Khoảng
giữa thập niên 1990, Lữ Phương có viết 3 bài về Chủ
nghĩa xã hội mác-xít. Những bài này đã được nhiều người
sao chép (có chỗ thiếu, sai) và chuyền nhau đọc. Được
anh Lữ Phương cho phép, viet-studies xin đăng lại
đây bản gốc của tác giả, có tu chỉnh chút ít, để các bạn
làm tư liệu. |
Lữ Phương
Ba bài viết về Chủ nghĩa xã hội mácxít
Bài 1: Phản ánh luận
mácxít-lêninít
Bài 2: Vấn đề Lao động trong học
thuyết Mác
Bài 3: Chủ nghĩa xã hội mácxít &
chủ nghĩa xã hội hiện thực
Bài 1
Phản ánh luận
mácxít-lêninít
Hai
xu hướng triết học
Theo những nhà lý luận mácxít xô viết (trước đây) thì
phản ánh luận duy vật biện chứng, duới hình thức tồn tại như hiện
nay, đã là những nguyên lý "khoa học" định hình thành một hệ thống
những luận điểm nhất quán, đặt dưới cái tên chung là phản ánh
luận mácxít-lêninnít: phản ánh luận này, xét về nguồn gốc, là do
Mác và Angghen tạo ra, nhưng sau đó đã được Lênin phát triển làm
cho hoàn chỉnh hơn
[1]. Về vai
trò của Lênin trong vấn đề này, chắc chắn là chúng ta sẽ phải nói
tới, nhưng đối với những người nghiên cứu chủ nghĩa Mác về phương
diện lịch sử thì việc đồng nhất Mác với Angghen ở đây là không thoả
đáng: tuy nhất trí với nhau trong mọi kết luận liên quan đến cách
mạng vô sản cùng những chiến lược và chiến thuật để thực hiện cuộc
cách mạng ấy, nhưng xét về mặt triết học, Mác và Angghen lại
có những quan điểm không giống nhau – và điều đó đã biểu hiện không
đâu rõ bằng ở cách hai ông giải quyết vấn đề mà Angghen gọi là vấn
đề cơ bản lớn của triết học, tức là vấn đề mối quan hệ giữa ý thức
và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất
[2].
2. Theo sự thừa nhận của Angghen thì tuy đã góp phần xây dựng nên
chủ nghĩa Mác, ông vẫn nghĩ rằng phần đóng góp ấy của ông là rất
giới hạn: nếu có thì chỉ trong vài lĩnh vực mà ông gọi là "chuyên
môn", còn đại bộ phận những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, nhất là trong
lĩnh vực kinh tế và lịch sử đều là công lao của Mác
[3]. Đọc kỹ
những tác phẩm kinh điển mácxít, chúng ta thấy rất rõ ý nghĩa của
những chỉ dẫn ấy. Trong những bàn luận có liên quan đến phản ánh
luận, chúng ta thấy có những tác phẩm Angghen viết chung với Mác –
như Gia đình thần thánh (1845), Hệ tư tưởng Đức (1846)
– và những cuốn ông viết riêng – như Biện chứng của tự nhiên
(1876),
Chống Duhring (1878)[4],
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học
(1880), Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức (1886). Nếu đọc những tác phẩm ông viết chung với Mác
rồi so sánh với những tác phẩm của bản thân Mác liên quan đến vấn đề
đang nói tới – như Luận cương về Feuerbach (khoảng
1844-1847), Sự khốn cùng của triết học (1847), Ngày mưởi
tám sương mù (1852), Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
(1857), Tư bản (Tập I, 1867) – chúng ta thấy các lập luận
nhìn trên tổng thể là nhất quán, phản ánh sự thống nhất về đặc trưng
trong triết học của Mác, nếu Angghen có góp gì vào thì chỉ là phụ.
Trong khi đó thì nếu đọc những tác phẩm của riêng Ăngghen, chúng ta
thấy cách lập luận ở đây đã đi theo một thứ lô gích độc lập rất dễ
nhận ra. Căn cứ vào sự phê bình nội tại, đi sâu vào tác phẩm, rất
nhiều nhà nghiên cứu đã có đầy đủ lý do để nhìn thấy ngay từ cội
nguồn của chủ nghĩa Mác hai xu hướng triết học khác nhau mà sự khởi
điểm khác nhau ấy chính là lý luận về phản ánh
[5].
