Sài Gòn Nhỏ https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/thay-doan-quoc-sy-khu-rung-lau-da-tram-tuoi/
Thầy Doãn Quốc Sỹ – “Khu Rừng Lau” đã trăm tuổi
Nguyễn Công Khanh
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm
nay tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay
tôi cũng đã 87. Tính ra năm thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm
rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”,
dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không
gọi là “Giáo sư” như những năm sau này. Mà người đi học
thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”.
Thầy dậy tại trường Chu Văn An năm nào thì tôi được học thầy
năm đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng tiểu sử của thầy trên
mạng Wikipedia cho biết thầy chỉ dậy ở trường Chu Văn An có một
năm 1952-1953, sau khi thầy dậy ở Nam Định một năm 1951-1952. Trang
mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 1954, đoạn sau lại ghi
thầy dậy trường Trần Lục tại Sài Gòn năm 1953-1960. Tôi không
nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn
vào Sài Gòn trước năm 1954. Không hiểu niên học 1953-1954, trước
khi di cư thầy dậy ở đâu. Chắc phải kiểm chứng lại mạng này,
và đó là một câu hỏi tôi cần tìm hiểu.
Trường Chu Văn An là hậu thân của trường Bưởi. Trường Bưởi ở
khu Hồ Tây, bên cạnh đường tầu điện từ bờ Hồ Hoàn Kiếm qua
Thụy Khuê đến trạm cuối là chợ làng Bưởi. Tôi chưa được vào
xem trường này, chỉ ngồi nhìn từ trên xe điện. Nhất là sau này
trường bị chiếm và là hậu cứ của lính nhẩy dù Pháp.
Trường Bưởi không còn nữa, và để thay thế, trường Chu Văn An
được thành lập sau khi thành phố Hà Nội được vãn hồi an ninh.
Trong đời, tôi chưa thấy một trường trung học nào như thế. Bây
giờ muốn kể lại chuyện mà đầu óc ngày càng rỗng, thiếu chữ
nghĩa để nói về ngôi trường đó, về cơ sở, về tổ chức, về
những vị thầy cũng như cung cách về nền giáo dục và bọn học
trò như chúng tôi.
Trường tọa lạc tại đường Đỗ Hữu Vị, trước cổng thành Thăng
Long, Cửa Bắc mà tôi đã có vài lần đến xoa tay vào mấy vết
đại bác do quân Pháp bắn vào chân tường thành trong thế kỷ
trước mà hai vị tướng trấn thủ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu
đã phải tuẫn tiết theo thành.
Nhà tôi ở khu Hàng Bún, ngôi nhà hai tầng ở góc đường Yên Ninh
và Phạm Hồng Thái, phía bên kia là khu Nhà Đèn, tức là nhà
máy điện lớn của thành phố. Nhiều hôm, nhà máy nhả khói. Bụi
than bay khắp vùng, phủ đen dưới đáy các chậu nước. Lần về
thăm căn nhà cũ năm 1994, thấy cảnh nhà máy này bị bom san
bằng, chính xác đến nỗi mà các khu phố xung quanh không bị xuy
chuyển. Hồi đi học, tôi thường đi bộ ngang qua phố hàng Bún,
ngang qua đường Quan Thánh, tới đường Đỗ Hữu Vị quẹo trái là
tới ngay trường.
Trường là một cơ sở đồ sộ đã được xây từ lâu thời Pháp
thuộc, nghe nói trước là trường Bách Nghệ, huấn luyện các thợ
chuyên nghiệp. Qua cổng chính của trường là một nhà “gác gian”.
Sân trường rộng mênh mông, có cả sân bóng đá, sân bóng rổ,
sân bóng truyền và các lối đi rộng rãi, hai bên trồng hai hàng
cây lim, cây sấu cổ thụ.
