90 năm công
tác tuyên giáo - nhìn lại và suy ngẫm
Vũ
Ngọc Hoàng
Công tác tuyên
giáo đã trải qua 90 năm, nay nhìn lại và mong muốn đổi mới, xin nêu một
số ý kiến để bạn đọc tham khảo.
1/ Có thể phân
chia ra 2 giai đoạn là trước và sau 1975, mỗi giai đoạn có thời gian
bằng nhau là 45 năm. Giai đoạn đầu chủ yếu là chiến đấu giành độc lập
dân tộc, kháng chiến vệ quốc và đấu tranh cho thống nhất nước nhà; giai
đoạn sau chủ yếu là xây dựng đất nước trong hòa bình. So sánh giữa hai
giai đoạn, thì giai đoạn đầu có ưu điểm nổi trội hơn, đã tập họp và phát
huy được sức mạnh của toàn dân và của nền văn hóa dân tộc, còn giai đoạn
sau thì yếu kém và lủng củng hơn, mặc dù cũng làm được một số việc cho
sự phát triển kinh tế-xã hội. Sau năm 1975 đáng lẽ tuyên giáo phải đóng
góp nhiều hơn cho công cuộc khai hóa văn minh của dân tộc để nhanh chóng
tiến lên, nhưng trên thực tế thì chưa làm được như vậy mà còn góp phần
gây nên sự thụ động của tập thể Đảng, của tầng lớp trí thức và của cả
cộng đồng nhân dân. Trước đây tôi đã nói một số lần về điều này khi còn
đương chức và đã nhắc lại hôm chia tay đồng nghiệp để nghỉ hưu. Giữa
chính trị và tuyên giáo có quan hệ mật thiết, đúng sai trong chủ trương
và thực hiện nhiệm vụ chính
trị đã tác động rất lớn đến ưu khuyết điểm của công tác tuyên giáo. Tất
nhiên về phần mình thì tuyên giáo cũng tác động trở lại chính trị, nhưng
đó là mặt thứ hai của mối quan hệ này. Mà nhìn lại lịch sử của dân tộc
ta mỗi khi qua những khúc quanh, đất nước bị xâm lăng hoặc sau khi chiến
thắng, lúc hưng thịnh và lúc suy vong, chắc lọc trong ấy ra, ta có thể
thấy mặt mạnh nổi trội của văn hóa Việt Nam là văn hóa trong giữ nước,
còn mặt yếu cũng nổi rõ là văn hóa trong phát triển. Đối với phần yếu
kém về văn hóa phát triển thì cơ bản chúng ta chưa làm tốt công cuộc
khai sáng để tiến lên. Đây là điểm yếu lớn nhất.
2/ Tuyên giáo
để làm gì và quan hệ của nó với nhiệm vụ chính trị chủ yếu ra sao? Mục
đích đầu tiên và quan trọng nhất của công tác tuyên giáo là nhằm tham
gia khai hóa văn minh cho cộng đồng dân tộc và thực hiện nhiệm vụ
chính trị, vừa là sự nghiệp lâu dài vừa là trước mắt, vừa có tính chất
khoa học vừa mang tính chính trị. Trong thực tế không ít trường hợp
không tránh khỏi sự mâu thuẫn giữa tính khoa học và tính chính trị. Nên
giải quyết thế nào? Phải dựa vào khoa học để làm căn cứ xác định và điều
chỉnh các yêu cầu chính trị, chứ không phải ngược lại là lấy chính trị
để bắt khoa học phải tuân theo, vì nếu vậy thì khoa học không còn là
khoa học, và do đó các căn cứ để quyết định nhiệm vụ chính trị không còn
đứng vững và chính trị chắc chắn sẽ bị chông chênh. Lối suy nghĩ “chính
trị là thống sói” như trước đây đã có thời kỳ hiểu và nói như vậy là
cách tư duy sai lầm, bị lộn ngược, xuất
phát và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Phương Bắc. Chính vì lẽ đó mà
nhiều việc trong đời sống xã hội đã bị chính trị hóa, kể cả khoa học và
tư tưởng, ngôn luận. Mặt khác, cái lâu dài và cái trước mắt không phải
lúc nào cũng thuận chiều nhau, khoa học định hướng cho lâu dài, nhưng
chính trị nhiều lúc phải giải quyết yêu cầu bức xúc trước mắt. Trong
trường hợp đó mục đích lâu dài phải được phân kỳ, có quá trình, có bước
đi phù hợp hoàn cảnh thực tế. Chỉ có điều sự phân kỳ đó có giới hạn và
không trái ngược với khoa học, có vậy chính trị mới có thể thành công
bền vững. Trường hợp khác, nếu bất chấp khoa học, thì chính trị sẽ mất
tính khách quan, không còn sức sống tự nó, bị xơ cứng và giảm tính
thuyết phục, giảm lòng tin, từ đó mà hỏng nền tảng. Ngay cả quan niệm
chính trị cũng không nên khuôn lại trong giới hạn của vấn đề quyền lực
và xử lý tình huống, mà phải có cách tiếp cận của khoa học chính trị,
không áp đặt kiểu cai trị ngày xưa mà thuyết phục bằng cơ sở khoa học
trong môi trường dân chủ xã hội. Khai hóa văn minh mới là sự dẫn dắt
thật sự có ý nghĩa với tiến trình lịch sử. Khi nào các cơ quan lãnh đạo
cao nhất lấy sự nghiệp khai hóa văn minh làm nhiệm cụ chính trị hàng
đầu, mục tiêu cao nhất thì các mâu thuẫn giữa chính trị và khoa học sẽ
không còn nhiều, thậm chí rất ít, chỉ là chuyện kỹ thuật.
