Những kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng
Người báo hiếu cho quê hương
Hè năm nay tôi có dịp đi cùng với gia đình đến thăm nhà văn Võ Hồng ở
Nha Trang. Ông vẫn ở ngôi nhà trên đường Hồng Bàng như từ mấy chục năm
nay, chỉ có khác là số nhà 53 đã đổi thành 51 và hàng chữ
“Kéo chuông gọi Võ Hồng”
đã sửa thành “Nhấn chuông
gọi Võ Hồng”. Nhà văn vừa trở về sau một tháng nằm bệnh viện,
người gầy xanh và như cao hơn. Nhưng trong câu chuyện trên sân thượng
buổi chiều nắng xế, ông chẳng hề đả động gì đến sức khỏe của mình. Một
chút rượu nho do ông tự pha chế như hòa thêm niềm say sưa của chúng tôi
vào những kỷ niệm của nghề dạy học sống dậy trong ông. Ông cho chúng tôi
xem những trang giấy úa vàng được lưu giữ cẩn thận, trong đó ghi lại
những nhận xét mà học sinh một lớp học viết cho nhau theo sự gợi ý của
ông, hay lời tâm sự của một người học trò cũ lưu lạc phương xa, khi gặp
bi kịch, đã viết thư “xin Thầy
hãy cầu nguyện cho con”.
Võ Hồng về hưu đã lâu, nhưng cuộc sống hàng ngày của ông gắn liền không
chỉ với cây bút mà còn cả với viên phấn. Ông viết trên tấm bảng, trên
nền xi-măng để dạy cho mấy đứa cháu nhỏ học chữ Hán, học cách làm thơ.
Trong những cuốn sách của ông xuất bản gần đây, sinh hoạt học đường vẫn
là đề tài vô cùng thú vị và sống động. Thương mái trường xưa có
thể xem là một cuốn cẩm nang đúc kết những kinh nghiệm giáo dục bằng
ngôn ngữ hình tượng. Một bông hồng cho cha, ấn phẩm đẹp ra mắt
vào dịp Vu Lan, cũng là cuốn sách đọc suốt năm dành cho tất cả mọi
người. Ở đây toàn là những câu chuyện dễ khiến người viết lên giọng giáo
huấn, thế nhưng Võ Hồng đã truyền đến ta thông điệp của tình yêu thương
bằng một giọng văn bình dị và trong trẻo như nước suối tuôn ra từ kẽ đá.
Ngồi bên Võ Hồng với đôi mắt lấp lánh và nụ cười hóm hỉnh mà tôi nghĩ
đến tấm ảnh Võ Hồng với gương mặt sầu não đứng cạnh ba người con thơ dại
bên ngôi mộ người vợ vừa khuất. Ba mươi bảy năm nay Võ Hồng gà trống
nuôi con, và khi các con trưởng thành, du học rồi định cư ở nước ngoài,
ông lại một mình với niềm vui lặng lẽ trên trang giấy. Võ Hồng đúng là
một cây rừng trầm mặc như nhan đề một tập truyện ngắn đặc sắc của
ông.
Trên căn gác bừa bộn sách vở, Võ Hồng sống với các nhân vật của mình.
Đặc biệt, những nhân vật nông dân miền Trung của Võ Hồng chắc chắn chiếm
một vị trí quan trọng trong phòng triển lãm hình tượng những người nhà
quê của văn học Việt Nam. Đó là những bà Xự, bà Kinh, lão Túc, ông Trùm
Đạt…, những người trông bề ngoài thật thà, đơn giản nhưng trong tận cùng
tâm hồn luôn luôn ấp ủ một tình yêu sâu nặng đối với đất đai quê kiểng
và chứa đựng một cái gì rất vững chãi của phong hóa Việt Nam.
