LUẬT KHOA
Câu chuyện cải
lương, câu chuyện Việt Nam Cộng hòa
Sự suy tàn
của hai biểu tượng một thời rực rỡ.
Võ Văn Quản
“Trong các vở cải lương, khán giả chỉ muốn nghe phần hát, vọng cổ. Nhiều
nghệ sĩ phô trương độ dài của hơi thở bằng cách hát hàng trăm từ trong
một hơi, nhưng không thể hiện được nội dung gì.
Hành vi, cử chỉ của người diễn thường sáo rỗng hoặc theo thói quen, họ
thậm chí còn không cố gắng thể hiện cảm xúc nhân vật hay bối cảnh thực
tế.
Mặt khác, họ trưng bày sự xa hoa sặc sỡ của các bộ quần áo mới của đoàn
hát, họ phô trương vẻ trẻ đẹp của dàn diễn viên, nhưng khi diễn thì
không làm gì hơn là để lộ vài phần cơ thể để chọc cười rẻ tiền […]”
Hoàng Như Mai, một
học giả nhà nước có tiếng, bình luận như vậy trong bài viết “Sân khấu
các tỉnh phía Nam trong mười năm qua”, thuộc quyển “Mười năm xây dựng
nền văn hóa mới, con người mới tại miền Nam (1975-1985)” (*). Đây là một
dạng báo cáo tổng kết quen thuộc trong mọi lĩnh vực để đánh giá liệu con
người của vùng đất mới bị chinh phạt đã có những “tiến bộ” gì để bắt kịp
với văn hóa chủ nghĩa xã hội hay chưa.
Trớ trêu hơn, Hoàng
Như Mai vẫn thường được tụng
xưng là “người thầy giáo”, “người đóng góp lớn” cho sự “phát triển”
của cải lương miền Nam.
Góc nhìn của ông
cho thấy phần nào góc nhìn của nhà nước Việt Nam nói chung đối với cải
lương, cũng như cách tiếp cận của họ với bộ môn nghệ thuật này.
Cải lương vẫn
thường bị các trí thức cộng sản phê phán là một hình thức sân khấu lai
căng, thừa mứa và ủy mị. Nhưng mặt khác, họ cũng nhận thấy ở cải lương
khả năng thao túng cảm tình đám đông để xây dựng tính cách xã hội chủ
nghĩa.
Sự lo ngại của Đảng
Cộng sản trước năng lực tạo nên bản sắc danh tính riêng ngoài danh tính
xã hội chủ nghĩa và tính trung hòa lịch sử của cải lương trước các lực
lượng ngoại bang từ Trung Quốc, Pháp đến Hoa Kỳ lý giải phần nào mong
muốn kiềm chế và “cải tổ” cải lương ngay sau 1975.
Khác với hình ảnh
huy hoàng, danh giá; khác với tiếng tăm và khả năng làm giàu của các
đoàn cải lương trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, cải lương đương đại đã
đi đến thời khắc cuối cùng của nó. Cải lương giờ đây chỉ có thể sống
lang bạt ở các viện bảo tàng và các chương trình bảo tồn di sản, thay vì
đóng góp tích cực vào việc định hình danh tính, tâm tư và ý chí riêng
của một cộng đồng dân cư như nó đã từng.
Cái kết của cải
lương và Việt Nam Cộng hòa, dù khác thời điểm, nhưng cùng chung đâu đó
đều là câu chuyện về sự suy tàn của một cộng đồng từng phát triển rực
rỡ.
Cải lương và Việt
Nam Cộng hòa: kết tinh riêng độc đáo của miền Nam Việt Nam
Khái niệm “cải
lương” trong tiếng Việt khó hiểu hơn là thuật ngữ tiếng Anh tương
đương của nó. Trong tiếng Anh, cải lương được gọi là “reformed opera”
hoặc “renovated theatre”, chỉ một hình thức hát kịch sân khấu cải cách.
Nhưng cải cách từ đâu?
Có ba nguồn ảnh
hưởng chính của cải lương.
Trước tiên, dễ nhận
thấy và dễ hiểu, là từ hát bội của Trung Quốc.
Hát bội được cho là
phát triển tại Việt Nam từ sau khi Trần Hưng Đạo đánh bại lực lượng quân
Nguyên giai đoạn 1228 – 1330. Trong số các tù binh nhà Trần bắt được, có
một nghệ sĩ người Hoa theo hình thức hát bội (zaju) tên là Lý Nguyên Cát
được giữ lại để dạy và phát triển hình thức nghệ thuật này tại Việt Nam.
Trong nhiều thế kỷ
sau đó, hát bội tiếp tục phát triển tại Việt Nam với sự nhập khẩu của
nghệ thuật hát bội từ Trung Quốc. Hình thức nghệ thuật này tương tác với
văn hóa Chăm (vốn trở thành một phần của Việt Nam vào thế kỷ 15) và tạo
nên một số biến thể địa phương mới như “hát nam”.