Lâu nay nhiệm
vụ chính trị quy định công tác tuyên giáo, còn công tác tuyên giáo thì
tập trung phục vụ chính trị, nặng về tuyên truyền, quán triệt. Ngay cả
lý luận đáng lý là một khoa học thì cũng do chính trị quy định, yêu cầu
phải thế này và thế kia, không được khác. Không ít lý lẽ được sinh ra từ
yêu cầu chính trị trước mắt, từ suy nghĩ chủ quan của người lãnh đạo
nhưng sau đó lại trở thành “cơ sở khoa học” cho lý luận. Tôi không nói
công tác tuyên giáo độc lập hoàn toàn với chính trị. Nó đồng hành và
phục vụ nhiệm vụ chính trị là lẽ đương nhiên, nhất là khi nó do một đảng
chính trị cầm quyền lập ra để thực hiện công việc theo chủ trương của
đảng. Nhưng công tác tuyên giáo là tư duy và ngôn luận. Tư duy không thể
không có tự do và theo đó ngôn luận cũng vậy. Nếu công tác tuyên giáo
hoàn toàn lệ thuộc, bị thụ động một chiều, mất đi tính tự do và sáng
tạo, cũng có nghĩa là mất đi sức sống và tính thuyết phục, do vậy mà trở
nên xơ cứng, từ đó không đạt được kết quả như mong muốn. Trong thực tế,
rất nhiều trường hợp, ưu và khuyết điểm của nhiệm vụ chính trị là sự tác
động, bắt nguồn, dẫn đến ưu khuyết điểm của công tác tuyên giáo. Theo lý
thuyết thì tuyên giáo có quyền đề xuất những vấn đề khác với chủ trương
của chính trị, thậm chí là ngược lại, và như vậy sẽ góp phần làm cho
chính trị đúng đắn hơn. Nhưng đó là lý thuyết, còn trên thực tế có mấy
ai dám làm, có mấy việc được làm đâu. Điều này có một phần thuộc về
trách nhiệm của người làm tuyên giáo, nhưng phần lớn hơn, phần chủ yếu
thuộc về trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính trị chủ chốt.
3/ Mục tiêu
dân tộc và dân chủ là chủ trương hợp lòng dân, có ý nghĩa và sức
mạnh cổ vũ lớn lao nhất, tạo động lực bền vững. Nhờ đâu mà Việt Nam đã
thành công trong Cách Mạng tháng 8.1945 giành lại độc lập và các cuộc
kháng chiến chống xâm lược sau đó, kể cả phương Tây và phương Bắc mạnh
hơn ta gấp nhiều lần? Đó là sức mạnh của cả dân tộc! Tất nhiên có vai
trò lãnh đạo của Đảng. Điều đó thì không thể phủ nhận. Mặt khác lại phải
thấy rằng, ngày xưa trước khi có Đảng, dân tộc ta cũng đã rất nhiều lần
đánh thắng quân xâm lược từ phương Bắc. Trong đó có những chiến công vô
cùng vang dội chẳng kém gì thời đại HCM. Vậy là trong dòng máu của dân
tộc này đã có truyền thống yêu nước, văn hóa giữ nước hun đúc từ bao
đời. Cái giỏi của những người lãnh đạo là đã biết phát huy tinh thần dân
tộc, sức mạnh vô cùng lớn lao từ nhân dân. Ngày đó, mục tiêu và khẩu
hiệu lớn nêu ra là “Dân tộc, dân chủ”. Nhiệm vụ chính trị đó phù hợp
lòng dân, là mong muốn chính đáng và bức xúc của cả dân tộc. Nên tự nó,
nhiệm vụ chính trị đã có sức mạnh hiệu triệu muôn người. Trong trường
hợp ấy, bản thân chính trị đã có sức cảm hóa thuyết phục, đã là tuyên
giáo rồi. Còn công tác tuyên giáo thì đã
biết nhân lên sức mạnh của chính trị chân chính. Tôi nghĩ nếu
không có sức mạnh bởi mục tiêu dân tộc và dân chủ thì có lẽ chúng ta
không có được chiến thắng như đã có. Cho đến nay, đã 90 năm từ ngày lập
Đảng, nhưng mục tiêu dân tộc và dân chủ vẫn chưa thực hiện
xong, vẫn còn nguyên đó, tất nhiên đã có một bước tiến rất đáng kể.
Với tình hình Biển Đông và âm mưu của giới cầm quyền Trung Quốc, cộng
với sự phụ thuộc không ít về kinh tế và ảnh hưởng về tư tưởng, mục
tiêu độc lập dân tộc của VN ta vẫn còn nặng nề, gian khó, giải quyết
không đơn giản. Và lần này nếu để mất biển đảo thì uy tín lãnh đạo cũng
sẽ mất theo.
Còn mục tiêu
dân chủ? Ngày chưa giành được chính quyền ta hiểu vấn đề dân chủ
tuy không sai nhưng chưa đầy đủ và quá đơn giản. Lúc đó, dân chủ được
hiểu là lật đổ chế độ quân chủ của vua, xóa bỏ phong kiến và lập ra nhà
nước dân chủ của nhân dân. Nếu chỉ có như vậy thì sau cuộc Cách mạng
tháng 1945 về cơ bản đã giải quyết xong rồi. Nhưng trên thực tế thì vấn
đề dân chủ còn rất nhiều việc chưa được giải quyết, thậm chí có những
nội dung rất cơ bản thuộc về nền tảng vẫn chưa giải quyết được. Bác Hồ
có nói một câu nổi tiếng là, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng tự
do và hạnh phúc thì độc lập cũng chưa có nghĩa lý gì. Như vậy, theo tư
duy của Người, độc lập là để cho nhân dân được tự do và hạnh phúc, tự do
và hạnh phúc là mục đích của độc lập, chưa đạt được điều đó thì mục đích
của độc lập vẫn chưa xong. Mà để có một xã hội thật sự dân chủ và nhân
dân ai cũng được hạnh phúc thì còn rất gian nan. Việc xây dựng một nhà
nước dân chủ thì ta đã nói từ 1945, vậy mà mãi đến nay vẫn còn quá nhiều
việc chưa làm. Giữa lời nói và việc làm có khoảng cách xa như vậy đó. Từ
1945 đến nay đã 75 năm, đã có những tiến bộ đáng kể trên tiến trình dân
chủ, nhưng công bằng mà nói hãy còn ít và con đường vẫn còn rất xa, thậm
chí có mặt còn thụt lùi so với thời kỳ Bác Hồ đang sống và lãnh đạo đất
nước. Tất nhiên nói khoảng cách xa gần ở đây là nói trong tư duy chậm
đổi mới, chứ thực ra chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ thì lập tức có thể
tạo ra những bước tiến mang dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển của
dân tộc. Mục tiêu dân tộc và dân chủ đã từng là sức mạnh của cả một dân
tộc, hiện nay vẫn thế và lâu dài cũng vậy. Nếu một lúc nào đó bị sao
nhảng, lơ là đối với mục tiêu này, không thường xuyên lo nghĩ và phấn
đấu cho nó, thì sẽ mất sức mạnh bắt nguồn cội rễ từ lòng dân. Dân chủ
đến bao nhiêu là thể hiện trình độ văn minh và tính nhân văn của xã hội.