Năm qua, nhà xuất bản Hội Nhà văn đã ấn hành tuyển tập truyện ngắn Võ
Hồng, đây là tác phẩm phản ánh sinh động những đóng góp của nhà văn cho
văn xuôi hiện đại. Rất tiếc là sách in quá nhiều lỗi. Viết thư cho tôi,
Võ Hồng than phiền: “Mắt tôi kém, sức khỏe kém, mấy hôm rồi dò lại một
mình, vậy mà đã phát hiện hơn 130 lỗi… Nghe nói sách sẽ phân phối về các
thư viện, tôi vui vì bà con miền Bắc đọc và biết sinh hoạt của bà con
miền Nam. Nhưng in sai kiểu này thì nội dung trúc trắc khó hiểu, bạn đọc
nổi xung bỏ sách xuống chứ đâu còn nhẫn nại đọc tiếp”.
Nói Võ Hồng là người viết truyện tình của giới trung lưu như Cao Huy
Khanh cũng đúng. Nhưng những trang văn xúc động nhất của ông vẫn là
những trang viết về quê hương, ông có biệt tài thổi cái hồn vào sinh
hoạt của làng quê miền Trung. Đọc ông, nhiều khi ta ứa nước mắt khi nghe
một tiếng chim chèo bẻo trên cành cây, tiếng giun dế râm ran trong vườn
hay tiếng người gọi nhau í ới trên con đường đầy phân trâu. Võ Hồng vẫn
thường chế giễu cách nói trịnh trọng không phải lối của người bây giờ,
khác với cái giọng nhà quê chân chất mà ông yêu mến và ông sợ rằng vài
ba chục năm sau, cái giọng đó sẽ không còn thuần khiết nữa.
Lưu giữ được những vẻ đẹp thầm lặng ấy, Võ Hồng viết văn rõ ràng là để
báo hiếu cho quê hương. Ông đã thay chúng ta đền đáp những gì mà chúng
ta hưởng được từ thiên nhiên đất nước này.
(Báo
Người Lao Động Xuân Ất Hợi, 1995).
Hoa bươm bướm một mùa hè
Mùa hè năm 1995 là một mùa hè khó khăn đối với tôi. Từ Nha Trang, thầy
Võ Hồng gửi vào một lá thư dài, sẻ chia và an ủi. Cầm lá thư của thầy,
nhìn vào góc trái ở đầu trang, bao giờ cũng gặp một bông hoa với vài
chiếc lá cách điệu do chính tay thầy vẽ bằng bút chì màu. Khi thì một
đóa hồng. Khi một chùm hoa cúc. Khi lại một nhành lan. Để đem thêm một
niềm vui cho người nhận thư – như thầy thường bảo.
Bên trong lá thư lần ấy còn kèm theo một phong bì nhỏ xíu dán kín. Phía
ngoài thầy ghi: “Đây là hạt hoa bươm bướm, em tìm chỗ đất trống, lấy que
xoi từng lỗ nhỏ gieo hạt vào, hằng ngày trông chừng tưới nước, tháng sau
sẽ có hoa”.
Tôi biết đây là thuốc thầy gửi cho tôi. Và tôi làm theo lời thầy
dặn. Trên sân thượng trước phòng làm việc có một bồn hoa, những ngày
căng thẳng và mệt mỏi tôi bỏ bê chẳng thiết gì chăm sóc. Bây giờ tôi xới
đất, gieo hạt và chiều chiều ngồi một mình chờ hạt nẩy mầm. Quả như thầy
nói, chỉ mấy ngày sau những mầm xanh bé tí đã nhú ra và lớn dần lên. Chờ
hơn tháng nữa là hoa nở kín bồn, một màu vàng dịu làm mát lòng giữa mùa
hè nóng bỏng. Cái màu hoa mà tôi chỉ gặp bâng quơ trong tiểu thuyết của
thầy hay lơ đãng bên những bậc thang dẫn lên phòng văn trong ngôi nhà 51
đường Hồng Bàng, giờ đây đã thành bè bạn. Màu hoa đã che chở tôi vượt
qua những phiền trược suốt năm tai ương và nhọc nhằn đó.
