HIỂU VỀ MẠNG XÃ HỘI TỪ GÓC NHÌN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA DÂN GIAN
Lê Thị Thanh Vy
Theo quan điểm của các nhà folklore học Hoa Kỳ thế kỷ XX, chủ thể của
văn hóa dân gian không còn được hiểu theo nghĩa chung chung hoặc những
nông dân không biết chữ nữa, mà là các “nhóm dân gian” (folk group) gồm
từ hai người trở lên và chia sẻ với nhau một “văn hóa phi chính thống”
(folk culture) nào đó. Một trong những “folk group” sôi nổi nhất của xã
hội đương đại là các “folk group” trên mạng Internet/ “folk group” trong
môi trường kỹ thuật số (Internet/ Digital folk group). Bài viết này khảo
sát một bộ phận của “Internet folk group” đó tại Việt Nam là “folk
group” trên mạng xã hội. Dựa vào các cách hiểu đương đại của Folklore
học Hoa Kỳ về “văn hóa dân gian” (folklore), “truyền thống” (tradition),
“nhóm dân gian” (folk group), chúng tôi vạch ra những “luật chơi” của
môi trường dân gian trên mạng xã hội, từ đó lý giải cho sự say mê (và
kèm theo cả sự e dè) đối với mạng xã hội tại Việt Nam.
“Truyền thống” bao hàm cả cái đang diễn ra, và “dân gian” có thể là tất
cả mọi người, mọi thành phần xã hội
Folklore học (tạm dịch là ngành nghiên cứu văn hóa dân gian) là một
ngành học phát triển mạnh ở Hoa Kỳ ngày nay. Lynne S. McNeill trong một
giáo trình ngành Folklore học đã định nghĩa folklore như sau: “Folklore
là văn hóa truyền thống và phi chính thống. Đó là tất cả những gì thuộc
về văn hóa - như phong tục, truyện kể, trò đùa, nghệ thuật - mà chúng ta
học lẫn nhau; bằng đường truyền miệng hay bằng cách quan sát, hơn là từ
những tổ chức chính thống như trường học hay phương tiện truyền thông”
(1).
Tại Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều ngộ nhận về văn hóa dân gian. Văn
hóa dân gian thường được gắn với những gì xưa cũ, thuộc thế hệ ông bà
cha mẹ của chúng ta, hay gắn với tầng lớp nông dân ít học. Tuy nhiên,
ngành nghiên cứu văn hóa dân gian trên thế giới thế kỷ XX đã chỉ ra
rằng: đặc tính của văn hóa dân gian là
truyền thống chứ không phải
cổ truyền, và
dân gian cũng không đồng
nghĩa với bình dân (2).
Khái niệm “truyền thống” tại Việt Nam thường được hiểu theo chiều kích
lịch đại và theo thời gian; nhưng thật ra truyền thống còn có cả chiều
kích đồng đại và trong không gian nữa. Từ năm 1893, nhà folklore học
người Anh là Joseph Jacobs trong công trình
The Folk
(Dân gian) đã chỉ ra rằng
[1]
folklore liên tục được cập nhật (update) và sáng tạo ra (invent), và vì
vậy mà folklore bao hàm sự đổi mới (innovation), và hệ quả là nó bao hàm
cả sự chủ động và mang tính cá nhân; [2] “folk” không phải là một cấp
bậc (level) của xã hội, mà là một nhóm người chia sẻ với nhau một truyền
thống, và họ có thể thuộc về bất kỳ tầng lớp nào; và [3] truyền thống
không phải là tri thức thuộc về những người không biết chữ/ thất học
(illiterate), mà là một quá trình mà các thành viên trong đó hiểu các
quy tắc ứng xử bằng cách làm theo những khuôn mẫu có tính không gian và
tâm lý (3).
Như vậy,
truyền
thống là cái chúng ta đang tạo ra mỗi ngày, đang thích nghi những di sản
của cha ông vào trong những điều kiện hiện đại và đương đại của chính
chúng ta. Truyền thống không phải là cái cố định, tĩnh tại, đã qua; mà
là cái đang vận động, đang biến đổi. Đồng thời, những biến đổi đó không
phải ngẫu nghiên, rời rạc, cá thể mà là sự biến đổi được dân gian (folk)
đồng thuận ở cấp độ xã hội.