"Nhận thức luận” của Mác
1. Hãy nói trước hết đến đối tượng của chủ thể nhận
thức. Đối với Mác đối tượng ấy không phải là cái thế giới tự nhiên ở
ngoài con người, tồn tại như một thực thể tự thân chưa có sự tham dự
của con người, có trước lịch sử con người. Cái thế giới ấy không
phải là không tồn tại và cái "vị trí thứ nhất" của nó so với con
người là không thể phủ nhận
[6] nhưng
theo Mác thì một sự phân biệt như vậy chỉ để phân tích đến cùng sự
khác nhau giữa con người và tự nhiên thôi
[7]. Mác
không hề phủ nhận điều đó nhưng vấn đề ở đây lại được đặt ra theo
một chiều hướng hoàn toàn khác: khi chủ thể tiếp xúc với cái ở ngoài
nó thì cái thế giới khách quan ấy lại không phải cái gì khác hơn là
"tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân họp
thành thế giới ấy"
[8], và
điều đó có nghĩa là cái thế giới đó không phải là một thực tại lạnh
lùng, khách quan mà chính là môi trường gắn liền với con người như
một thứ "thân thể vô cơ"
[9], ở đó
cảm giác không phải chỉ là sự nhận thức của tư duy mà còn là cái
sống thực
bao gồm tất cả những gì tạo nên con người, từ cảm tính khởi đầu của
tri giác, sự ham muốn, đến ý chí thúc đẩy hành động nữa. Nói cách
khác đó là cái thế giới đã được nhân hoá trong suốt quá trình phát
triển của loài người. Đó là cái thế giới đã trở thành văn hoá,
là cái hành tinh xanh này mà sự chinh phục của con người đã
làm mất dần tính tự nhiên, hoang dã, nếu còn một chỗ nào như vậy thì
hoạ hoằn chỉ là mấy hòn đảo san hô mới hình thành ở châu Úc mà thôi
[10]. Đối
tượng của ý thức của con người chính là thế giới của con người.
2. Mác đã gọi mối quan hệ giữa ý thức và cái khách thể nói
trên là mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã
hội. Không thể hiểu rõ thêm ý nghĩa của mối quan hệ này
nếu chúng ta không nhớ lại tiền đề quan trọng sau đây của ông:
“ Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là
tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình đời sống
hiện thực của con người"
[11]
Ý nghĩa trước nhất của khẳng định trên đây là hiện
thực của con người làm ra cũng tất yếu là hiện thực mang tính xã
hội, là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài
người với tư cách là một cộng đồng, cái hiện thực ấy được con người
ý thức, làm ra một cách có ý thức, vì thế ý thức về hiện thực cũng
tất gắn liền với hành động cải tạo thế giới và giao tiếp với nhau
của xã hội loài người. Mối quan hệ giữa ý thức và hiện thực như vậy
là mối quan hệ thống nhất về cấu trúc, không thể tách rời ra thành
hai phần riêng biệt được. Ý thức của con người không bao
giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức –
chúng ta đừng quên điều đó.
Nhưng tại sao tồn tại xã hội lại quyết định ý thức xã hội
chứ không phải là ngược lại như Mác đã khẳng định tiếp
[12]? Điều
này không có gì khó hiểu khi chúng ta biết rằng đối với Mác hiện
thực thứ nhất của con người chính là hành động thực tiễn của
con người, và chỉ có trong khi hành động cải biến thế giới thì ý
thức mới là ý thức xã hội, mới biểu hiện được mình như là ý thức xã
hội. Ý thức trong học thuyết của Mác vì vậy không phải là một thứ
ý thức nói chung hướng về một thứ tồn tại nói chung, cũng không
phải là ý thức của một cá nhân riêng lẻ tự thấy đầy đủ với những
cảm nhận trực tiếp về ngoại giới hoặc chỉ là những phạm trù,
những cái khuôn có sẵn sau đó gò nắn các hiện tượng của hiện thực
theo hình ảnh của chúng: bao giờ nó cũng gắn liền với một thực tại
lịch sử nào đó trong quá trình phát triển của con người để mang những nội dung cụ thể (ý thức đàn bầy thời thái cổ, ý
thức hư ảo trong xã hội tư sản...), vì thế để hiểu được thực chất
của ý thức, Mác cho rằng người ta không thể dừng lại ở bản thân nó,
hoặc giải thích nó bằng một thứ ý thức khác mà trái lại phải đem trả
nó trở về với cái hiện thực đã mang ý nghĩa cho nó.