Biết ơn thầy, tôi chăm chút giữ gìn cái bồn hoa đã gầy nên từ những hạt
giống vào mùa hè năm ấy. Hoa bươm bướm như con nhà nghèo dễ tính, không
dám đòi hỏi chi nhiều, thân lá mỏng manh mà chịu đựng được cả những cơn
mưa xối xả lẫn những ngày nắng gắt. Hạt hoa rơi vãi xuống đất rồi thi
nhau mọc lên. Cứ lứa hoa này tàn thì lứa hoa khác xuất hiện. Trong khi
mấy chậu bông đắt tiền phải tốn công bón phân, tỉa lá, nhặt sâu thường
xuyên mà vẫn đến lúc cằn cỗi thì hoa bươm bướm cứ điềm nhiên tồn tại. Sự
điềm nhiên đó, không ngờ, cũng lan đến chính tôi, và ngẫm nghĩ lại điều
quý giá nhất mà tôi có được từ bài thuốc này không hẳn là những nụ hoa
rất chóng mãn khai mà là những khoảnh khắc đợi chờ hạt giống nảy mầm và
xanh lên, với một cõi lòng bình thản.
Năm ngoái gia đình tôi chuyển về một căn nhà nhỏ hơn. Những cây hoa đang
nở ở nhà cũ chúng tôi tặng hết lại cho người chủ mới. Nhưng tôi đã kịp
mang theo một nhúm hạt hoa bươm bướm để trong cái phong bì như ngày
trước thầy Võ Hồng gửi vào. Về nhà mới không có bồn hoa lớn, chúng tôi
gieo hạt hoa trong những chậu đất nung đặt trước sân nhà. Và mỗi buổi
sáng, tôi lại có dịp ngồi dõi xem các mầm xanh mọc lên mà ngỡ như một
điều gì đó đã phục sinh giữa cuộc đời và năm tháng đang trôi đi không
ngưng nghỉ này.
(Báo
Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 17, ngày 30-4-2000).
Võ Hồng trong trí
nhớ
Mặc dù có
dịp liên lạc qua thư từ với Thầy Võ Hồng nhiều năm trước, mãi đến mùa hè
năm 1994 tôi mới có cơ duyên gặp ông lần đầu tiên. Lần đó gia đình tôi
hẹn đến thăm ông cùng với các anh chị học viên trong lớp cao học do
Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh tổ chức ở Nha Trang. Lần đầu gặp
ông mà tôi cảm thấy như mình đã quen từ lâu cái dáng người cao ráo mảnh
mai, đôi mắt tinh anh giấu sau cặp kiếng lão, nụ cười hóm hỉnh và giọng
nói Phú Yên thuần chất đó. Đúng như trong hình dung của tôi khi đọc văn
ông và xem tấm ảnh ông đăng trên bìa tạp chí
Văn, ông là một nhà giáo
thuần thành và một nhà văn đôn hậu.
Hai năm sau,
lớp học ấy hoàn thành luận văn và bảo vệ tốt nghiệp ngay tại Nha Trang.
Các thầy giáo từ Sài Gòn ra chấm thi đến thăm và mời ông dự lễ. Đó cũng
là dịp Đài Truyền hình Việt Nam làm cuốn phim về nhà văn, nhà giáo Võ
Hồng. Ông cười vui: “Lâu lắm rồi
qua mới ăn mặc trịnh trọng đi dự lễ như thế này. Sáng nay anh đạo
diễn còn bắt qua đi dạo ngoài
bờ biển để quay phim. Ui chao, từ năm 75 đến giờ
qua mới lại ra biển!”.