Cải lương vay mượn
phong cách sân khấu, sự khoa trương thậm xưng của diễn xuất, cảm xúc, và
sự nhấn mạnh vào hình thể của hát bội để tạo nên diện mạo của mình.
Về âm nhạc, cải
lương sử dụng nguồn âm nhạc và ngôn ngữ thuần túy Nam Bộ.
Được biết đến với
tên gọi “nhạc tài tử”, hoặc trước đó là “ca ra bộ”, âm nhạc trong cải
lương có gốc là kiểu hát kịch có cử chỉ – một cách kể chuyện với âm
nhạc. Ca ra bộ được người Pháp ghi nhận đã xuất hiện trong nhiều buổi
gây quỹ địa phương hoặc trong các chương trình tạp kỹ tại Nam Kỳ từ đầu
những năm 1900.
Cuối cùng, lối dẫn
chuyện và phong cách kịch nói thì rõ ràng là chịu ảnh hưởng của chính
kịch Pháp, từ kinh nghiệm dàn dựng sân khấu (hậu đài lẫn tiền đài), cách
trang điểm, bối cảnh và kỹ thuật dẫn chuyện.
Cùng lúc đó, các
sản phẩm âm nhạc cải lương là sự kết hợp liên hồi của ngôn ngữ, nhạc cụ
và bối cảnh Tây – Hoa – Ta.
Ta thử lấy ví dụ về
bài vọng cổ Dạ
Cổ Hoài Lang của Cao Văn Lầu, tác phẩm được sáng tác vào năm 1918.
Ngôn ngữ trong tiêu đề và lời ca vừa đậm tính Hoa, vừa đậm tính Việt.
Trong khi đó, nhạc cụ được sử dụng thì vô cùng đa dạng, với sáo, tiêu,
đàn tranh, đàn bầu cho đến guitar và violin.
Theo cách nói của
Vương Hồng Sển trong quyển “Hồi ký 50 năm mê hát”, cải lương là cách con
người Nam Bộ chôn giấu niềm yêu nước trong những năm tháng thuộc địa,
nhưng cũng đồng thời là cách để thỏa hiệp và tìm niềm vui trong xã hội
mới.
Đâu đó, chúng ta
cũng thấy trong Việt Nam Cộng hòa sự pha trộn, thỏa hiệp cũ – mới của
cải lương.
Chúng ta thường
được nghe rao giảng rằng chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có tính
chính danh lịch sử sau Đệ nhị thế chiến, nhưng thực tế thì không hề đơn
giản như vậy.
Hiệp định Sơ bộ
Pháp – Việt (Franco – Vietnam Agreement 1946, hay Ho – Sainteny
Agreement) xác
định rõ Pháp thừa nhận chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền
Bắc (VNDCCH) có tư cách là một nền cộng hòa độc lập thuộc Liên bang Đông
Dương (Indochinese Federation), một thành viên không thể tách rời của
Liên Hiệp Pháp (French Union). Tuy nhiên, hiệp định này cũng chỉ giới
hạn chủ quyền của VNDCCH tại Bắc kỳ (Tonkin); phần còn lại gồm Trung kỳ
(Annam) và đặc biệt là Nam kỳ (CochinChina) thì vẫn còn danh nghĩa thuộc
địa của Pháp.
Ai vi phạm Hiệp
định Sơ bộ là một câu chuyện mà cả hai phía đều cáo buộc nhau, nhưng rõ
ràng đến cuối cùng, VNDCCH vẫn thừa nhận mình chỉ có thẩm quyền khu vực
phía Bắc, và từ bỏ nỗ lực đại diện cho một Việt Nam thống nhất, ít nhất
là trên phương diện công pháp quốc tế.
Trung Kỳ và Nam Kỳ,
vì vậy, vẫn còn mang danh nghĩa thuộc địa của Pháp.
Vì thế khó này, ở
Nam Kỳ, con đường đấu tranh đòi độc lập chủ yếu phải thông qua con đường
chính trị và thỏa hiệp. Trong đó, không thể xem nhẹ những nỗ lực của các
gương mặt như Nguyễn Văn Xuân hay cựu hoàng Bảo Đại.
Kết tinh của quá
trình này là Hiệp định Elysee (Elysee Accords) năm 1949. Đây là tập
hợp của nhiều thư trao đổi giữa Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent
Auriol.
Hiệp định thừa nhận
một số điểm cơ bản như:
(i) danh nghĩa
thuộc địa của Nam Kỳ sẽ phải bị xóa bỏ (và đã được Quốc hội Pháp trầy
trật thông qua sau đó);
(ii) lần đầu tiên
Pháp đồng ý thống nhất cả ba kỳ với tên gọi chung là Việt Nam;
(iii) chấp thuận
trao lại chủ quyền (như dân sự, kinh tế, tư pháp, hành chính…) cho một
chính phủ thống nhất đại diện cả ba miền. Tuy nhiên, các vấn đề về tài
chính và quân sự vẫn còn phụ thuộc vào Pháp, lý giải bằng mối quan hệ
với Liên hiệp Pháp.