Dân chủ là bản chất tốt đẹp của xã hội tiến bộ. CNXH nhất quyết phải
là một chế độ dân chủ thật sự, chứ không phải là toàn trị. Có
vậy mới đáng để mà phấn đấu. Không như vậy thì chắc chắn không phải CNXH
chân chính. Nếu không giải quyết tốt vấn đề dân chủ thì chẳng bao giờ có
được CNXH. Còn mất dân chủ là đi ngược với tiến trình đúng hướng của
lịch sử, là sự kìm hảm tiến bộ văn minh. Đảng CSVN phải chống lại xu
hướng bảo thủ lạc hậu này để không rời bỏ mục tiêu tốt đẹp của cuộc cách
mạng và xứng đáng là lực lượng tiên phong, không để đảng tự chuyển thành
một lực lượng cản trở, chống lại nhân dân. Trong điều kiện chỉ có một
đảng thì đảng ấy càng phải dân chủ, càng phải xứng đáng là người đại
diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân.
4/ Phải đổi
mới căn bản nhận thức và tư duy về CNXH và con đường đi tới đó. Suốt
trong thế kỷ 20 và cho đến nay, trên thế giới đã và vẫn còn nhiều kiểu
CNXH rất khác nhau, kể cả giả danh, giả mạo, lừa mị và xấu độc. Qua thực
tiễn nếu phân tích kỹ sẽ thấy có nhiều vấn đề trước đây ta đã nhận thức
không đúng, nhưng cứ giữ “kiên định” mà thực chất là bảo thủ, giáo điều.
Mặt khác, thế giới ngày nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đây, đang
thay đổi rất nhanh và sẽ còn tiếp tục thay đổi nhiều nữa. Do vậy, Đảng
phải khác trước, phải tự thay đổi mình, phải chủ động và tích cực đổi
mới tư duy của mình nếu không muốn lạc hậu, lỗi thời và trở thành lực
cản đối với quá trình phát triển của dân tộc. Kiên định trước tiên là
kiên định tính chất vì “nhân dân quên mình” chứ không phải là một
sự bảo thủ giáo điều duy ý chí.
Trong đó, cần
hiểu và diễn đạt cho đúng về CNXH và con đường đi đến đó là công việc
quan trọng hàng đầu của tuyên giáo. CNXH phải thể hiện ở bản chất chứ
không phải nặng khẩu hiệu và tên gọi. CNXH như thế nào đó thì đáng ủng
hộ, và như thế nào khác thì không đáng ủng hộ. Lâu nay ta hiểu cũng
không nhất quán, đã có những điều chỉnh quan trọng, nhưng cho đến nay đã
90 năm rồi mà vẫn còn không ít tính mập mờ, mơ hồ, chưa rõ về CNXH. Ta
nêu mục tiêu XHCN nhưng lại chưa rõ về nó và chính điều ấy đã làm mất
lòng tin, chập choạng trong từng bước đi. Ngay cả lý luận của K.Marx,
Lenin cũng không phải đã rõ hoàn toàn, và giữa hai ông cũng khác nhau
khá nhiều, kể cả cách tiếp cận và con đường đi tới đó. Hội nghị các đảng
Cộng Sản và Công Nhân đang cầm quyền ở các nước XHCN tại Mat-x-cơ-va
1957 nói về các đặc trưng của CNXH cũng có những nội dung không đúng, ta
lại cứ thế tự giác đi theo một thời gian khá dài. Tại VN trong thời kỳ
đầu của cách mạng cũng có nói đến mục tiêu XHCN, nhưng là mới nói thoáng
qua, không rõ như mục tiêu dân tộc và dân chủ, nhưng trong nhân dân ngày
ấy (và sau này) đã hiểu khái quát rằng đó là một xã hội tốt đẹp. Như
vậy, cái XHCN mà nhân dân ta ủng hộ ngày ấy tức là một xã hội tốt đẹp,
phải tốt đẹp. Và theo nghĩa đó, khi nào đạt được sự tốt đẹp thì mới là
XHCN, còn xây dựng CNXH là phải tạo ra cái tốt đẹp. Dần dần về sau sự
diễn đạt cụ thể hơn, nhưng khi nói cụ thể thì có những nội dung người ta
chưa thấy nó tốt đẹp như lời nói, và do đó lại mơ hồ, lại phân vân. Mặt
khác, trong cách diễn đạt của ta nhiều lúc nhầm lẫn giữa tương lai và
hiện tại, giữa lý tưởng và hiện thực (việc vừa phải phấn đấu lâu dài để
đạt tới, vừa như đã có rồi phải ra sức bảo vệ giữ nguyên) cũng góp phần
làm cho câu chuyện bị mập mờ lẫn lộn.
Có một số vấn
đề trong nhận thức (trước đây và cho đến nay) mà theo tôi có thể là do
không hiểu đúng, không hiểu hết ý Marx, hoặc Marx không đúng, hoặc trước
đây đúng mà nay không còn phù hợp, cần được trao đổi cho rõ. Ta đối lập
CNXH với CNTB, coi chúng khác nhau về bản chất, đối lập nhau, là đối thủ
không khoan nhượng, thù địch đến mức phải chỉa súng vào nhau (trong khi
thực chất khoa học chỉ là sự khác nhau chủ yếu về giai đoạn phát triển,
mà CNXH phải cao hơn, và khi có thay đổi nhiều về lượng sẽ dẫn đến thay
đổi về chất). Ta coi đó là hai con đường đi riêng, khác nhau hoàn toàn
(trong khi tư duy của K.Marx không phải là như thế, mà là một sự tiếp
nối). Ta coi CNXH phải loại bỏ sở hữu tư nhân và lấy công hữu tư liệu
sản xuất chủ yếu làm nền tảng. Quan điểm này có tả khuynh hay không?