“Dân gian” ngày nay không chỉ có nghĩa là những nông dân không biết chữ,
ít học; dân gian (folk) ngày nay được hiểu là tất cả mọi người, họ tạo
thành các folk group (nhóm dân gian) theo nhiều cấp độ rộng hẹp khác
nhau (folk group nghề nghiệp, folk group tôn giáo, folk group công sở,
folk group trường đại học, folk group trẻ em, folk group kỹ thuật số -
các “cư dân mạng” theo cách gọi hiện nay). Các thành viên trong folk
group này chia sẻ với nhau một folk culture bên cạnh một văn hóa chính
thống (institutional culture). Và bất cứ khi nào có con người, có sự
giao tiếp thì có folklore hay văn hóa dân gian! (4)
“Cư dân mạng” là một nhóm dân
gian và chia sẻ với nhau một
văn hóa dân gian
Như đã trình bày ở trên, văn hóa xã hội bao hàm văn hóa chính thống và
văn hóa phi chính thống (tức văn hóa dân gian). Chúng ta không thể hiểu
thời đại của mình nếu bỏ qua phần văn hóa dân gian đó. Và mạng xã hội
cũng là một môi trường dân gian như thế. Ở đó, chúng ta có một “cộng
đồng” đang giao tiếp và tương tác mạnh mẽ với nhau mỗi ngày, đang sản
sinh ra những “luật chơi” (rules) riêng cho họ, sản sinh ra một nền văn
hóa phi chính thống, tươi trẻ và đầy tính phản biện.
Ở phương diện nội dung và hình thức biểu đạt của nền văn hóa dân gian
đó, chúng ta thấy một bức tranh phong phú bề bộn: các câu chuyện cười
chính trị-xã hội-văn hóa, truyền thuyết đô thị, chuyện kể kinh nghiệm cá
nhân, truyện ma…; các thông tin và kiến thức được chia sẻ hàng loạt: kĩ
năng sống, nuôi dạy con, làm đẹp, sơ cấp cứu…. Cộng đồng mạng sử dụng
những cách diễn đạt rất “dân gian”: vừa rập khuôn theo công thức (hay
còn gọi là mô-típ), vừa sáng tạo trong việc tạo ra các dị bản đa dạng
(“Chỉ có đàn ông mới mang lại
hạnh phúc cho nhau”, “Chỉ có
phụ nữ mới mang lại hạnh phúc cho nhau”;
“Người yêu không có nhưng chó
phải có một con”, “Người yêu
không có nhưng bạn thân phải có một đứa”…); và một “kho” những biểu
tượng cảm xúc (emoticons), những hình động, những từ viết tắt (lol,
kaka, hehe, ahihi, ahuhu) để tăng tính biểu cảm chính xác hơn khi
không thể giao tiếp mặt đối mặt. Văn hóa mạng xã hội có sự kết hợp của
ngôn ngữ, hình ảnh và âm thanh. Rất phổ biến trên mạng xã hội là các
Internet meme (thường gọi là “ảnh dìm”, “hình troll”) - một hiện tượng
sống động của văn hóa dân gian thời đại kỹ thuật số. Các meme này sử
dụng những hình ảnh có tính phổ biến (các nhân vật quen thuộc như
Doraemon, Bạch Tuyết, Tổng thống Trump, Obama, “Cô giáo bọ cạp…”) và lắp
ghép vào đó các câu châm ngôn hài hước theo một công thức nào nó được
biến tấu lại (5).