Từ đó, Quốc gia
Việt Nam (State of Vietnam) cũng có tính chính danh hình thức không kém
cạnh so với VNDCCH, đặc biệt theo góc nhìn công pháp quốc tế.
Cải lương và Việt
Nam Cộng hòa: “Bật tận gốc, trốc tận rễ”
Cái chết của Việt
Nam Cộng hòa là hệ quả lộn xộn của địa chính trị quốc tế khó lường
trước, nhưng cái chết của cải lương là một kết quả có thể dự báo.
Nhiều người cho
rằng cải lương tự thân nó đã lỗi thời, không còn hấp dẫn, không thể cạnh
tranh thì tự nhiên phải chết.
Nhưng nếu vậy thì
điều gì xảy ra trước 1975, lúc cải lương vẫn có dư đất sống giữa thời
điểm nhạc Âu – Mỹ đã rất phổ biến tại miền Nam, và hàng loạt thể loại
nhạc Việt và các tác giả Tây hóa cũng đã được công chúng đón nhận? Nếu
phải chết, tại sao cải lương không chết dần từ lúc đó?
Văn hóa, đến cuối
cùng, tồn tại dựa vào cộng đồng gầy dựng và nuôi dưỡng nó.
Từ công cuộc “cải
cách văn hóa” nhằm “tái xây dựng” miền Nam với việc cấm nhạc vàng, cấm
tác phẩm văn chương và sách vở nổi tiếng trong giai đoạn Việt Nam Cộng
hòa, đẩy hàng triệu cư dân thành thị về các khu kinh tế mới và trại cải
tạo, rồi kế đó là cuộc trốn chạy lịch sử của hàng trăm ngàn cư dân miền
Nam Việt Nam, nền tảng văn hóa và cộng đồng văn hóa của vùng đất khốn
khổ này hoàn toàn đứt gãy.
Trong bối cảnh đó,
sự thù ghét của các nhà văn hóa cộng sản dành cho cải lương còn rõ hơn
ban ngày.
Các tác giả như Trần Hữu Tá, Trà Linh, Hòa Lục
Bình khá đồng thanh trong việc phê phán và chê bai cải lương trong một
loạt các tác phẩm đả kích, mà khét tiếng nhất phải kể đếnVăn
hóa – Văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy.
Từ việc gọi cải
lương là công cụ để “đồi trụy hóa” con người cho đến việc cáo buộc cải
lương là chỉ dấu của một nền văn hóa thực dân lai căng dị bản, các chiến
sĩ trên mặt trận văn hóa xã hội chủ nghĩa từ lâu đã xem cải lương là tội
đồ.
Một lần nữa, theo
cách nói của Hoàng Như Mai, cải lương là điển hình mô tả những gì “rẻ
tiền, dơ bẩn và tội lỗi” của xã hội tư sản mại bản, là một sản phẩm văn
hóa “giả nhái”, “vô giá trị”.
Sau năm 1975, với
cộng đồng thưởng thức đã tan rã, và với những người “làm văn hóa” thù
hận cải lương đến cực đỉnh, cải lương mất đi cả nền tảng văn hóa lẫn cơ
hội chính sách để sống một cách đúng nghĩa.
***
Đây có thể là một
nhận định khiến người nghe cải lương gần bốn thập niên trở lại đây phật
lòng, nhưng cải lương sau 1975 không còn chút sức sống tự thân nào.
Tinh thần không
còn. Con người không còn.
Tác giả không còn.
Khán giả không còn.
Với công cuộc quốc
hữu hóa cải lương và các đoàn diễn, sự áp đặt của những danh hiệu như
“nghệ sĩ ưu tú”, “nghệ sĩ nhân dân”, cùng với sự thù ghét cải lương sẵn
có của các nhà hoạch định văn hóa, hình thức kịch nghệ độc đáo một thời
đã bị thao túng và trở thành công cụ để nhà cầm quyền sử dụng, cho đến
khi nào hết dùng được thì thôi.
Riêng cái hạn dùng,
có lẽ đã đến từ vài thập niên trước.
(*) Nhận định của
Hoàng Như Mai được dịch lại từ tiếng Anh sang tiếng Việt, theo trích dẫn
trong nghiên cứu A
Personal Sorrow: “Cải Lương” and the Politics of North and South Vietnam của
tác giả Khai Thu Nguyen, đăng trên tạp chí Asian Theatre Journal năm
2012. Người viết không tìm được bản gốc của tác phẩm tiếng Việt được
trích dẫn.
|