Viết văn bằng ngôn ngữ thứ hai Tiểu luận
Hồ Anh Thái
Người viết văn giỏi ngoại ngữ đôi khi
được hỏi rằng họ có viết văn bằng ngoại ngữ hay không?
Thường có ít nhất hai câu trả lời. Phần
nhiều trả lời là không. Một ít người đáp rằng có.
1. Người ta chỉ có thể viết văn bằng
tiếng mẹ đẻ. Đấy là câu trả lời của những người khẳng định rằng họ không
viết văn bằng ngoại ngữ. Văn chương vốn nối liền với dân tộc bằng một
cuống rốn. Sinh ra ở ngôn ngữ nào thì chỉ có thể viết văn bằng ngôn ngữ
ấy. Người ta không viết bằng chữ mà viết bằng tâm hồn dân tộc mình, viết
bằng văn hóa dân tộc mình. Toàn bộ lịch sử, địa lý, chủng tộc… đã hợp
sức để mượn tay nhà văn mà viết ra. Thần bí hóa thì bảo là thần thánh
trên trời mượn tay nhà văn mà viết ra. Người ta không viết ra chữ, mà
viết ra hồn cốt tâm linh văn hóa của dân tộc mình. Tuyệt đối hóa thì coi
tiếng mẹ đẻ là công cụ duy nhất của nhà văn. Đã là ngôn ngữ thứ hai thì
dù có giỏi giang đến thế nào, dù có học và thực hành đến hết đời, cũng
không bao giờ sử dụng được như ngôn ngữ thứ nhất.
Tôi biết một số bạn trẻ giỏi ngoại ngữ
từng có lúc viết truyện ngắn và làm thơ bằng tiếng Anh. Cảm tưởng thực
sự là đang đọc những bài tập làm văn học trò. Một thứ tiếng Anh khô
khan, cứng nhắc, thiếu hình ảnh, thiếu âm thanh, thiếu sắc độ mờ ảo. Một
thứ nỗ lực của học trò theo những khuôn mẫu trong nhà trường. Văn ấy
thiếu sự bay bổng tung tẩy của ngôn ngữ thuần thục thiện nghệ, văn ấy
không hề đem lại khoái cảm ngôn ngữ cho người đọc. Trái lại, nó gây mệt
mỏi và gây thương hại. Có cái gì đó giống như nghe ca sĩ Bắc hát giọng
2. Trong số những nhà văn giỏi ngoại
ngữ, những người không thể viết văn bằng ngoại ngữ chiếm đến 90%, tôi
cho là thế. Nhưng trong 10% viết bằng ngoại ngữ thì thành công không
nhỏ.
Milan Kundera từ năm 1975 sang định cư ở
Pháp, đã thôi viết bằng tiếng Séc mẹ đẻ mà chuyển sang viết tiếng Pháp.
Thành tựu tác phẩm tiếng Séc của ông đã đủ gây được sự chú ý đặc biệt
trên thế giới. Nhưng những tác phẩm quan trọng ở giai đoạn sau của ông
đều bằng tiếng Pháp. Dù vẫn có người cho rằng việc viết tiếng Pháp đã
kìm giữ tài năng của Kundera ở mức độ nhất định, thì vẫn phải thấy rằng
những tiểu thuyết, đặc biệt là những tập tiểu luận bằng tiếng Pháp của
ông vẫn là hiện tượng được giới văn chương chờ đón.
Cao Hành Kiện sang Pháp muộn hơn, đến
năm 1998 mới được cấp quyền công dân Pháp, và cũng chuyển từ tiếng Trung
sang viết bằng tiếng Pháp. Tiếng Pháp của ông nghe đâu để viết kịch là
chính, và kịch là mảng quan trọng của nhà văn này. Kundera chủ yếu dùng
tiếng Pháp để viết tiểu luận, Cao Hành Kiện chủ yếu dùng tiếng Pháp để
viết kịch. Liệu có phải khi dùng đến ngôn ngữ thứ hai, không phải là
tiếng mẹ đẻ, hai ông lớn văn chương dường như cũng hơi né tránh tiểu
thuyết và truyện ngắn, những thứ chủ yếu phải “viết bằng tâm hồn”?