Trong khi đó chính sở hữu tư nhân và lợi ích cá nhân là động lực, là bản
năng của con người. Quan điểm về công và tư hữu này K.Marx và Engghen
viết trong Tuyên ngôn Cộng Sản lúc mới 29 và 27 tuổi, sau này nhiều tuổi
hơn, nghiên cứu nhiều hơn, chín hơn, đã có lần Marx nhấn mạnh kinh tế cổ
phần và sở hữu xã hội sẽ chi phối xã hội tương lai, coi đó là con đường
thay đổi của kinh tế tư nhân. Có thời kỳ ta hiểu chuyên chính vô sản như
giải pháp thay thế những mặt còn thiếu trong trình độ phát triển để đi
lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB mà thực chất là duy ý chí.
Tất nhiên không chuyện gì phải đi trở lại từ đầu cái thời kỳ CNTB hoang
dã mà các nước tư bản cũng đã bỏ qua. Đồng thời với đó ta lại hiểu đấu
tranh giai cấp sẽ quyết định sự phát triển của lịch sử - đây cũng là ý
kiến tả khuynh, mặc dù trong lịch sử của nhân loại cũng có những cuộc
đấu tranh giai cấp dẫn đến bước nhảy vọt tiến lên, nhưng không phải đại
diện cho tất cả lịch sử. Chính Marx và Lenin đã từng nhất quán trong tư
duy rằng chỉ có công cụ lao động được cải tiến và năng suất lao động xã
hội cao hơn mới là yếu tố quyết định đối với con đường tiến lên. Trước
đây đã có một thời kỳ ta hiểu kinh tế Kế hoạch hóa tập trung là CNXH, ai
nói đến kinh tế thị trường bị coi là xét lại và sai lầm chệch hướng, sau
đó qua thực tế của Liên-xô và cả phe XHCN bất ổn và sụp đổ nên ta đã đổi
lại tư duy, coi kinh tế thị trường mới có thể tiến lên và đó là cuộc cải
cách và đổi mới cho đến ngày nay. Chọn kinh tế thị trường để đi lên CNXH
là đúng rồi, không cần cứ nhất thiết phải có cái đuôi định hướng XHCN
mới yên tâm là không chệch hướng. Kinh tế thị trường là vấn đề khách
quan và nền kinh tế nào rồi cũng phải có vai trò điều tiết vĩ mô của nhà
nước chứ không phải thị trường tư do hoàn toàn như các trường phái nào
đó ở phương tây thường nhấn mạnh. Đừng để ý kiến chủ quan duy ý chí của
người lãnh đạo, quản lý vĩ mô chi phối vào kinh tế thị trường để nó
không còn là nó như sự khách quan vốn có, mà trở nên biến dạng, biến
chứng, dẫn đến chệch hướng đi. Đừng để cái
đuôi “định hướng XHCN” ấy không giúp cho ta giữ
đúng hướng khách quan như mong
muốn mà ngược lại sẽ làm cho chệch hướng XHCN vì nó tác động trái với
quy luật tự nhiên.
5/ Về nền tảng
tư tưởng: Đảng CSVN lâu nay nhất quán lấy Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Tư tưởng HCM thì có sự nhất trí cao của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, ít ai có ý kiến vào ra. Nhưng Chủ nghĩa
Mac-Lenin thì còn không ít ý kiến khác nhau, nói ra nói vào, và ngày
càng không ít trí thức không đồng tình. Tôi biết trong số đó cũng có
người cực đoan, một chiều, tất nhiên rồi, nhưng mặt khác lại không phải
hoàn toàn như vậy. Đây là vấn đề khoa học. Đáng lẽ ta nên lắng nghe và
thảo luận, tranh luận bình đẳng để làm rõ các giá trị khoa học và nhân
văn đang nằm ở đâu, nhưng ta lại hành xử bằng sự quy chụp những người có
ý kiến khác ấy là chệch hướng, là phản động xét lại. Một vấn đề khoa học
đã bị chính trị hóa và điều này lại làm mất lòng tin trong một bộ phận
không ít trí thức. Tôi cho rằng loại bỏ hoàn toàn hay tuyệt đối hóa tư
tưởng Marx-Lenin đều là cực đoan, không khoa học. Cách đúng là lựa chọn
tinh hoa - các giá trị nhân văn và giá trị khoa học, chính cái đó mới
tồn tại khách quan và lâu bền, chứ không phải duy ý chí, càng không nên
chính trị hóa vấn đề khoa học. K.Marx đã mất lâu rồi, không còn sống để
trực tiếp bảo vệ chính kiến của mình và lúc đương thời ông cũng không có
khi nào nắm quyền lực nhà nước, vậy mà đến nay thế giới vẫn còn nhắc lại
các quan điểm của ông, giảng dạy về tư tưởng học thuyết của ông ở các
giảng đường đại học, kể cả ở các nước Phương Tây và Phương Đông, theo xu
hướng XHCN và TBCN. Ngôi mộ của ông ở nước Anh, gần Luân-Đôn, cách đây
không lâu chúng tôi có đến và chứng kiến người ta đã đặt hoa tươi lên đó
nhiều nhất so với các ngôi mộ khác trong nghĩa trang quý tộc này. Thế là
ông vẫn “sống”, vẫn trường tồn đấy thôi. Nói điều ấy để chứng tỏ rằng
trong tư tưởng của Marx có những giá trị văn hóa nhất định vẫn trường
tồn. Hãy để cho các giá trị ấy tồn tại một cách khách quan bình đẳng với
các tư tưởng của các trường phái khác mà không cần bất kỳ một sự ưu tiên
chính trị nào.
Ở bất kỳ một
nhà khoa học nào về lĩnh vực khoa học xã hội, dù là vĩ nhân, dù có uyên
bác và thông thái đến đâu, cũng không có ai nói bất cứ điều gì cũng đều
đúng cả khi thời gian và lịch sử đã đi qua. Nếu cứ suy nghĩ vậy thì
không phải duy vật và biện chứng
mà là duy tâm và siêu hình. Vậy nên, không thể lấy tất cả ý kiến của bất
kỳ ai để làm nền tảng tư tưởng, mà chỉ có thể lấy phần tinh hoa trong tư
tưởng của họ. Thế phần nào là tinh hoa, còn phần nào không phải là tinh
hoa? Muốn biết đâu là tinh hoa thì chỉ có cách thực hiện phản biện khoa
học - loại hoạt động thường xuyên của các nhà khoa học để làm rõ vấn đề.