Mùa hè, ve kêu inh ỏi. Đi vào phía bên trái, là khu “nhà chơi”,
mà chúng tôi thường gọi tên tiếng Pháp là “Préau”. Nhà
chơi đặt nhiều bàn pingpong, và có một vài hàng bán quà ăn
vặt. Mùa mưa, giờ ra chơi, chúng tôi thường tụ tập ở đó. Nhớ
nhất là những buổi sáng mùa Đông lạnh cóng, tôi thường mua
bánh mì nóng hổi với nhân chả bò rắc thêm muối tiêu, ngon đến
nhớ đời.
Tòa nhà lớn ba tầng chạy dài, phải dùng đến ba cầu thang. Cầu
thang chính ở giữa tòa nhà và hai cầu thang ở hai đầu, mà cầu
thang nào cũng bằng gỗ trắc, bóng nhẵn như ở các dinh thự.
Hành lang trên các tầng rộng rãi, nhìn xuống sân. Các phòng
học thì khỏi nói. Trường lại có một phòng thí nghệm trang bị
những chai lọ hóa chất, ống nghiệm và một phòng hội họa mà
mỗi học trò đều có một giá vẽ như một họa sĩ thứ thiệt.
Nhưng phải nói đến cái cung cách của học đường ngày đó, cái
cung cách được phối hợp của nền giáo dục Đông Phương và Âu Tây
của người Pháp mang đến. Không có cái tình trạng bát nháo như
ngày nay.
Tôi còn nhớ rõ, ngày thầy Sỹ xuất hiện tại trường, thầy khác
hẳn với các thầy khác. Thầy Xán hiệu trưởng, thầy Thận giám
học, thầy Phụng tổng giám thị, các thầy dậy khác, suốt niên
học đều mặc đồ bộ, complet cà-vạt, giầy bóng , đi đứng nghiêm
trang. Học trò hầu hết đều ngoan ngoãn chăm chỉ học hành, nhưng
vẫn có những bọn quỷ quái.
Đặc điểm của mỗi thầy làm tôi còn nhớ mãi từng thầy. Thầy
Hải dậy Cổ văn, tóc đen trải brillantine bóng nhẫy, học trò
thường bảo nhau ruồi mà lỡ đậu xuống cũng phải té nhào. Thầy
Sửu, ở Anh mới về, thầy trông giống hệt Mr. Pickwick trong sách,
bụng thầy hơi mập và đeo giây lưng choàng qua vai, nói giọng đặc
“Ăng Lê”.
Thầy Loan dậy Pháp văn, trông rất dữ, thầy thấp người, lông mày
dài quặp xuống, trông như tướng cọp. Mùa Đông lạnh, thầy mặc
hai quần, nhiều khi quần trong thò ra khỏi quần ngoài, không có
một đứa học trò nào dám hó hé, buồn cười mà không dám nhúc
nhích, ngồi im thin thít. Tội nghiệp cho mấy trò nhỏ ngồi bàn
trên, có đứa sợ ướt cả ra quần. Cụ Cử Tiếp, cụ mặc áo dài
the đen, đội khăn xếp, hình ảnh của thời tàn Nho.
Cụ dậy Hán Văn là môn phụ lại khó học, khó nhớ từng nét
chữ, mỗi lần cụ gọi đứa nào lên bảng trả bài bằng cách viết
trên bảng những chữ cụ dậy, hầu hết cứ đứng ngớ ra, phải chờ
bọn ở dưới viết chữ đằng sau cái cặp da, khi cụ ngoảnh đi thì
giơ lên để nó chép vội lên bảng. Có vài đứa khờ chép mãi
không nổi, khiến bọn ở dưới cứ phải giơ cặp lên, kéo cặp
xuống nhiều lần như một trò chơi “Đi dấu đi tìm” với cụ
mà cụ không biết.
Thầy Tấn dậy bài “Nhật thực Nguyệt thực”, mà ra đề thi
đúng bài này, mấy đứa vẽ họa đồ không được, bèn tìm cách
trả thù thầy. Mùa Đông thầy mặc quần dạ đen, có thằng quỷ
quái, cạo phấn trắng rắc trên ghế trước giờ học, thầy không
để ý, phấn dính vào quần thầy, thầy thản nhiên đi từ lớp này
đến lớp khác. Thằng quỷ đi rêu rao, quần thầy dính cứt cò…
Nhiều lúc thấy chúng chơi ác, tôi thấy thật tức định gây sự,
nhưng bọn chúng có mấy đứa, nên tôi phải nhịn.