3. Triết học của Mác không xem thường vai trò của ý thức hoặc chỉ
giao cho ý thức một hoạt động gọi là "tương đối độc lập" đối với tồn
tại như người ta thường quan niệm. Luận điểm tồn tại quyết định ý
thức của Mác chỉ có ý nghĩa đề cao điều kiện về tính chân thực của ý
thức, bắt buộc ý thức phải gắn chặt với tồn tại xã hội, biểu hiện
cho được tính khách quan của tồn tại xã hội. Nhưng những điều kiện
này Mác cho rằng từ khi có lịch sử đến nay, loài người chưa hề có
được, vì lẽ tất cả những hình thái kinh tế xã hội đã xuất hiện trong
lịch sử từ trước đến nay đều chỉ là những "cộng đồng hư ảo"
[13], những
cộng đồng chưa bao giờ có được sự nhận thức đúng đắn về bản thân:
tất cả đều tồn tại trong mù quáng như những thực tại tự nhiên
bởi vì những sản phẩm mà con người làm ra đã bị biến thành những
thứ đồ vật thống trị lại con người như những thực thể huyền bí,
xa lạ, tập trung rõ nhất trong chế độ tư bản với cái ý thức huyễn
diệu của nó. Trong chế độ này, con người đã bị các điều kiện
sinh sống làm cho trở thành những cá nhân biệt lập với nhau, cạnh
tranh chí chết để tồn tại, còn nếu có quan hệ với nhau thì chỉ thông
qua cái định chế trao đổi các thứ hàng hoá mà họ làm ra, một thứ
định chế vô ngã, vô danh, phi nhân tính: xã hội tư sản, trong sự mô
tả của Mác vì thế là một thứ tồn tại xã hội đã bị vật hoá, thoát
khỏi sự kiểm soát của ý thức, nó có tác dụng tạo ra những trung gian
mờ đục che dấu mối quan hệ trực tiếp giữa người và những sản phẩm
mình làm ra, giữa người và người, giữa xã hội và thiên nhiên.
Ý thức trong xã hội ấy tất yếu không phản ánh chân thật thực tại
khách quan, trái lại đã phủ lên đó một màn sương thần bí, có tác
dụng lừa dối con người. Đó chính là tình trạng ý thức bị tách rời
hiện thực để bay lên vương quốc của ảo tưởng – trên đám mây
ấy, ý thức tưởng rằng đã có đủ khả năng và quyền lực mầu nhiệm để
giải thích được mọi bí mật của trần thế và "cứu vớt" được trần thế
khỏi những sai lầm mê muội của nó.
4. Các giai cấp cấu tạo nên xã hội tư sản, bị cuộc sống làm cho phân
rã thành những bộ phận xa lạ với nhau đã không thể nào nhìn ra được
cái nguyên nhân sâu xa quyết định số phận của mình: tất cả đều ngụp lặn trong cái hiện thực cục bộ của bản thân và tự giam hãm
trong đó, tưởng rằng mọi việc đều là "tự nhiên". Đối với giai cấp tư
sản thì đó là cái ảo tưởng về sự bất biến của chế độ tư bản
được bảo vệ bởi những khái niệm phổ biến như "nhân quyền", "dân
chủ", "phát triển": giai cấp tư sản giương những chiêu bài ấy lên
khởi đầu để tự giải phóng nhưng sau đó là để lừa dối các giai cấp bị
nó áp bức; trong khi đó nó lại không hề biết rằng trên thực tế khách
quan chế độ tư bản vẫn chỉ là sản phẩm tạm thời của lịch sử. Đối với
những giai cấp khác thì tình hình cũng không có gì sáng sủa hơn.