Nếu độc tôn một lý thuyết nào rồi không cho ai phản biện, cứ chấp nhận
đó là chân lý mãi mãi, học thuộc lòng và cứ thế mà thực hiện, thì đến
một lúc nào đó sự thất bại là không tránh khỏi. Kiên định về tư tưởng là
sự kiên định với các giá trị khoa học và nhân văn của tư tưởng ấy. Như
thế mới đúng tư duy biện chứng của K.Marx. Đương thời, Marx không nhận
mình là người Mac-xit, ông nói ông không viết chủ nghĩa mà chỉ dự báo
khoa học, đời sau cần tiếp tục thảo luận để bổ sung, phát triển. Với tư
duy đó, ông khoa học hơn nhiều so với các đồ đệ của ông. Nền tảng tư
tưởng của một tổ chức cách mạng thật sự nên là (phải là) tinh hoa văn
hóa của dân tộc, nhân loại và tri thức thời đại. Trong đó, có
phần tinh hoa văn hóa của Marx, Lenin, và đặc biệt là của Hồ Chí Minh.
6/ Phát
triển phải là mục tiêu quan trọng nhất trong thời bình. Không có mục
tiêu nào có thể quan trọng hơn mục tiêu phát triển. Trước đây nước ta
nhiều lần bị xâm lăng, nhiều nhất là từ Phương Bắc, nguyên nhân chủ yếu
không phải do ta thiếu anh hùng mà là do ta không phát triển, bị lạc hậu
so với thiên hạ. Mất nước rồi thì người Việt Nam bằng sự anh hùng đã
chiến đấu lấy lại nước. Lấy lại được nước rồi, nhưng lại tiếp tục không
phát triển được, nguyên nhân mất nước vẫn chưa được giải quyết, và lại
mất nước lần nữa. Cứ thế, lịch sử đã lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy.
Cho nên, muốn giữ được nước nhất định phải phát triển. Ngày nay thế giới
đã khác xưa, nếu lạc hậu thì sẽ mất độc lập dân tộc, cũng là mất nước,
có thể bằng một cách khác, không hẳn là phải có sự thắng thua của một
cuộc chiến tranh như ngày xưa, mà có khi chỉ bằng con đường hòa bình,
không tốn súng đạn, không cần đổ máu, mà chỉ bằng cạnh tranh kinh tế. Lệ
thuộc kinh tế rồi dần dần lệ thuộc chính trị, bởi chính trị là sự tập
trung của kinh tế.
Muốn có CNXH
thì cũng chỉ có phát triển mới đạt được. Lạc hậu không bao giờ đến được
CNXH. CNXH là kết quả tất yếu của một sự phát triển ở trình độ cao chứ
không phải là ý muốn chủ quan của bất kỳ ai. Có ý kiến rằng, phát triển
mà sai đường thì sẽ chệch hướng XHCN, sẽ tự phát đi tới CNTB. Nhưng thế
nào là đúng hướng và sai hưởng? Đúng sai là khách quan, được thực tế
cuộc sống kiểm nghiệm, chứ không phải ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Tiêu
chuẩn quan trọng nhất để nói đúng hướng hay sai hướng là sự phát triển
trên thực tế. Các nhà kinh điển nhiều lần đã nhấn mạnh thực tiễn kiểm
nghiệm chân lý. Theo đó, sự phát triển bền vững là minh chứng cho một
đường lối đúng đắn, còn không phát triển được, bị tụt hậu so với thiên
hạ chính là sự chệch hướng.
Đối với mục
tiêu phát triển thì quan trọng nhất là sự phát triển của con
người. Các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị, ngoại
giao…đều do con người thực hiện, là sản phẩm của con người. Khi con
người phát triển thì mọi thứ sẽ phát triển theo. Khi con người chậm phát
triển thì mọi thứ cũng sẽ tụt hậu. Tất nhiên sự phát triển của các lĩnh
vực kinh tế xã hội cũng sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển của
con người, nhưng đó là mặt thứ 2 của mối quan hệ con người và công việc.
Cần làm gì để cho con người phát triển?
Giáo duc, văn hóa, khoa học là loại hoạt động thúc đẩy trực tiếp
sự phát triển của con người. Tất nhiên đó là nền giáo dục mở, khai
sáng, chứ không phải bảo thủ hay nhồi sọ; là văn hóa nhân bản và
phát triển, chứ không phải cổ hủ; khoa học xã hội và nhân văn về
con người; khoa học chính trị về tự do, dân chủ và nhà
nước pháp quyền…Trong tất cả các hoạt động ấy đều liên quan vấn đề tự
do tư tưởng và tự do thể hiện chính kiến-ngôn luận. Sự tự do
ấy đem lại sự độc lập và phát triển của tư duy - phần quan trọng nhất
trong sự phát triển của con người, đồng thời từ đó mà xây dựng tính
trung thực, lòng nhân ái và sự cầu thị - những đức tính quý giá nhất
trong hệ giá trị về nhân cách. Đối với lĩnh vực khoa học xã hội, con
đường để tiếp cận chân lý khách quan chỉ có thể là sự trao đổi bình đẳng
giữa các ý kiến khác nhau, chứ nhất định không phải là sự áp đặt, quy
chụp về quan điểm. Khi không được tự do thể hiện chính kiến mà dễ bị
“quy chụp” về quan điểm thì dẫn đến không dám nói thật suy nghĩ
của mình, và vì vậy mà hình thành thói quen không trung thực. Khoa học
tâm lý cho rằng nói dối là vũ khí tự vệ của con người hoặc là tính cơ
hội.