Ai cũng biết, học trò quỷ quái thường sinh ra trong những năm
rỗi rãi không lo việc thi cử, nhất là trong các trường công lập.
Đệ Thất thì còn non, đó là hai năm Đệ Lục và Ngũ, tôi ở trong
các lớp đó, xin các thầy tha tội cho chúng nó. Thầy Hùng Lân
dậy Nhạc, cũng là môn phụ, nhưng không một học trò nào dám
rỡn với thầy.
Thầy rất nghiêm, đứa nào lờn mặt là thầy bắt ngửa tay lấy
thước đánh như học trò tiểu học, thầy gọi là cho mấy hèo và
còn phạt giam “consigne” ngày cuối tuần. Nhưng thầy là
một người dậy nhạc rất giỏi, thầy soạn ra mấy quyển sách
giáo khoa về nhạc rất sư phạm cho bậc trung học. Tôi còn nhớ
một số bài, thầy chỉ cần ba note chính mà thành một bản nhạc
đầy đủ, tình tự, như bài sau đây dùng ba note cung trầm đồ, mi
sol:
“Chiều tà sương lam lắng xuống thôn
Tôi học thầy hai năm, tuy ít giờ, nhưng tôi có được căn bản nhạc
lý khá vững. Tôi được thầy chọn vào ca đoàn của trường, có
lần thầy dậy chúng tôi hát bè bài “Hè Về, Hè Về” và
đã được lên trình diễn tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Thầy là một
nhạc sĩ nổi tiếng từ hồi 1945, với hai bài tôi thường hát
hàng ngày với toán nhi đồng cứu quốc trong phố là “Việt Nam
Minh Châu Trời Đông”, và bài “Khỏe Vì Nước”.
Bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một trong ba bài, bài
“Này Công Dân Ơi”, bài “Chào Mừng Việt Nam”,
không phải bài “Việt Nam, Việt Nam” như mọi người thường
hát, được đưa ra để chọn làm Quốc ca khi miền Nam mới được
thành lập chế độ Cộng Hòa năm 1956. Tiếc rằng ban tuyển lựa
đã không có lập trường quốc gia vững chắc và dứt khoát với
quá khứ nên đã giữ bản quốc ca cũ. Bản Việt Nam Minh Châu
Trời Đông của thầy lời uy nghiêm, thấy cả một đất nước
lừng lẫy bên biển Thái Bình… Tôi cho đó là một điều đáng
trách.
Thầy Doãn Quốc Sỹ thì khác hẳn, ngày đầu đứng trên bục gỗ
dáng cao và gầy, tóc hơi quăn tự nhiên, nét mặt xương xương,
người hãy còn đượm nhiều nét phong sương của những năm dài theo
kháng chiến. Thầy giản dị, thường mặc y phục mầu nhạt, nếp
không thẳng và hình như ít thấy thầy mặc complet cà-vạt như
các thầy khác.
Thầy dậy Việt Văn, và thêm môn Công Dân Giáo Dục. Cách thầy dậy
môn này khá hấp dẫn, khác hẳn với các lời giảng khuôn mẫu
cổ điển của luân lý mà các thầy khác dậy trong những năm học
trước. Tôi còn nhớ, khi thầy giảng về Tình Nhân Loại, thầy lấy
một thí dụ trích từ một truyện của ngoại quốc:
Trong một trận chiến khốc liệt, hai bên cùng tràn lên, lẫn lộn
đánh cận chiến, bỗng hai người lính của hai bên cùng nhẩy
xuống chung một cái hố để tránh đạn. Khi cả hai cùng bừng
tỉnh, họ mới nhận ra là kẻ thù của nhau, đáng lẽ họ phải
tìm cách giết nhau, không hiểu sao họ lại cùng ngồi yên và sau
này thành bạn của nhau. Cái nguyên cớ đó từ đâu, có phải đó
là tình nhân loại đã bật dậy trong lúc đó không?
