tương tự như các “ông vua con” của thời đại mới; còn nhân dân Việt Nam tương tự như “thần dân” thời nô lệ, phong kiến chỉ mong muốn được “sống làm người chứ không chịu làm nô lệ” [3, t. 13, tr. 190]. Nhân dân Việt Nam hiện nay không có pháp luật của mình, tức không có nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền của mình để bảo vệ công lý, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển con người, xã hội, quốc gia.

Ba là, do nhiều đảng viên trong Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản đã thiếu, hay vô “đạo đức” (tính chất: “làm cán bộ”), “tài năng” (bản chất: “làm việc”) và “lương tâm” (thực chất: “làm người”); tức họ đã không biết học lý luận là “để làm việc, làm người, làm cán bộ” [3, t. 6, tr. 208] thật sự, mà chỉ học để mong ra “làm quan”, “phát tài”, “cai trị” (quản lý, chỉ đạo), “dẫn dắt”, “định hướng” nhân dân đi theo “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa” [5, Điều 2] – chế độ xã hội phản khoa học, phản tiến bộ của ‘nhà nước phong kiến kiểu mới’ trong thế kỷ XXI. Chính nhiều đảng viên cộng sản thiếu đạo đức, tài năng, lương tâm này đã làm cho quốc gia Việt Nam ngày càng mất dần chủ quyền lãnh thổ, “đất nước, biển đảo, khí trời” [7].

Tính chất cai trị về tư tưởng và hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ nét nhất qua vụ “xử lý điểm nóng” - điểm nóng xung đột do “khủng hoảng niềm tin” [8] vào Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chính quyền - ở xã Đồng Tâm, Huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020 (ngày rằm tháng 12 âm lịch năm 2020, ngày cận Tết cổ truyền của Dân tộc Việt Nam). Bởi vì, Đảng Cộng sản đã mắc phải quá nhiều sai lầm từ trước đến nay trong quan hệ với nhân dân nói chung, nhân dân xã Đồng Tâm nói riêng. Chẳng hạn, như: 1) Bắt buộc “quân đội trung với Đảng”, tức trung với “nhóm lợi ích”, nên đã dẫn đến “quân đội làm kinh tế” [9], bóc lột nhân dân, trở thành kẻ thù của nhân dân; 2) Sai lầm khi áp dụng hình thức “sở hữu toàn dân” [10] về chính sách tài nguyên, đất đai trong bản Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật, nên đã không đáp ứng được “lòng dân” (đáp ứng “sự thực và công lý”), làm cho niềm tin chân thật của nhân dân nói chung, nhân dân xã Đồng Tâm nói riêng vào chế độ ngày càng mất dần; 3) Nguyên tắc đối thoại công khai minh bạch trong giải quyết mâu thuẫn, xử lý điểm nóng, xung đột giữa nhân dân và doanh nghiệp, chính quyền đã không được tiến hành thỏa đáng; 5) Áp dụng hình thức độc quyền thông tin truyền thông một chiều từ hệ thống báo chí của chính quyền; 6) Lực lượng vũ trang đã cưỡng chế một cách vô nhân tính đối với các công dân chân thật buộc phải tìm cách tự vệ sau các hành vi đe dọa trước đó của chính quyền, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang; đồng thời, chính quyền đã sử dụng biện pháp cưỡng chế vào thời điểm “mờ ám” khi trời còn tối, người dân đang ngủ, ngay giáp Tết cổ truyền của Dân tộc.v..v..

Kết luận

Con đường phát triển cách mạng dân tộc, xây dựng đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng, bình đẳng không chỉ là mong muốn trong tư tưởng Hồ Chí Minh – tư tưởng con người “biết nhận thức phải, trái”, “có đúng, có sai” [3, t. 14, tr. 186] chứ không phải “kinh thánh” [3, t. 7, tr. 120] – mà còn là mong muốn của nhân dân Việt Nam. Con đường này tương tự như “sự thật của con đường hạnh phúc” [11] – con đường có mục tiêu độc lập mang tính nhân quả (đầu - cuối), có phương pháp thực hiện mang tính đối lập “song hành” (phải - trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính độc lập, đối lập “trung gian” (ở giữa)” [12].