Trước
đó khá lâu, khoảng năm 1985 tôi chọn giúp cho nhà xuất bản Cửu Long một
tập sách gồm 15 truyện ngắn của các nhà văn miền Nam. Sau nhiều lần đắn
đo, giữa hàng chục truyện ngắn của Võ Hồng, tôi quyết định chọn
Bên đập Đồng Cháy. Nhưng văn
bản mà tôi có từ một tờ báo cũ bị kiểm duyệt cắt mất mấy câu, thế là tôi
mạo muội viết thư xin ông bản thảo gốc truyện ấy để đăng nguyên vẹn tác
phẩm. Chỉ mươi ngày sau tôi nhận được thư trả lời: ông bảo
Nhẹ hơn cơn gió thoảng mới là
truyện ngắn ông thích hơn cả. Nhưng ông vẫn gửi kèm theo bản đánh máy rõ
ràng toàn văn truyện Bên đập Đồng
Cháy với nhan đề ghi bằng bút chì màu.
Những
lần gặp gỡ ngắn ngủi, tôi luôn học được ở ông tính cẩn trọng và chu đáo
của nghề viết. Có lần ông hỏi tôi: “Em hay viết báo, có bao giờ em giở
ra đọc lại những bài báo của mình đăng mười năm trước không, có bao giờ
đọc rồi thấy đỏ mặt không?”. Tôi thú thật với ông là có. Thi thoảng ông
nhờ tôi chuyển bản thảo cho một tờ báo hay một nhà xuất bản nào đó.
Ngoài những truyện ngắn về tuổi thơ, ông còn viết một loạt bài về chuyện
học văn trong nhà trường mà ông bảo tôi đề nghị báo
Yêu Trẻ đăng liên tục nhiều
kỳ. Theo ý ông, tôi đưa bản thảo tập truyện đồng thoại
Chúng tôi có mặt cho một nhà
sách chuyên in sách Phật học mà ông tin cậy. Có một lần tôi ân hận mãi
vì sơ suất của mình: tôi mang từ Nha Trang vào bản thảo truyện vừa viết
về tấm gương một nữ sinh sợ môn văn đã tìm cách khắc phục nỗi sợ ấy như
thế nào. Lúc đầu Võ Hồng đặt tên truyện là
Gập ghềnh sỏi đá. Sau không
ưng ý, ông gọi điện thoại vào bảo đổi lại là
Vượt bao gập ghềnh. Tôi chủ
quan, chỉ gọi điện thoại báo lại cho người biên tập mà không đến tận nhà
xuất bản xem kỹ bản thảo, nên khi sách ra, tên sách trở thành
Bước qua gập ghềnh! Tuổi già,
không sử dụng máy vi tính, ở xa trung tâm xuất bản, lại không có một
người học trò thân tín bên cạnh chăm sóc bản thảo, nhiều lần ông khổ tâm
vì sách in nhiều lỗi, phải làm đính chính trước khi tặng người quen. Đó
là chưa kể bệnh mất trí nhớ không tha bất cứ người cao tuổi nào. Lần gần
đây nhất, cùng đến thăm ông với các anh Giang Nam, Thanh Hồ, Chinh Văn,
Phạm Chu Sa, Trần Vạn Giã, tôi đã thấy ông để sẵn cuốn sổ và cây bút
cạnh đầu giường, để có ai đến thăm thì hỏi tên và ghi vào đó như một thứ
“nhật ký tiếp khách”.
Ở miền Nam
trước đây, ít có nhà văn nào viết về cuộc kháng chiến chống Pháp vừa
chân thực, vừa khẳng khái như Võ Hồng. Những kỷ niệm kháng chiến được
lưu giữ và thăng hoa trong Hoa
bươm bướm, Như cánh chim bay…
Với Võ Hồng, cuộc kháng chiến đó là một vận hội của sự đoàn kết dân tộc
lẽ ra không nên bỏ lỡ. Những nhà văn, nhà phê bình ở miền Nam thuộc
nhiều khuynh hướng khác nhau khi nói về tác phẩm của Võ Hồng đều tỏ ra
trân trọng suy nghĩ đó của ông.