“Cộng đồng mạng” chính là nhóm
dân gian (folk group) và đây là
môi trường dân gian đúng
nghĩa. Không có một văn bản chính quy nào dạy chúng ta phải ứng xử ra
sao trên facebook, chúng ta chỉ việc quan sát người ta làm và làm theo
thôi. Quan sát và làm theo là một đặc thù của văn hóa dân gian. Trong
đời sống dân gian, nếu chúng
ta ngoáy mũi khi đứng trước mặt sếp, hay chạy đến ôm hôn thắm thiết cha
mẹ của bạn mình, hay vào tiệm thức ăn nhanh và ngồi lên bàn, đưa tay vẫy
người phục vụ đến ghi món… thì chẳng ai phạt tiền hay tống giam chúng ta
cả, nhưng chúng ta sẽ bị nhìn như người ngoài hành tinh. Các
khu vực dân gian đều có những
quy định bất thành văn của nó. Trong
nghệ thuật dân gian thì quy
định này còn rõ ràng và chặt chẽ hơn. Chẳng hạn như, ca hát Quan họ -
đỉnh cao của nghệ thuật ca hát dân gian - có những quy định rất nghiêm
túc và đôi khi ngặt nghèo. Việc các liền anh, liền chị chỉ có thể giãi
bày tình yêu dành cho nhau trong nghệ thuật nhưng trong cuộc đời thực
thì không được tiến đến hôn nhân là một quy định rất “trái ngang” như
thế, nhưng những người tham dự đều tự nguyện chấp nhận và làm theo. Tuy
có những luật lệ nghiêm khắc và chặt chẽ nhưng ca hát quan họ vẫn không
trở thành biến thành văn hóa chính thống mà vẫn trong địa hạt văn hóa
dân gian; vì những quy định đó được xây dựng trên hạt nhân cốt lõi là sự
tự nguyện của mỗi cá nhân khi muốn gia nhập vào cộng đồng đó (khác với
thể chế chính thức - không có vấn đề tự nguyện hay ý muốn cá nhân).
Tuy nhiên, do thiết chế mạng xã hội quá mới mẻ (so với các thiết chế cổ
truyền) nên những “rules” này cũng gây tranh luận gay gắt ngay trong
chính những thành viên của mạng xã hội: người thì bảo chỉ nên chia sẻ
những nội dung vui vẻ tích cực, người thì bảo facebook là trang cá nhân
nên tôi toàn quyền sử dụng; người thì bảo đừng tranh luận trên facebook
vì vô bổ, đầy rẫy ngụy biện, tốn thời gian, người lại bảo không góp
tiếng nói gì hết thì sử dụng facebook làm gì, v.v..
Những “luật chơi” của mạng xã hội
Là một cộng đồng, không gian văn hóa đặc thù, mạng xã hội cũng có những
“rules” (luật chơi) của riêng nó. Để hiểu về mạng xã hội không thể không
vạch ra được các “rules” này; đồng thời để đánh giá khách quan về nó,
không thể lấy “luật chơi” của những khu vực văn hóa khác để áp đặt và
phê bình nó.
“Luật
chơi” đó phải được thiết lập dựa trên những đặc thù của môi trường mạng
xã hội và phải do các thành viên đồng thuận (một cách phi chính thức)
chứ không thể do một cá nhân riêng lẻ nào thiết lập. Chẳng hạn như, nếu
một người nào đó tham gia mạng xã hội rồi hùng hồn đưa ra quan điểm từ
nay sẽ không tranh luận trên mạng xã hội vì cho rằng nó vô bổ, đầy rẫy
ngụy biện và tốn thời gian. Lúc đầu, có thể anh/chị ấy sẽ được mọi người
khen ngợi, đồng tình (vì mạng xã hội rất thích các tiếng nói trái
chiều). Nhưng nếu về lâu dài, anh/chị ấy cứ tiếp tục “không bình luận”
trên mạng xã hội thì các quan hệ mạng xã hội của anh/chị ấy sẽ dần dần
biến mất; và tự bản thân anh/chị ấy cũng sẽ chán nản và cảm thấy bị đẩy
ra rìa của mạng xã hội. Đặc trưng này là điều làm nên tính dân chủ và
tươi trẻ của mạng xã hội.