Những năm thầy Sỹ đi theo kháng chíến thì tôi cũng bị cuốn đi
như thầy. Tôi mất bốn năm theo cha tôi, cha tôi theo bên nội, tất
cả bên nội tôi đi theo Việt Minh. Tôi làm liên lạc viên cho một cơ
quan Kinh Tài của Liên Khu 3, còn cha tôi vì biết tiếng Pháp nên
làm cho cơ quan Địch Vận thường phải ở sát vùng tề, vùng
địch.
Họ ngoại tôi thì theo Quốc Gia, về thành, tức là về Hà Nội
rất sớm. Người em út của mẹ tôi, cậu tôi Ngô Kim Cương, đỗ “diplome” tại
trường Bưởi, xin vào làm thông phán Phủ Toàn Quyền đã lâu hồi
còn Pháp đô hộ, theo Quốc Dân Đảng bị bắt ngay sau ngày Việt
Minh cướp chính quyền. Sau đó được giải cứu và lên chiến khu
Yên Bái, chỉ sau một tháng, Việt Minh đem quân bao vây san bằng
chiến khu. Cậu tôi biệt tin từ đó.
Cha tôi là cán bộ xa nhà, không nuôi nổi
gia đình. Mẹ tôi qua những năm vất vả tại hậu phương, lại phải
một mình lặn lội tìm đường về Hà Nội trước, sau đó mới ra
đón cha con tôi về. Nhờ thế tôi đã bỏ được “Bác”, nếu
không thì sẽ trở thành một tên thất học, và rồi chắc cũng
khó tránh được cảnh “Sinh Bắc Tử Nam”.
Tôi thuộc loại học trò lớn tuổi trong lớp vì hồi cư trễ, lại
phải trải qua những năm loạn lạc vừa qua. Tôi lớn hơn 3, 4 tuổi
so với các trò khác và thường phải ngồi ở bàn cuối lớp. Tôi
học dễ dàng, và cũng chưa bao giờ chuyên chú thật sự vào việc
học, nhất là cũng chẳng bao giờ muốn đứng đầu nhất nhì lớp.
Tôi lại có nhiều bạn. Các bạn cùng lớp còn lại sau này, có
Nguyễn Thượng Hiệp, Hiệp tài hoa, có một thời làm báo tại
Cali và đã mất.
Đỗ Hữu Tước thành bác sĩ, ở cùng thành phố với tôi và thỉnh
thoảng vẫn gặp nhau tại chùa. Nguyễn Ngọc Giao, học khá giỏi,
thường đứng đầu lớp. Tôi nhớ hồi đó hay cùng Giao, Hiệp và Ngô
Quang Vỹ thường họp nhau tại Vườn Bách Thảo để làm bích báo
cho lớp. Vào Sài Gòn, Giao được học bổng du học Pháp năm 1958,
thân Cộng rồi theo Cộng làm tờ Diễn Đàn ở Paris.
Sau khi khối Liên Xô tan rã và Hà Nội không cho Giao về nước,
bạn tôi Hà Dương Dực nhân dịp sang Pháp có mang một câu hỏi của
người anh Giao, một sĩ quan cao cấp Hải Quân muốn hỏi Giao là
“Hỏi nó còn theo Cộng Sản không?”. Trong một bài viết, Giao có
thuật lại chuyện này và trả lời thẳng thắn là vẫn theo chủ
nghĩa Cộng Sản, bài này tôi đọc được trên báo Diễn Đàn của
Giao. Khi Dực mất, tôi có viết một bài về Dực và cũng nhắc
lại chuyện đó.
Bài này có đăng trên Diễn Đàn Thế Kỷ và tôi cũng gửi cho Giao,
Giao không đăng trên Diễn Đàn nhưng lại trả lời tôi bằng email
thông thường như những người bạn cũ được tin nhau. Đó là lần
đầu và cũng là lần cuối chúng tôi liên lạc với nhau. Thấy
thật ghê sợ, cái chất độc, độc hơn ma túy, tiêm vào một số
người khiến không tỉnh được, và đã làm cho đất nước ngày càng
có nhiều chuyện quái đản. Nhưng những tháng vừa qua, tôi theo
dõi tờ Diễn Đàn, thấy trang mạng của Giao đã đổi chiều với
nhiều góc độ lớn.