7/ Sở hữu
ruộng đất và quan điểm về thành phần kinh tế đúng hay chưa đúng là việc
vô cùng hệ trọng đối với sự phát triển của đất nước. Từ thời phong kiến,
nước ta đã có đa sở hữu về ruộng đất. Trong đó có công và tư, có đất của
vua, của làng và của tư nhân. Qua thực tiễn của các thời kỳ trước, kể cả
trong và sau phong kiến, đã cho thấy tính ưu việc của sở hữu tư nhân
trong khai khẩn, sử dụng hiệu quả và quản lý tốt tư liệu đất đai. Thuở
xa xưa, cần có vai trò của cộng đồng làng trong bảo vệ mùa màng, chống
thú dữ và chống xâm lăng lãnh thổ nên xã hội đã có lúc phổ biến hình
thức sở hữu công cộng về đất đai. Đến khi có sở hữu tư nhân đã tạo ra
một động lực rất quan trọng trong hoạt động kinh tế. Trong cách mạng,
Đảng và Nhà nước có lúc đã chia ruộng đất cho dân nghèo, thực hiện
“người cày có ruộng”. Chủ trương đó đã tập họp hàng triệu nông dân cho
công cuộc kháng chiến vệ quốc. Sau này, có lúc do yêu cầu hợp tác trong
sản xuất nông nghiệp nên đất đai đã được tập thể hóa. Khi tập thể hóa
kiểu cũ đã làm cho việc sử dụng ruộng đất kém hiệu quả, việc quản lý
cũng lỏng lẽo nhiều và trong nhân dân đã xuất hiện những ý kiến không
đồng tình với chủ trương hợp tác hóa kiểu ấy. Họ bảo ngày xưa thì người
cày có ruộng, thời nay thì người cày mất ruộng. Khi có chỉ thị 100 và
Nghị quyết 10 về khoán trong nông nghiệp, nhiều người hoan nghênh và họ
nói rằng, khoán 100 tốt hơn rất nhiều so với trước, khoán 10 tốt hơn
khoán 100, nếu thực hiện tiếp khoán 1 thì sẽ tốt hơn nữa và giải thích
khoán 1 tức là trả ruộng đất về cho nông dân để họ tự làm ăn và nộp
thuế. Có lúc hàng loạt nông trường của nhà nước ra đời, nhưng về sau
nhìn lại nói chung không hiệu quả. Những năm gần đây các nhóm lợi ích đã
dựa vào sơ hở của cách quản lý đất đai như hiện tại để tham nhũng chia
nhau và trong xã hội đã có đến 85% các vụ khiếu kiện đông người xuất
phát từ vấn đề tiêu cực đất đai.
Cần đổi mới
quy định về sở hữu đất đai theo hướng đa sở hữu, có đất công và đất
tư; đất của nhà nước, của tư nhân, của tập thể cộng đồng theo quy
định của pháp luật. Ví dụ đất có hầm mỏ, khoáng sản quý, biển và sông
hồ, có rừng quốc gia, nơi các công sở làm việc, doanh trại quân đội,
công trình quốc phòng…thuộc sở hữu nhà nước; đất ở, đất vườn, đất sản
xuất nông nghiệp… thuộc sở hữu tư nhân. Việc thừa nhận đa sở hữu về đất
đai cũng phù hợp với chủ trương kinh tế nhiều thành phần, vì đất đai là
một trong các tư liệu sản xuất chủ yếu - cái cốt vật chất của phương
thức sản xuất.
Trong Tuyên
ngôn Cộng Sản, Marx và Engghen có viết đại ý rằng phải xóa bỏ sở hữu tư
nhân vì nó sinh ra bóc lột và công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là
đặc trưng chi phối của xã hội tương lai (CSCN). Tư tưởng này chi phối
một thời gian dài, cho đến nay việc định kiến với sở hữu tư nhân đã giảm
đi cơ bản, nhưng sự nhấn mạnh công hữu vẫn còn. Và chính điều này đã ảnh
hưởng đến quan điểm cải tạo Công Thương nghiệp và hợp tác hóa Nông
nghiệp trước đây, về kinh tế nhà nước là chủ đạo cho đến nay. Khi viết
tuyên ngôn CS Marx và Engghen mới 29 và 27 tuổi như đã nói, mấy chục năm
sau này các ông đã tiếp tục nghiên cứu nhiều, uyên bác hơn, “chín” hơn,
có lúc Marx đã nhấn mạnh sở hữu xã hội và kinh tế cổ phần sẽ có vai trò
lớn và tính phổ biến trong tương
lai. Tôi nghĩ điều này ông nói đúng. Sở hữu xã hội và kinh tế cổ phần
xuất hiện trên cơ sở phát triển của sở hữu và kinh tế tư nhân, chứ không
phải phủ định, loại bỏ chúng. Khi kinh tế tư nhân phát triển đến một mức
độ nhất định, tự nó sẽ vượt qua ranh giới của chính nó, thì sinh ra kinh
tế cổ phần. Kinh tế cổ phần gắn với sở hữu xã hội, không loại bỏ mà song
hành với kinh tế tư nhân, hỗ trợ lẫn nhau, chuyển hóa qua lại, là bước
tiến bước lùi trong kinh tế thị trường.
8/ Xây dựng
nhà nước pháp quyền thực chất là hướng rất đúng đắn, nhất là ở các
nước từ chế độ quân chủ đi lên. Nhưng đó phải là pháp quyền của tư
tưởng dân quyền, do dân thật sự làm chủ, chứ không phải là pháp
quyền của quân chủ (từ lâu Tần Thủy Hoàng đã nói đến pháp quyền của
vua), cũng không phải pháp quyền của các tập đoàn tài phiệt. Với nhà
nước ấy, không có cá nhân ai, không có tổ chức nào, được đứng trên pháp
luật. Đảng CSVN đã khẳng định các tổ chức đảng khi hoạt động phải tuân
theo pháp luật. Đó là quy định đúng đắn, nhưng trong thực tế không tránh
khỏi trường hợp tổ chức và cá nhân này-kia nhân danh đảng lãnh đạo, đã
không tuân theo pháp luật đầy đủ và nghiêm minh. Việc xây dựng một hiến
pháp và các luật thể hiện đầy đủ tinh thần dân chủ (dân làm chủ, dân lập
hiến, nhà nước của dân, mọi quyền lực đều của dân…) và có tòa án Hiến
pháp là rất cần thiết.