Dù chưa định hình một cách cụ thể như đã nói ở trên, nhưng bước đầu
chúng ta có thể nêu ra một số “rules” phi chính thức trên mạng xã hội,
nhưng hầu hết mọi người sử dụng mạng xã hội đều ít nhiều thừa nhận, như
sau:
Tính chất chính của mạng xã hội là giải trí,
và nhiều ứng xử trên mạng sẽ tuân thủ nguyên tắc này. “Vui là chính” nên
nhiều người sẽ không ngại ngần đăng rất nhiều ảnh (có thể đăng liên tục,
ảnh tự chụp hoặc người khác chụp, “nghệ thuật” hoặc “báo chí” hoặc “bình
dân/ đời thường”). Giải trí là quan trọng nên một bài viết cũng không
quá dài (nhiều khi vài dòng là đã có một trạng thái), ngắn gọn, rõ ràng,
kèm theo ảnh minh họa. Đó là nguyên tắc dựa trên tính chất của mạng xã
hội, nên hoặc là bạn chấp nhận (có thể lặng lẽ bỏ theo dõi tin về người
đó như một giải pháp không còn thấy về người đó trên “tường” của mình),
còn nếu bạn phê bình trực tiếp thì bạn sẽ trở nên lạc lõng hoặc mất lòng
bạn bè.
Tính chất quan trọng thứ hai của mạng xã hội là tương tác.
Tương tác gồm nhiều hình thức: bày tỏ sự yêu thích, tiếc nuối, phẫn nỗ;
hoặc bình luận đơn giản xã giao, hoặc bình luận thân mật…; và khi người
khác bình luận về bạn thì bạn không thể không trả lời. Bởi vì là tương
tác nên nó cũng tuân thủ những nguyên tắc về lịch sự giao tiếp thông
thường: hô - ứng và hồi đáp, hài hước đúng chỗ, tùy vào quan hệ thân sơ
mà có thái độ phù hợp,v.v..
Một đặc tính quan trọng nữa làm nên sức thu hút của mạng xã hội là
tính chất dấn thân và ý muốn cải
tạo xã hội. Đây chính là khía cạnh thực tế, cụ thể nhưng được xây
đắp trên nền móng đượm màu sắc bay bổng, lãng mạn không thể thiếu của
bất kỳ một nền văn hóa dân gian nào. Mạng xã hội là nơi tập hợp những
con người có một lý tưởng hành động trên rất nhiều lĩnh vực đa dạng, tụ
hội họ vào những nhóm lớn nhỏ khác nhau chia sẻ cùng một vấn đề nào đó:
chính trị, làm đẹp, sức khỏe, nuôi dạy con cái, du lịch, tiêu dùng thông
minh, bảo vệ môi trường… Đặc tính này được thể hiện qua hai hình thức:
cá nhân (facebook cá nhân) và tập thể (fanpage). Đây là một môi trường
mà sức cạnh tranh của facebook cá nhân nhiều khi còn mạnh mẽ hơn fanpage
của một tổ chức. Các cá nhân có thế mạnh về một số lĩnh vực nào đó (lịch
sử, nuôi dạy con, làm đẹp…) tập hợp xung quanh họ một lượng tương tác
rất đáng kể. Do bị chi phối bởi đặc tính tương tác nói trên nên mọi
người nhiều khi thích tương tác với một nhân vật mạng xã hội cụ thể,
sống động hơn là một tổ chức chung, phi cá nhân nào đó được quản lý bởi
một hoặc một đội admin (người quản lý) giấu tên.
Theo chúng tôi, ba thuộc tính nổi trội trên hình thành các “luật chơi
ngầm” trên mạng xã hội mà các thành viên trong cộng đồng muốn tham dự
phải tuân thủ nếu muốn có một đời sống trên mạng xã hội lành mạnh, tích
cực: tôn trọng sở thích, khuynh hướng, lý tưởng của các thành viên khác
của cộng đồng mạng; không thể từ chối tranh luận và khi giao tiếp phải
tuân thủ những nguyên tắc về lịch sự giao tiếp như một giao tiếp ngoài
đời thực,v.v..
Dù ngày nay đã có sự tham dự mạnh mẽ của tổ chức, tập đoàn, thậm chí
phòng ban, chính phủ; nhưng chúng tôi nghĩ đặc điểm căn cốt, làm nên bản
sắc và sự sống còn của mạng xã hội vẫn là tính cá nhân, trong đó tính
giao tiếp, sự tương tác cá nhân trực tiếp là tối quan trọng để duy trì
sự tồn tại của môi trường này (Đó là lý do chính mà chúng tôi tự tin gọi
mạng xã hội là một hình thức của môi trường văn hóa dân gian đương đại).