Có lẽ ít ai
biết rằng nhà văn có những đóng góp quan trọng cho văn học hiện đại như
Võ Hồng, nổi tiếng từ những năm 1960, mà sau ngày hòa bình đã được “kết
nạp” lại vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trong một phụ san của báo
Văn Nghệ in danh sách các nhà
văn hội viên, Võ Hồng cùng với Sơn Nam nằm trong số những “hội viên dự
bị”. Được xếp vào khuynh hướng văn học “yêu nước và tiến bộ” mà sau ngày
thống nhất hơn mười năm, ông mới chính thức “tái xuất giang hồ” với tiểu
thuyết Thiên đường ở trên cao.
Võ Phiến có
lần trách móc một cách tế nhị: “Võ Hồng quả được an thân. Chế độ này qua
chế độ kia, thế cuộc bao phen đổi thay, ông vẫn an, vẫn nhàn, vẫn khỏe.
Vẫn viết lách để răn đời. Răn toàn điều lành…”. Thật ra thì Võ Hồng đâu
có bao giờ phủ nhận rằng ông làm văn học cũng là làm giáo dục và ông đâu
có đối lập nghệ thuật với đạo đức. Đến lúc xã hội suy đồi đầy ung nhọt,
người ta mới thấy văn chương của ông có ý nghĩa như thế nào. Từ năm
1973, trong truyện ngắn Mong manh
một thoáng ông đã tả một người phụ nữ đoan chính quyết từ bỏ mối
tình sâu đậm với một viên chức chỉ vì chứng kiến anh ta lạnh lùng nhận
lấy những đồng tiền xương máu của một bà cụ nghèo khó lo lót xin tha cho
người con bị bắt oan. Câu chuyện có vẻ lý tưởng hóa, nhưng ngày nay đọc
lại bỗng giật mình: xã hội bây giờ hình như đã quen sống với những viên
chức như vậy và liệu còn bao nhiêu những người phụ nữ nhạy cảm như cô
Bạch Huệ?
Trước Tết
Quý Tỵ, tôi đến chơi với một người bạn thân ở Trạm Hành, Cầu Đất, cách
Đà Lạt 25 cây số trên quốc lộ 20 dẫn về Phan Rang. Đứng trên triền dốc
nhìn xuống bạt ngàn đồi chè và cà-phê xanh mượt, tôi nhớ đến tiểu thuyết
Hoa bươm bướm của Võ Hồng.
Câu chuyện về một người thanh niên đi tản cư đến Trạm Hành, mong có cơ
hội làm việc gì có ích cho kháng chiến và khi cơ hội ấy đến thì lại
quyến luyến trước khi xa lìa cảnh vật và con người nơi đây. Không biết
trong ấy có bao nhiêu yếu tố tự truyện, nhưng chắc chắn Võ Hồng đã thông
thuộc miền đất này mới miêu tả được như vậy. Từ ấy đến nay, người không
thiết gì ra đến biển dù chỉ cách mấy con phố, chắc cũng không có dịp nào
trở về núi đồi chốn cũ.
Nghe tin Võ
Hồng tạ thế, Đặng Tiến bảo rằng cần phải có thời gian để giải mã văn
chương Võ Hồng. Có lẽ cũng cần phải có thời gian để hiểu con người Võ
Hồng, xem đằng sau cuộc đời lặng lẽ, trầm mặc đó có thật là sự an thân,
an nhàn hay không; hiểu được tại sao ông chấp nhận dừng chân một chỗ,
trụ lại trong tín ngưỡng nghệ thuật của mình, giam mình trong thế giới
đó để “hoài cố nhân”. Ông đã
dành cho những người con của mình đi xa thay cho cha. Và dành cho những
đứa con tinh thần của ông đi xa thay cho người khai sinh ra nó.
(Báo Người Lao Động thứ Tư,
ngày 03-4-2013)
|