Giai cấp tiểu tư sản, do địa vị đứng giữa hai giai cấp tư sản và vô
sản, cho nên trong ý thức đã nẩy sinh ra con đường "dung hoà", muốn
làm nhẹ đi mọi đối kháng thực tế giữa hai giai cấp ấy
[14]. Đối
với giai cấp tiểu nông thì sự tệ hại còn nhiều hơn. Bám vào mảnh đất
cỏn con để sinh sống một cách cô lập và riêng lẻ, không có điều kiện
tập hợp thành tổ chức để bảo vệ quyền lợi, giai cấp tiểu nông đã
phải nhờ đến người khác làm đại biểu cho nó, mà kỳ lạ thay, người đó
lại không phải ai khác hơn chính là ông chủ của nó, kể cả cái ông
nhà nước trong tay nắm được quyền lực vô hạn đã mang lại cho nó cảnh
mưa thuận gió hoà
[15]. Còn
giai cấp vô sản thì thế nào? Theo sự trình bày của Mác thì giai cấp
này, khi còn sống trong tình trạng tự phát, cũng có lúc không
thoát khỏi cái xiềng xích tinh thần mà xã hội thống trị đã tròng lên
ý thức của nó: nếu không chìm đắm trong sự mất nhân tính hoàn toàn
thì những hành động tích cực có thể có của nó, cao nhất, cũng không
thể vượt khỏi những "mưu toan giải phóng mình ở đàng sau lưng
xã hội"
[16], tức
là cái biện pháp mà sau này Lênin đã gọi là đặc trưng của giai cấp
công nhân "quý tộc" bị bọn tư bản mua chuộc.
5. Ý nghĩa "nhận thức luận" trong triết học Mác đến đây tưởng đã khá
rõ ràng: không có bộ phận xã hội nào từ trước đến nay trong lịch sử
đã phản ánh trung thực trên mặt ý thức được bản chất cái xã hội mình
đang sống cả – tất cả đều sai lạc, huyễn diệu, nghĩa là tất cả đều
chỉ là những hồn ma, dật dờ, không có xương thịt, không có thực
chất, tất cả đều chỉ là ảo tưởng. Ở đây chẳng có gì gọi được là phản
ánh gần đúng để có thể bổ sung cho đúng hơn, vì tất cả
đều bị đóng đinh vào một thứ tội lỗi mang tính uyên nguyên nào đó,
giống như một sự sa đoạ vô phương cứu chữa nếu không làm cách
mạng lật đổ mọi cái hiện tồn. Những ai quen thuộc với
triết học của Mác đều biết tình trạng tiền cách mạng đó đã được Mác
gọi là sự tha hoá, theo nghĩa đảo ngược triết học của Hegel:
không phải Tinh thần bị tha hoá thành cái khác nó (hiện thực, vật
chất) mà chính là bản tính hiện thực của con người
– là lao động có ý thức và có mục đích
[17] – bị
biến thành cái xa lạ với con người, thống trị lại con người như một
vật thể ma quái, kỳ bí: lao động trở thành lao dịch, hàng hoá do con
người làm ra để phục vụ những nhu cầu sử dụng thì lại bị biến thành
một thứ ngẫu tượng qua đó con người dốc hết linh hồn để quy phục nó.
Nhân tính trở thành phi nhân tính, sáng tạo đã trở thành nô lệ, ý
thức đã trở thành vô ý thức. Sự phân hoá xã hội thành những giai cấp
cũng chỉ là kết quả của sự phát triển của lịch sử theo chiều hướng
tha hoá đó, và nguyên nhân cuối cùng của tình trạng ấy, theo Mác,
không có gì khác hơn là trình độ phát triển cuộc sống còn giới hạn
của loài người, sự phát triển ấy, tuy đã có những tiến bộ, nhưng
chưa tạo ra được chất lượng mới thật sự cách mạng để xoá bỏ những
định chế trung gian cản trở sự tiếp xúc trực tiếp giữa con người và
cái thế giới do họ làm ra. Tuy vậy, lập luận của Mác không chỉ đừng
lại chỗ đó; ông cho rằng lịch sử đã đến lúc tự tìm ra cho nó giải pháp tích cực rồi – chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một cơ sở vật
chất phát triển thật mạnh mẽ, và tương ứng với nó là giai cấp vô sản
thay thế giai cấp tư sản để quản lý: sự phát triển phổ biến
sẽ gặp được cái ý thức phổ biến tương ứng và do đó mà lịch sử
từ đấy trở đi sẽ xoá bỏ hẳn những bức màn làm con người xa lạ với
nhau để con ngươi phục hồi lại được bản chất lao động có ý thức của
mình : chỉ có trong điều kiện ấy thì ý thức mới trở nên trong sáng
để phản ánh được trung thực cái tồn tại mà nó tạo ra.