Các tổ chức văn hóa xã hội, các hình thức kinh doanh online, các fanpage
chính phủ, fanpage các thương hiệu hàng hóa… nếu muốn gia nhập môi
trường này thì họ phải tuân theo những “luận chơi” đó: phải giao tiếp và
tương tác, phải có tính giải trí, phải quan tâm đến các vấn đề xã hội.
Niềm yêu thích mạng xã hội tại Việt Nam và những “lấn cấn” của người
Việt về ích lợi và tác hại của mạng xã hội
Tại sao mạng xã hội phát triển mạnh ở Việt Nam?
Theo thống kê của Hootsute và We Are Social vào tháng 4/2018, mạng xã
hội có đông người dùng nhất là Facebook với 2,23 tỉ người dùng; trong đó
Việt Nam là nước có số lượng người dùng Facebook lớn thứ 7 thế giới với
58 triệu tài khoản (6). Dĩ nhiên có nhiều lý do để lý giải cho hiện
tượng này. Trong bài viết này, chúng tôi thử lý giải dựa trên văn hóa và
nếp sống “cổ truyền” của người Việt đã ảnh hưởng đến cách ứng xử và các
hành vi, quan hệ văn hóa ngày nay.
Người Việt Nam là dân tộc yêu thích đời sống làng xã, những quan hệ thân
tình. Vì thế mà phải chăng khi xã hội đô thị hóa và không gian sống bị
thu vào những căn hộ chung cư, những ngôi nhà phố, cảm thức tiếc nuối về
không gian “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”, hay gần đây hơn là những
khu “ngõ nhỏ, phố nhỏ/ nhà tôi ở đó” - những tổ dân phố - đã phần nào
dần dần chuyển dịch lên mạng xã hội. Nơi đó có một đời sống sôi nổi
những mối quan hệ từ họ hàng đến thân thiết, hơi thân thiết, và thậm chí
không quen biết ngoài đời nhưng ít nhiều cảm mến nhau qua mạng.
Tại sao mạng xã hội bị phê phán tại Việt Nam (song song với sự say mê
mạng xã hội tại Việt Nam)?
Theo chúng tôi, đó là khi người sử dụng chưa ý thức được sự rạch ròi
giữa các môi trường tương tác, dẫn đến sự chồng lấn giữa các môi trường.
Có nhiều loại biểu hiện của sự chồng lấn này, xin đơn cử hai trường hợp:
1) Chồng lấn giữa không gian của
quan hệ cá nhân và không gian của quan hệ mạng xã hội. Có những hình
ảnh mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu: gia đình đi ăn tối, bạn bè đi
chơi, tình nhân hẹn hò nhưng mỗi thành viên trong nhóm đó lại mỗi người
sử dụng một chiếc điện thoại thông minh để lên mạng xã hội;
2) Chồng lấn giữa không gian công
việc và không gian mạng xã hội. Chúng ta có thể bắt gặp cảnh vào
những giờ làm việc ở văn phòng, khu dịch vụ… nhưng máy tính của nhân
viên luôn mở Facebook hoặc đang trò chuyện trên Messenger. Đó là sự lấn
sân của không gian mạng xã hội sang không gian làm việc. Ở một hướng
ngược lại là sự lấn sân của không gian làm việc sang không gian mạng xã
hội: Với một chiếc điện thoại bật 3G 24/24, nhân viên có thể nhận chỉ
đạo của sếp 24/24, học trò có thể hỏi han thầy cô 24/24, và một số thầy
cô nhiều khi cũng chọn hình thức mạng xã hội để làm mới các hoạt động
giảng dạy của mình.
Những sự lấn sân này hình thành một sự ác cảm về mạng xã hội (song song
với sự tôn vinh mạng xã hội): mạng xã hội là nơi làm đứt gãy các quan hệ
gia đình, cá nhân; mạng xã hội khiến chúng ta mệt mỏi vì đến thời điểm
nghỉ ngơi vẫn phải trả lời các tin nhắn về công việc, khi việc học hành
và làm việc lấn sang cả những giây phút thư giãn, giải trí. Tuy nhiên,
cũng phải nhận thức rằng: những phân tích trên cho thấy tự thân mạng xã
hội không tiêu cực. Nếu chúng ta biết cách khu biệt các không gian này
và tránh sự chồng lấn kể trên thì mạng xã hội nhiều khi lại là phương
tiện làm đầy thêm và sâu sắc hơn các quan hệ xã hội và cá nhân của chúng
ta, trong điều kiện không gian sinh sống và tương tác thực tế đang thu
hẹp như hiện nay.