Quyền lực là
của dân, nhà nước và cán bộ nhà nước được nhân dân ủy quyền một số việc,
dân ủy quyền nhưng không mất quyền, ủy quyền và có thể lấy lại
khi không còn tin tưởng nữa. Một số công việc dân sẽ trực tiếp thực
hiện mà không ủy quyền cho cơ quan nhà nước, phải có luật về quyền phúc
quyết của nhân dân, trưng cầu dân ý. Bên được ủy quyền không lạm quyền,
không lộng quyền. Quyền lực luôn có hai mặt, nó là công cụ sắc bén và
hữu hiệu nếu giao đúng cho người có nhân cách tốt, đồng thời mặt trái là
nó làm tha hóa cán bộ và bộ máy. Nếu quyền lực bị lộng quyền vì mục đích
cá nhân thì cả cơ đồ có thể sụp đổ. Vì vậy, kiểm soát quyền lực là
yêu cầu tất yếu của bất kỳ bộ máy quyền lực nào. Trong kiểm soát
quyền lực có vai trò quan trọng nhất của việc kiểm soát bằng quyền
lực nhà nước, cơ chế dân chủ và xã hội dân sự. Để kiểm soát quyền
lực bằng quyền lực nhà nước, vào cuối thời kỳ phong kiến ở Châu Âu, các
nhà nghiên cứu đã đề xuất ra mô hình “Tam quyền phân lập” và sau
đó được nhà nước tư bản áp dụng ở phương tây, rồi tiếp theo là phương
đông. Chúng ta cần nghiên cứu thấu đáo mô hình này để tìm trong đó các
giải pháp hợp lý về kiểm soát quyền lực, chứ không nên định kiến với
khái niệm này. Thực ra nó chẳng phải “phân lập” gì đâu. Đều thống nhất ở
một hiến pháp và thực hiện phân quyền cho 3 nhánh lập pháp, hành pháp và
tư pháp tương đối cân bằng để kiểm soát chéo lẫn nhau (thay cho thời
phong kiến nhánh hành pháp được tập trung cao nhất, chỉ huy luôn cả các
nhánh kia). Để kiểm soát quyền lực người ta còn có tòa án hiến pháp.
Kiểm soát quyền lực bằng dân chủ - đó là quyền tham chính của người dân,
tăng vai trò của báo chí và phát huy vài trò của các tổ chức dân sự. Lâu
nay nhiều người đã nói đến xã hội dân sự, nó không phải là hình thái
kinh tế xã hội, không phải là tổ chức phi pháp, đối lập, mà thực chất là
một phương thức dân chủ. Ở VN ta đã có các tổ chức dân sự từ lâu rồi,
làng là một trong số đó, nó đã đóng vai trò rất quan trọng cả trong giữ
nước, và hiện nay cũng đang tiếp tục ra đời các tổ chức ấy (dân sự) như
một việc không thể khác.
9/ Thay đổi
phương thức lãnh đạo và quản lý là việc hết sức cần thiết, đã nói
nhiều nhiệm kỳ rồi, nhưng đến nay cơ bản vẫn chưa thay đổi được. Khi
chưa có chính quyền, Đảng lãnh đạo bằng các giá trị văn hóa. Đề ra mục
tiêu cách mạng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và truyền thống văn
hóa của dân tộc, thuyết phục bằng lẽ phải và đạo lý, nêu gương bằng nhân
cách và sự hy sinh. Với phương thức lãnh đạo như vậy, Đảng đã tập họp
được cả dân tộc đứng lên giành độc lập và liền sau đó là các cuộc chiến
tranh vệ quốc gian lao và ác liệt. Vậy là Đảng đã trở thành một đảng
lãnh đạo dân tộc bằng các giá trị văn hóa và phương thức
thuyết phục, chứ không phải bằng mệnh lệnh và quyền lực hành
chánh. Ngày đó đâu đã có chính quyền mà sử dụng quyền lực. Sau khi
có chính quyền, lập ra nhà nước, dần dần phương thức lãnh đạo của Đảng
đã thay đổi, các tổ chức của Đảng sử dụng quyền lực hành chánh để lãnh
đạo, nên có người gọi đó là cai quản, cai trị, là một kiểu “nhà nước”
đứng trên nhà nước. Không ít lần ra nghị quyết hay chỉ thị của Đảng
thường với tinh thần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng mà thực chất phần
nhiều là bao sân, làm thay nhà nước các thứ việc, kể cả bao cấp về tư
tưởng.
Cần phải đổi
mới căn bản phương thức lãnh đạo theo hướng phát huy kinh nghiệm của
ngày xưa, lãnh đạo bằng thuyết phục, bằng các giá trị văn hóa là chính,
và chăm lo xây dựng nhà nước thật sự của dân, để nhà nước ấy sử dụng
pháp luật mà quản lý đất nước, Đảng không bao biện làm thay và lộn sân
của nhà nước. Khi Đảng trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước và
lại không đủ cơ chế kiểm soát quyền lực thì Đảng thoái hóa là một tất
yếu, khó mà ngăn được. Phương châm “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý
và dân làm chủ” xét về mặt từ ngữ thì không có gì sai, nhưng lãnh đạo
như thế nào, quản lý như thế nào và làm chủ như thế nào thì còn nhiều
vấn đề chưa rõ, phải bàn tiếp. Lãnh đạo và quản lý như thế nào đó thì
dân mới làm chủ được, còn lãnh đạo và quản lý cách khác thì dân không
thể làm chủ gì được. Nên chăng, tốt hơn, có thể diễn đạt là “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý để bảo đảm cho nhân dân làm chủ”,
tức là sự lãnh đạo và quản lý ấy phải nhằm mục đích để nhân dân
thật sự làm chủ đất nước và xã hội.
10/ Cán bộ
quyết định thành bại là câu tổng kết đúng thực tiễn. Sáu nhiệm kỳ trước
đây Nghị quyết của Đảng đã nói công tác tổ chức cán bộ là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân. Nhận thức sớm như vậy nhưng tiếc là trên
thực tế công việc thì chuyển biến rất chậm. Suốt mấy nhiệm kỳ nay chỉ
mới có một việc tiến bộ đáng nói là danh sách bầu cử có số dư nhưng vẫn
làm chưa đến nơi đến chốn, bầu cử chủ chốt phần nhiều vẫn còn một bầu
một. Nhiệm kỳ XII này lãnh đạo Ban Tổ chức TW có quyết tâm hăng hái đổi
mới công tác cán bộ, trong đó có
việc kiểm soát quyền lực và bổ sung sửa đổi một số quy trình.