6. Thực chất của cuộc cách mạng của Mác chính là cuộc cách mạng ý
thức[18]
mà cuộc vận động hiện nay của nó là dựa hoàn toàn vào giả thuyết sau
đây của ông: thế giới hiện đại đang tạo ra những tiềm thể để
cuộc cách mạng ấy biến thành hiện thực. Ý thức cộng sản chủ nghĩa,
hiện thân trong giai cấp vô sản mà Mác trông đợi cũng chỉ là biểu
hiện cho cái tiềm thể sẽ sinh thành ấy. Chúng ta đều biết sự
thách thức của Mác đối với hiện thực thật là gắt gao: nếu chủ nghĩa
tư bản không giẫy chết một cách hiện thực, nếu giai cấp vô
sản tự nó không sản sinh ra được cái ý thức cộng sản chủ nghĩa
một cách hiện thực, thì những tiềm thể trên đây mãi mãi sẽ bị
triển hạn một cách vô hạn độ: cuộc cách mạng của Mác mãi mãi vẫn là
cuộc cách mạng đơn thuần về ý thức, chẳng có gì để tự phân biệt với những cuộc cách mạng đơn thuần về ý thức khác mà Mác đã phê
phán.
Ăngghen đã phát triển Mác như thế nào?
1. So những luận điểm nói trên của Mác với
những gì mà Anghen đã trình bày riêng, hoặc phát triển về sau, chúng
ta thấy Angghen đã mở rộng đối tượng của nhận thức ra toàn bộ
vũ trụ, trước hết là tìm sự giải đáp cho nguồn gốc vũ trụ rồi sau đó
mới vận dụng vào lĩnh vực con người: điều này giả định theo nguyên
lý nhất nguyên duy vật rằng tất cả mọi hiện tượng trong thế giới, dù
thuộc tinh thần, lịch sử hay vật chất đều xuất phát từ nguồn gốc vật
chất mà ra – chúng đồng nhất với nhau về thực chất, nhưng chỉ
khác nhau về
biểu hiện thôi
[19]. Mọi
lập luận có liên hệ đến phản ánh luận vì thế phải xuất phát từ khẳng
định tiên khởi sau đây: vật chất là cái có trước tinh thần, tinh
thần chỉ có thể là sản phẩm của bộ óc của con người vốn là kết quả
của quá trình phát triển của vật chất, vì thế có thể nói tinh thần
chỉ là chức năng của bộ óc. Chính vì có cùng một nguồn gốc
như vậy, cho nên tinh thần mới có thể lĩnh hội được những vận động
của vật chất không những ở các hiện tượng mà còn có thể đi sâu vào
bản chất và quy luật nữa. Angghen đã căn cứ vào cơ sở lập luận đó dể
phản bác mọi thứ triết học mà ông gọi là "bất khả tri" (tiêu biểu là
triết học của Kant) giả định có một thực thể mệnh danh là "vật tự
nó"mà con người không thể biết được bằng con đường thực nghiệm, vì
theo Angghen đối với chủ nghĩa duy vật thì chỉ có những cái chưa
biết chứ không thể có những cái không thể biết được
[20]. Những
lý lẽ chống chủ nghĩa "bất khả tri" ấy có mục đích chận đứng lại mọi
ý định mở đường cho các phương thức nhận thức mà Angghen cho là thần
bí, siêu hình, tôn giáo: dù những cái chưa biết là vô số và có lẽ
mãi mãi con người sẽ không bao giờ biết hết được, nhưng điều đó chỉ
là do giới hạn thực tế của con người, không thể vì đó mà phủ nhận về
nguyên tắc cái năng lực nhận thức vô cùng tận của nó đối với thế
giới.