Lời kết
Một trong những vấn đề của nghiên cứu văn hóa là ranh giới giữa văn hóa
trung tâm và văn hóa ngoại vi, hay sự chuyển dịch từ văn hóa từ trung
tâm sang ngoại vi. Hiện tại, mạng xã hội là khu vực văn hóa ngoại vi,
nhưng dần dần, nó đang chuyển vào trung tâm: ngày nay, nhiều người không
đọc báo giấy mà đọc báo mạng (vì có nhiều comment tương tác thú vị hơn
dưới các bài báo mạng), thậm chí không vào website của báo để đọc mà chỉ
xem cư dân mạng chia sẻ những vấn đề thời sự gì vì thường cư dân mạng
rất nhanh chóng và rất “thực” (theo quan điểm của người đọc những thông
tin loại này); ngày nay, nhiều người không xem ti vi nữa vì mạng đã trở
thành một kênh giải trí chính; mạng xã hội là công cụ giám sát của người
dân, và nhiều quyết định của chính quyền hay tổ chức ngày nay đang bắt
đầu dựa trên những phản hồi và những tiếng nói rất mạnh mẽ từ cư dân
mạng.
Sâu xa hơn nữa, với điều kiện làm việc, học tập, ăn ở và giao thông đi
lại ngày nay, tương tác mạng đang tăng dần lên; các mối quan hệ trên
mạng đang dần trở thành một phần trong các quan hệ của con người: mạng
không còn “ảo” nữa, mạng có những quan hệ bạn bè đích thực giúp đỡ nhau
khi hoạn nạn ốm đau, chia sẻ với nhau những thời điểm đặc biệt (và cả
không đặc biệt) của mỗi thành viên, trên mạng có những cuộc tranh luận
học thuật nghiêm túc (lẫn thiếu nghiêm túc) mà những người tham gia
không có quan hệ ngoài đời thực. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta phải nghiên
cứu một cách nghiêm túc về môi trường “dân gian” này.
Lê Thị Thanh Vy, ThS.
Chú thích
(1) Lynne S. McNeill (2013),
Folklore Rules, Utah State University Press, tr.16.
(2) Xem thêm:
- Mamie Harmon (1949), “Folklore”,
Funk and Wagnalls Standard
Dictionary of Folklore, Mythology, and Legend, 2 vols., ed. Maria
Leach, New York: Funk &
Wagnalls, tr.399-400.
- Alan Dundes (1980), “Who are the Folk?”,
Interpreting Folklore,
Indiana University Press, tr.1-19.
(3) Joseph Jacobs (1893), “The Folk”,
Folk-Lore 4, tr. 233-238, dẫn
theo Simon J. Bronner, Folklore
the Basics, Routledge - Taylor & Francis Group, tr.18.
(4) Xem thêm Alan Dundes (1980), “Who are the Folk?”,
Interpreting Folklore,
Indiana University Press, tr.1-19 và Lynne S. McNeill (2013), “Types of
Folk Groups”, Folklore Rules,
Utah State University Press, tr.65-88.
(5) Có thể tra cứu trên Google với các từ khóa như “Internet meme”,
“Viet Nam” để tìm hiểu thêm.
(6) Theo
http://dantri.com.vn/suc-manh-so/viet-nam-co-so-luong-nguoi-dung-facebook-lon-thu-7-tren-the-gioi-20180418145327613.htm,
truy cập ngày 31/5/2018.
Tài liệu tham khảo
1. Bronner, Simon J. (2017),
Folklore the Basics, Routledge - Taylor & Francis Group.
2. McNeill, Lynne S. (2013),
Folklore Rules, Utah State University Press.
3. Viện Nghiên cứu văn hóa (2005),
Folklore thế giới - Một số công
trình nghiên cứu cơ bản, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Viện Nghiên cứu văn hóa (2005),
Folklore thế giới - Một số thuật
ngữ đương đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. |