Nhiều
nhà văn người Trung Quốc sang Pháp sang Mỹ đã thành công khi chuyển sang
viết bằng ngôn ngữ thứ hai. Sơn Táp (Thiếu
nữ đánh cờ vây, Đàn cổ cầm khỏa thân) và Đới Tư Kiệt (Balzac
và cô bé thợ may Trung Hoa) đều viết bằng tiếng Pháp. Cáp Kim viết
bằng tiếng Anh và tiểu thuyết Đợi
chờ gây xôn xao văn đàn nước Mỹ. Trường hợp Cáp Kim thật đặc biệt,
sau khi đi làm nghĩa vụ quân sự ở Trung Quốc, ông mới học tiếng Anh rồi
sau đó di cư sang Mỹ. Người ta chỉ có thể thuần thục ngôn ngữ thứ hai
đến mức dùng nó viết văn nếu như học thứ tiếng ấy trước mười tuổi. Điều
này dường như không đúng với các trường hợp vừa kể, lại càng không đúng
với Cáp Kim, người học tiếng Anh khi đã nhiều tuổi, lại sau khi đã mòn
mỏi ở quân ngũ. Tuổi ấy dùng ngoại ngữ để giao tiếp xã hội đã khó, viết
văn là chuyện càng khó mơ.
Cánh nhà văn gốc Trung Quốc viết bằng
ngoại ngữ có sức hấp dẫn riêng mà nhà văn bản địa Âu - Mỹ không có: đấy
là cái hồn Tàu trong xác Tây. Họ cũng có cái hấp dẫn riêng mà nhà văn
Trung Quốc ở trong nước khó có: đấy là phương pháp tiểu thuyết hiện đại
theo kiểu phương Tây. Cùng một nội dung ấy, nhà văn ở Trung Hoa lục địa
có thể viết một nghìn trang thì nhà văn gốc Hoa chỉ viết vài ba trăm
trang. Lối văn của tiểu thuyết chương hồi dông dài miêu tả phong vũ
giang san bị loại bỏ. Dùng ngoại ngữ để viết, nhà văn không thể miêu tả
tỉ mỉ mây bay gió cuốn, không miêu tả chi li trạng thái tâm lý, mà tâm
lý được diễn tả qua hành vi qua biến cố. Tất cả đã được nén lại. Kiệm
lời. Cái nén và cái kiệm tạo ra nét độc đáo cho tác phẩm của họ.
Nhưng để chứng minh cho việc có thể dùng
ngôn ngữ thứ hai mà viết văn thành công, bằng chứng hùng hồn hơn cả phải
là dòng văn học viết tiếng Anh ở tiểu lục địa Ấn Độ. Salman Rushdie có
một sự nghiệp tiểu thuyết đồ sộ, đặc biệt là
Những đứa con của nửa đêm.
Arundhati Roy với Ông trùm chuyện
vặt (bản tiếng Việt là Chúa
trời của những điều vụn vặt). Kiran Desai với
Di sản của mất mát. R. K.
Narayan với The Financial Expert,
The Guide. Amitav Gosh với
The Shadow Lines,
Sử dụng ngôn ngữ là một thứ tài năng.
Vậy nói cho đến tận cùng: không dùng được ngôn ngữ thứ hai để viết văn
thì nguyên nhân lớn nhất là chưa đủ tài để làm chủ ngôn ngữ ấy. Các nhà
văn giỏi ngoại ngữ nhiều người thực sự có tài văn chương, nhưng cái tài
ngoại ngữ của họ thì chưa đủ độ để viết văn. Không hề gì. Nhà văn trước
hết hẵng viết bằng tiếng mẹ đẻ, đó là đóng góp lớn nhất và phù hợp nhất
của anh ta. Nhà văn trước hết thuộc về dân tộc mình, đi đến tận cùng dân
tộc, anh ta sẽ ra được với thế giới.
Có người bảo: đất nước nào có nhà văn
ấy. Hàm ý nhà văn chỉ được thấu hiểu hơn cả, được chia sẻ hơn cả, được
ưa thích hơn cả ở trên chính đất nước mình. Người hiểu anh ta nhất là
dân tộc mình. Hầu như thế.
Nhưng cũng có trường hợp nhà văn hình
như phải là đứa con ghẻ của dân tộc mình. Nhà văn khi ấy phải là người
chỉ ra được thói xấu của dân tộc mình, như Dostoyevsky, như Lỗ Tấn, như
Elfriede Jelinek... Nhà văn khi ấy cũng phải nổi loạn, không hài lòng
với dân tộc mình mà tìm cách phá bỏ cái cũ và tạo dựng cái mới. Nhưng
đấy là một trường hợp khác, và sẽ được bàn ở một dịp khác.
Văn nghệ quân đội, cuối tháng
4-2019 |