Một người bạn khác là Nguyễn Đắc Điều cùng thời, anh không
học cùng lớp với tôi, anh học B3, tôi B4, nhưng khi vào trường
Hành Chánh và Đồng Đế, anh cùng khóa với tôi trong một thời
gian dài. Anh có một trí nhớ rất tốt, tôi thường gọi nói
chuyện với anh, những chuyện bạn bè ngày nay, ngày xưa, mỗi
lần hỏi anh đều trả lời cặn kẽ, ít khi sai. Hiện nay vợ
chồng anh ở San Diego.
Hồi đó, nhờ thầy Hùng Lân tôi rất thích âm nhạc, bao nhiêu bài
nhạc xuất bản hồi đó, tôi đi mượn nắn nót chép lại thành 5, 6
quyển sách dầy cộm. Tôi chơi đàn mandoline, manjo và Hạ Uy Di,
những thứ đàn có thể tự học lấy, ngày nay còn rất ít người
chơi. Tiếng đàn của tôi văng vẳng trong khu phố với những bài
như Dư Âm, Trăng Mờ Bên Suối, Nụ Cười Sơn Cước... cùng
những bản của hồi đầu kháng chiến như Bên Cầu Biên Giới,
Tình Kỹ Nữ… trữ tình ướt át làm một cô học trò hàng xóm
xấp xỉ tuổi tôi, để ý đến tôi. Cô thường đi qua và dừng lại
chỗ cửa sổ nghe tôi đánh đàn. Chắc cô mê tiếng đàn của tôi.
Nhưng tôi đã không trở thành nhạc sĩ nên duyên nợ chẳng đi đến
đâu. Tôi nghĩ vậy.
Về Việt văn, thầy Sỹ dậy chúng tôi về văn mới, những ý
tưởng mới, khác hẳn với cổ văn như “Nhị Thập Tứ Hiếu”,
“Lục Súc Tranh Công”… Thầy trích những đoạn văn hay, tiêu
biểu của các nhà văn thời Tiền Chiến, khiến tôi rất thích và
tìm đọc tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, của nhóm Hàn
Thuyên và các nhà văn khác như Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh,
Trần Tiêu… và sau này là Đỗ Tốn. Tôi ghiền đến nỗi,
đọc không còn một quyển nào của tiệm cho thuê sách ở góc chợ
Đồng Xuân. Khác với các bạn tôi thường hí hoáy chép các vần
thơ của các thi sĩ nổi tiếng, tôi lại tìm chép những đoạn văn
hay thành một quyển như tôi đã từng chép những bài nhạc.
Tôi không được sống trong thời kỳ văn thơ lãng mạn tiền chiến,
nhưng nhớ lại những năm Hà Nội đó, dù là trong chinh chiến văng
vẳng ở núi rừng xa, vẫn là một thành phố yên bình với những
bài nhạc tôi đã chép, những tiểu thuyết xưa tôi đã đọc, những
hình ảnh của các thành quách, phố cổ rêu phong… trở thành
những tình tự lãng mạn của một thời tiền chiến còn sót lại
khó quên…
Những bài luận văn thầy Sỹ đưa ra trong những năm đó hình như
đều là văn tả cảnh, chứ không tả tình. Thí dụ như thầy ra một
đầu đề là “Tả một đêm trăng sáng tại đồng quê”, đó là
cái “tủ” của tôi rồi. Tôi không đến nỗi láu cá đưa vào
bài những câu mình đã chép lại, thế nào thầy cũng biết. Tôi
viết bằng một giọng văn mới lớn và nhớ lại những ngày loạn
lạc ở vùng quê. Hồi đó tôi nghĩ thầy chưa vào nghiệp văn, nhưng
chắc thầy thấy lạ, nên bài của tôi thường được thầy bảo một
trò khác đọc cho cả lớp nghe.