2. Căn cứ vào tiền đề vũ trụ luận trên đây, phản ánh luận trong
triết học của Angghen đã đảo ngược lại biện chứng pháp của Hegel
theo cách không giống hoàn toàn với Mác: trong khi Mác đảo ngược cái
Tinh thần tuyệt đối của Hegel thành thực tiễn lao động
coi đó là điểm xuất phát của triết học thì Angghen lại dành cho thực
tiễn lao động một ý nghĩa khác và thay vào đó cái mà ông gọi là vật
chất. Ông viết :
"Ở Hegel, sự phát triển biện chứng biểu hiện
trong giới tự nhiên và trong lịch sử – tức là mối liên hệ nhân quả
của sự vận động tiến lên từ thấp đến cao thông qua tất cả những sự
vận động chữ chi và những buớc thụt lùi tạm thời – chỉ là sự
sao chép lại sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu,
nhưng dù sao cũng độc lập với bộ óc đang tư duy của con người. Sự
xuyên tạc có tính chất tư tưởng hệ ấy là cái cần phải gạt bỏ. Chúng
tôi lại xem xét một lần nữa một cách duy vật rằng những ý niệm trong
đầu óc của chúng ta, coi đó là những phản ánh của sự vật hiện thực,
chứ không xem xét những sự vật hiện thực, coi đó là những phản ánh
của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý niệm tuyệt đối"
[21].
Vật chất là cái tuyệt đối, là khởi đầu mà cũng là sự
sống của mọi hiện tồn cho nên nó chính là động lực của tất cả; cái
biện chứng của tinh thần, được Hegel coi là thiêng liêng tột bực
chẳng qua cũng chỉ là sự phản ánh của cái biện chứng khách
quan đã chi phối toàn bộ thế giới tự nhiên thôi
[22]. Thế
giới quan của Angghen ở đây là hoàn toàn lạc quan về khả năng nhận
thức của con người đối với bản chất của hiện thực, không khác gì với
Hegel, chỉ có điều trên danh nghĩa một bên gọi là duy vật, còn bên
kia thì gọi là duy tâm, sự trái ngược nhau của hai quan điểm ấy chỉ
là sự trái ngược về cách giải thích cuối cùng đối với vũ trụ.
3. Phản ánh luận "mácxít" theo quan niệm của Angghen trên đây không
hoàn toàn nằm trong mạch tư duy của cái mà ta có thể gọi là
chủ nghĩa Mác của Mác. Nếu đối với Mác, tư duy chỉ tương
ứng với hiện thực xã hội một cách chân thực khi lao động của con
người giải phóng được khỏi bản thân những điều kiện tha hoá thì ở
Angghen tư duy chỉ là những hình ảnh chủ quan của con người
về những thực thể tồn tại ở ngoài con người, chỉ là những bản sao,
những bản chụp mà ngay từ đầu đã phản ánh được một cách
chính xác (theo nghĩa tiếp cận dần dần) được cái nguyên mẫu của nó:
tư duy ấy không hề bị gạt gẫm bởi những huyền thoại lưà dối nó và do
đó buộc nó phải từ chối chúng một cách triệt để ngay từ đầu
để mở đầu cho sự đối thoại nghiêm chỉnh mà chỉ xuất phát từ sự ngu
dốt, do trình độ thấp kém gây ra, tình trạng này có thể bổ sung,
khắc phục được dần dần trong quá trình chinh phục thế giới của tập
thể loài người. Phản ánh hiện thực trong học thuyết của Angghen vì
thế chỉ là việc tìm cách linh động hoá cái khả năng biện chứng có
sẵn trong chủ thể để thích ứng với cái chân lý đã có sẵn trong khách
quan: đó không phải là hành vi máy móc, đơn giản, một lần là xong,
không mâu thuẫn, không có sự nỗ lực chủ quan để chinh phục, nhưng dù
sao đi nữa, xét đến cùng phản ánh vẫn là phản ánh cho được sự phức
tạp, biến động vô cùng của cái thực thể ở ngoài nó, quy định nó và
mang ý nghĩa cho nó. Angghen cho rằng đây hoàn toàn không phải là
vấn đề lý thuyết: thực tiễn hành động của con người trong quá trình
chinh phục thế giới sẽ xác nhận sự chính xác của nhận thức của con
người về thế giới.