Để xây dựng đất nước dân chủ và giàu mạnh như nêu ở trên, giải pháp hàng đầu là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ cần phải triệt để đổi mới toàn diện thật sự cả về thể chế kinh tế, chính trị và văn hóa. Đây là yêu cầu cấp thiết nhất giai đoạn hiện nay nhằm xây dựng “khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam” [13], bảo vệ chủ quyền quốc gia trước hành động sai trái của chính quyền cộng sản Trung Quốc đang thực hiện chiến tranh xâm lược “mềm” (xâm lược mang tính phản văn hóa, kinh tế, pháp lý, thông tin) đối với Việt Nam và các quốc gia khác.

Thể chế kinh tế là khái niệm biểu hiện thực chất xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật để bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, cổ phần. Thể chế văn hóa là khái niệm biểu hiện thực chất xây dựng, thực hiện nguyên lý pháp quyền để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Thể chế chính trị - xã hội là khái niệm biểu hiện thực chất toàn diện của xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, cổ phần; bảo đảm về môi trường sống tồn tại trong tự nhiên và xã hội; bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia.

Để thực hiện các giải pháp nêu trên, cần phải xây dựng “thể chế kinh tế thị trường đầy đủ” chứ không phải xây dựng thể chế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [5, Điều 51]; đồng thời xây dựng “thể chế chính trị pháp quyền” và “thể chế văn hóa đa dạng” [14] ở Việt Nam.

Đảng Cộng sản muốn tồn tại cùng Dân tộc Việt Nam, thì giải pháp tiếp theo mang tính “quy luật phát triển của cách mạng” [3, t. 13, tr. 71] là cần phải sửa đổi ngay Hiến pháp năm 2013, thay đổi tên Đảng Cộng sản hiện nay trở lại tên “Đảng Lao động” như Hồ Chí Minh đã thực hiện cách đây gần 70 năm, hoặc lấy tên mới là “Đảng Việt Nam Thống nhất”; bởi vì, cụm từ “cộng sản” là không thật, phản khoa học! Đồng thời, Đảng cần phải tôn trọng các quyền “là chủ”, “làm chủ”, “đi đúng đường lối của nhân dân” [3, t. 8, tr. 50], thật sự hòa giải dân tộc và xây dựng, thực hiện khối đại đoàn kết các dân tộc, cơ chế “tam quyền phân lập” – “Thần linh pháp quyền” ở Việt Nam [15]. Thực hiện các giải pháp nêu trên dẫn đến Đảng Cộng sản mất đi quyền “cai trị”, hay vai trò “lãnh đạo” (tiên phong) trong quốc gia có thể được trao vào tay một đảng chính trị tiến bộ khác, nhưng đây lại là “quy luật phát triển của xã hội” [3, t. 8, tr. 274], để Dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. Việt Nam trường tồn và phát triển bền vững mới thật sự là chân lý vĩnh hằng - cuộc sống - niềm tin của nhân dân.

……………..

Tài liệu trích dẫn:

[1] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2651-doi-moi-tu-duy-nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html

[2] http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-phat-trien-o-viet-nam-123029

[3] CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiên Đại hội lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 72.

[5] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va – 1978, t. 44, tr. 218.

[6] Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[7] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_BaoVeChuQuyen.html

[8] https://phapluatnet.vn/tin-trong-nuoc/dai-bieu-duong-trung-quoc-vu-o-dong-tam-la-khung-hoang-long-tin-14321.html

[9] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_TaiSaoQuanDoi.html

[10] https://boxitvn.blogspot.com/2017/05/ap-dung-hinh-thuc-so-huu-toan-dan-la.html

[11] https://vietnamnet.vn/vn/blog/khong-co-con-nguoi-hanh-phuc-khong-the-co-quoc-gia-hanh-phuc-436774.html

[12] tcnn.vn/news/detail/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Namall.html

[13] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ChongBaPhai.html

[14] https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/ngay-8-thang-3-ngay-phu-nu-nghi-ve-mo-rong-dan-chu-292756.html

[15] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ThanLinhPhapQuyen.html

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-1-20