Nhưng nhìn chung suốt nhiều nhiệm kỳ, công tác cán bộ cơ bản vẫn cách
làm như vậy - sắp đặt. Ta nói Đảng trực tiếp nắm công tác cán bộ thực
chất là Đảng sắp xếp và phân công. Nhiều lần tôi đã nói, sự sắp đặt cán
bộ như kiểu ta làm lâu nay thì dễ bị tính chủ quan, “hôn nhân cận
huyết” và không tuân theo quy luật chọn lọc tự nhiên. Quyền
lực luôn có mặt thứ hai là tha hóa, nhất là khi chưa đủ cơ chế kiểm
soát. Quyền lực tha hóa ngay trong khâu sắp xếp, phân chia quyền lực.
Một cháu bé mới đi học lớp 1 về nhà bảo
ông ngoại: Ông ơi, ông “chạy” cho cháu làm lớp trưởng. Vậy là
tiêu cực đã vào trong văn hóa và giáo dục, không khéo nó sẽ truyền nối
sang đời sau.
Cần đổi mới
căn bản công tác cán bộ, bắt đầu từ phương pháp lựa chọn. Thay vì sắp
đặt thì nay chuyển sang tranh cử, mà tranh cử thực chất
chứ không phải hình thức, không phải “quân xanh quân đỏ”, không phải sắp
xếp để bí thư-chủ tịch HĐND tỉnh liên doanh với cán bộ trưởng phòng của
cấp sở. Người tham gia tranh cử phải tự nguyện ra ứng cử, đừng để sau
này khi không hoàn thành nhiệm vụ bị phê phán thì bảo là do tại cấp ủy
phân công. Ứng cử viên phải trình bày chương trình hành động, tranh luận
công khai trực tiếp với ứng cử viên khác. Trước đó là mở rộng dân chủ
trong ứng cử đề cử. Có ý kiến hỏi vậy thì tổ chức đảng lãnh đạo công tác
nhân sự như thế nào? Lãnh đạo chứ đâu phải áp đặt. Sự lãnh đạo ấy bảo
đảm cho cuộc bầu cử thật sự dân chủ, minh bạch, không có gian dối, không
có “lợi ích nhóm” mua bán đổi chác; lãnh đạo về tiêu chuẩn và phát hiện
nhân tài để giới thiệu ra tham gia tranh cử bình đẳng với các tổ chức
đoàn thể khác.
Trong lý luận
của Marx có nói lãnh đạo cách mạng nên là giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiến bộ nhất. Lý luận ấy có cơ sở khoa học, nhưng sau đó
tiếp tục phát triển và cho rằng giai cấp tiến bộ nhất trong thời kỳ tư
bản đại công nghiệp là giai cấp công nhân. Sự phát triển này không sai
nhưng chưa đầy đủ. Một mình giai cấp công nhân không thể tạo ra phương
thức sản xuất đó, mà phải cộng với vai trò của các nhà tư bản với tư
cách là những người tổ chức và quản trị các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Vậy mà trước đây có thời kỳ ta đã định loại bỏ vai trò của họ. Trong
thời đại kinh tế tri thức ngày nay, vai trò của tầng lớp trí thức có ý
nghĩa quyết định và sẽ tiếp tục ngày càng quan trọng hơn. Cho nên rất
cần thiết phải nâng vai trò của tầng lớp ấy (trí thức) lên trong lãnh
đạo cách mạng, cộng với vai trò của công nhân hậu công nghiệp và
các doanh nhân yêu nước, gương mẫu để tham gia dẫn dắt cộng đồng.
Ta yêu cầu cán
bộ phải học Hồ Chí Minh là đúng, nhưng cách làm nào cho hiệu quả, không
lang mang và hình thức thì cần phải tiếp tục suy nghĩ. Tư tưởng HCM tựu
trung lại một điểm quan trọng nhất là “Dân là gốc”. Trước HCM, từ thời
nhà Trần, nhà Lê đã có tư tưởng “Dân vi bản”. Cũng dân là gốc nhưng khác
nhau cơ bản ở chỗ đó là thần dân, dân của trẫm, còn chỉ có vua mới là
chủ. Tư tưởng HCM coi dân là người chủ, làm chủ, nắm mọi quyền lực. Đạo
đức HCM là vì dân. Người nói “Tôi hiến dâng đời tôi cho dân tộc tôi” và
suốt đời Người đã phấn đấu để làm như vậy. Phong cách HCM là trọng dân.
Người bảo phải kính trọng và lễ phép với nhân dân (chứ không phải cai
trị, ức hiếp hay quan liêu hách dịch). Vậy học tập tư tưởng, đạo đức,
phong cách HCM tựu trung lại là sống với dân. Một chữ DÂN viết hoa và in
đậm. Đó là việc quan trọng nhất, tập trung vào đó để học và làm cho
thật tốt, còn các giá trị khác thì để giành cho công việc nghiên cứu và
triển khai theo các chuyên đề phù hợp. Học tập HCM không nên theo kiểu
một phong trào chính trị rộng lớn và mạnh mẽ, mà phải là một loại hoạt
động văn hóa chiều sâu. Không cần phải nói nhiều dễ gây nhàm chán, mà
phải chuyển tải và làm lan tỏa các giá trị gây xúc động lòng người, còn
chủ yếu là làm - bằng hành động thực tế.
Nhân cách quan
trọng nhất của người cán bộ là tính trung thực. Không có trung thực thì
không có trung thành và dễ chuyển thành kẻ cơ hội. Không có tự do tư
tưởng và ngôn luận thì cũng không có trung thực, vì người ta nói ra
những suy nghĩ thật của mình họ sợ bị quy chụp quan điểm. Nói dối là vũ
khí tự vệ mà. Có trung thực sẽ có tự trọng. Có tự trọng sẽ ít tham nhũng
và suy thoái ./.
Quảng Nam ngày
29.7.2020 |