4. Quan niệm về thực tiễn của Angghen, theo cách lập luận
trên đây, cũng đã đi theo một chiều hướng riêng biệt của ông. Đó
không phải là cơ sở chung tạo ra sự tương hợp giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội như cách đặt vấn đề của Mác mà lại được hình dung như
hành động đến sau để kiểm chứng những hình ảnh mà con người
đã có về thế giới hiện thực: điều đó không khác gì với công việc của
những nhà khoa học tự nhiên, sau khi phác ra những giả thuyết về
hiện thực (phản ánh) đã đem những giả thuyết ấy ra kiểm chứng trong
phòng thí nghiệm. Theo cách trình bày của Angghen, chúng ta có thể
hình dung cuôc sống của con người không khác gì một cái phòng thí
nghiệm khổng lồ, ở đó không biết bao ý tưởng được đem ra thử thách,
những cái sai lầm sẽ bị đào thải để chỉ giữ lại những cái có giá trị
và đối những cái có giá trị này thì không có tiêu chuẩn nào để thẩm
định ngoài sự thành công trong công nghiệp, trong thực nghiệm, nghĩa
là căn cứ vào những giả thuyết ấy chúng ta có thể tạo ra hiện tượng
và bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta
[23]. Quan
niệm về một thứ ý thức mang tính khoa học thực nghiệm như vậy đã đặt
nền tảng trên một sự phát triển liên tục của tư duy con người với tư
cách là cái kho tích luỹ kiến thức có thể có những khiếm khuyết, sai
lầm vì ngu dốt, có thể bổ sung dần dần cho đầy đủ hơn, phong phú,
chính xác, phù hợp với hiện thực khách quan hơn, và điều này thì có thể thực hiện được bằng những hoạt động khoa học: quan niệm
ấy đã loại bỏ khỏi bản thân nó cái nội hàm giả định rất quan trọng
trong học thuyết của Mác về những nhận thức huyễn hoặc đặt
nền tảng trên một xã hội tha hoá, ở đó khoa học hiểu theo nghĩa khoa
học tự nhiên chỉ là khoa học về những vật thể không có lịch sử,
không có phát triển, còn nếu là khoa học xã hội thì đó chỉ là thứ
khoa học chấp nhận tình trạng tha hoá là đương nhiên và do đó tính
chất huyễn diệu vì tha hoá của thứ khoa học ấy cũng là đương nhiên.
Những khái niệm cực kỳ quan trọng trong học thuyết của Mác như
lao động tha hoá, ý thức huyễn hoặc dường như hoàn toàn
xa lạ với những suy tưởng của Ăngghen.
5. Mục đích của Angghen khi "phát triển" Mác chỉ là để củng cố
thêm học thuyết về lịch sử của Mác, bằng cách đặt học thuyết về lịch
sử ấy vào một thứ vũ trụ luận rộng lớn hơn, có nền móng sâu xa,
triệt để hơn, và do đó tầm thuyết phục cũng mang tính "khoa học" và
"hiện thực" hơn, như ông đã viết :
" ... cái đã đúng với cái giới tự nhiên mà do đó
chúng ta coi là một quá trình phát triển lịch sử, thì cũng đúng với
tất cả các bộ môn của lịch sử xã hội, và cũng đúng với toàn bộ các
khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con người (và thuộc về thần
thánh)"
[24].
Để làm công việc ấy, Angghen đã tạo ra một tầng lý
luận về vũ trụ học duy vật rồi nối liền chủ nghĩa Mác của Mác
vào đấy bằng lập luận về sự đồng nhất mang tính uyên nguyên giữa vật
chất và tinh thần, theo đó
"những quy luật của tư duy và những quy luật của tự
nhiên là nhất trí với nhau một cách tất nhiên"
[25].
nhưng cũng chính trong công việc ấy, ông đã làm cho
học thuyết của Mác về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã
hội mang một ý nghĩa hoàn toàn xa rời cái khởi nguyên của nó: trong
học thuyết của Mác, tồn tại xã hội hoàn toàn là kết quả của con
người, hoàn toàn không phải là tự nhiên, hơn nữa không hề là cái tự
nhiên có thể dùng làm hình mẫu để khuôn nắn ý thức. Mệnh đề cho rằng
cái đã đúng với tự nhiên thì cũng đúng với lịch sử, mệnh đề ấy hoàn toàn không phù hợp với ý tưởng trung tâm của Mác về sự phát
triển của lịch sử con người xét như những nỗ lực không ngừng để chấm
dứt mau chóng thời kỳ “tiền sử” của bản thân – trong suốt quá trình
ấy, những sản phẩm do con người làm ra đã quay lại thống trị con
người. Cái khớp nồi liền giữa tự nhiên với lịch sử, theo cách phát
triển của Angghen là không nhất quán với những tiền đề triết học của
Mác.