Nhiều năm sau, năm đậu xong Tú tài I, tự nhiên cảm thấy chán
học, tôi nộp đơn xin vào Không Quân, Hải Quân đều bị người nhà
ngăn chặn. Nhân dịp Việt Tấn Xã tuyển phóng viên, tôi nghĩ mình
cũng có chút tài viết lách, lại thích lang thang như mấy ông
làm báo, khi vào phỏng vấn, ông chủ sự thấy tôi ở năm
cuối Trung Học, ông khuyên tôi trở về học nốt. Nghiệp viết văn
chớm nở của tôi đã tiêu tan.
Trong những năm đầu ở Sài Gòn, tôi hay tìm đọc các tạp chí văn
học thì thấy tên của thầy Doãn Quốc Sỹ đã thành một nhà văn
chính thống được nhiều người biết tiếng. Thầy cho xuất bản
nhiều tác phẩm, tôi đọc gần hết nhưng không hiểu sao tôi lại
thích truyện “U Hoài” và nhân vật “Miên” trong
trường thiên “Khu Rừng Lau” của thầy. Mấy năm sau, tôi thi
được vào trường Hành Chánh, một cái nghề “Sáng vác ô đi,
tối vác về”, khác hắn với bản tính của tôi, chắc có lẽ
là học bổng của trường quá hậu đãi.
Sau khi tốt nghiệp, tưởng được kéo cái đời ký cóp ở Sài Gòn,
không ngờ Tổng thống Diệm đổi chính sách khiến một nửa khóa
được đưa vào Trung Ương Tình Báo, còn một nửa khóa trong đó có
tôi phải ra Đồng Đế để huấn luyện thành Chuẩn Úy, sau đó, tôi
lại được chuyển ra làm phó đảo Phú Quốc. Lúc đó đảo còn
hoang vu và bất an, tôi ở đó ba năm không xin đổi. Tôi đã
mất cả một thời gian dài quên đọc truyện, mất cả một thời
tuổi trẻ lãng mạn nghe nhạc của Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ
Công Phụng… Mãi sau ra hải ngoại mới bắt kịp lại thì đã nửa
đời rồi.
Bao nhiêu thầy dậy tôi trong thời mới lên trung học đó, hầu hết
tôi không còn được tin tức về thầy nào, tôi thấy thương tất cả
các thầy. Chỉ có nghe tin thầy Sỹ bị Cộng Sản bắt giam đến
hai lần, mà lần nào cũng dài đằng đẵng. Cuối cùng thầy cũng
đến được Mỹ và ở Houston, nay rời đến Cali. Mấy năm trước dịch
Covid, tôi bay xuống Cali, được người bạn thân Trần Huy Bích dẫn
đến tham dự một buổi trình diễn văn nghệ tại Hội Việt Học.
Tình cờ tôi gặp lại thầy Sỹ, thầy ngồi ở hàng ghế trên, tôi
lên chào thầy, tôi thấy thầy không thay đổi mấy so với thời mà
thầy dậy tôi, trông vẫn an nhiên chỉ có già thêm thôi. Trong cái
ồn ào của phòng hội, tôi chắc thầy không nghe được tôi nói gì
và cũng khó nhận ra biết tôi là ai. Tôi bèn nói với cô con gái
đi theo thầy, tôi là học trò cũ của thầy từ Hà Nội, thầy
thường cho đọc những bài luận văn tôi viết cho cả lớp nghe.
Tháng vừa rồi, tôi xuống thăm Cali, lại được bạn Trần Huy Bích
cho biết đã đi họp để tổ chức sinh nhật thứ 100 của thầy: “Khu
Rừng Lau” đã trăm tuổi. Tôi càng nhớ thầy, nhớ đến những
năm học xưa, nhớ đến những lần thầy cho đọc bài của tôi, được
thầy khuyến khích như thế mà tôi đã lơ là bỏ mất nghiệp văn,
nếu không tôi đã trở thành một “nhà văn nhớn”.
Tôi ở Seattle, không tham dự được buổi lễ chúc mừng thầy. Xin
kính chúc thầy được luôn luôn vui mạnh. |