6. Sự lý giải của Angghen về mối quan hệ giữa ý thức xã hội với tồn
tại xã hội cũng không tránh khỏi sự thiếu nhất quán đối với triết
học Mác. Phân biệt sự khác nhau giữa tự nhiên và xã hội, Angghen cho
rằng nếu quy luật của tự nhiên hoàn toàn bị sự vô ý thức và mù quáng
chi phối thì trong xã hội ngược lại không có gì xảy ra “lại
không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn"
[26]. Tuy
vậy, theo Angghen thì những ý định tự giác, có ý thức đó vẫn chỉ là
những cảm nhận trực tiếp của những cá nhân riêng lẻ thôi;
những mong muốn ấy “ít khi nào thực hiện được” khi người ta sống
trong xã hội, và chính trong những hoạt động này đã hình thành ra
cái mà Angghen gọi là những “hợp lực” biểu hiện cho một thứ “ý
chí trung bình chung”
[27], căn cứ vào đó, ông giả định về sự tồn tại của một thứ động lực
khách quan, tập thể, độc lập với ý thức của những cá nhân, có nguồn
gốc sâu thẳm trong cuộc sống vật chất của xã hội. Như vậy,
chấp nhận sự phân biệt ý thức cá nhân với ý thức xã hội như Mác,
nhưng Angghen đã biến cái ý thức xã hội mà Mác coi là cái tồn
tại được ý
thức thành một thực thể không khác gì với cái mà những nhà xã
hội học thực chứng thường gọi là tâm lý quần chúng, hoặc
tâm lý cộng đồng. Trên nền móng của sự tương ứng giữa ý
thức và thực tại nói trên, Angghen đã đưa ra luận điểm gọi là
sự phản ánh xét đến cùng của các hình thái ý thức xã hội đối
với những hoạt động kinh tế, để cảnh giác với điều mà người ta
thường gọi là chủ nghĩa duy kinh tế. Ông cho rằng, kinh tế chỉ quyết
định ý thức khi người ta truy cho đến tận cùng cái nguồn gốc tạo ra
ý thức, chứ không phải lúc nào kinh tế cũng trực tiếp quyết
định một cách máy móc, đơn giản: trong những hình thái ý thức, nếu
có những cái phản ánh trực tiếp kinh tế (như pháp luật, nhà nước)
thì cũng có những cái lòng vòng đi qua rất nhiều trung gian rồi mới
tới (như triết học, tôn giáo). Hơn nữa, các hình thái ý thức lại có
lịch sử, truyền thống riêng, có tính độc lập tương đối với kinh tế,
vì thế không thể lúc nào cũng đem kinh tế ra để giải thích được.
Angghen cho rằng xét về mặt phương pháp, những lĩnh vực nghiên cứu
nào càng rộng, thời gian càng dài thì sự phát triển của nó càng có
điều kiện để tạo ra một đường trục trung bình song song với đường
phát triển của kinh tế, mặc dù trong quá trình phát triển ấy, những
ngẫu nhiên, có khi trái ngược là không tránh khỏi
[28]. Những
cách lý giải trên đây của Angghen đã muốn biện chứng hoá hành
vi nhận thức bằng phản ánh, nhưng cuối cùng vẫn không đưa người ta
đến gần Mác được: mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể trong nhận
thức luận của ông vẫn là sự quan hệ của hai thực thể khác nhau, cái
này cuối cùng sẽ quy định cái kia chứ không phải mối quan hệ thống
nhất giữa con người với ý thức của mình qua trung gian các hình thái
lao động thực tiễn khác nhau do con người làm ra trong quá trình tạo
nên lịch sử cho mình.
7. Tất cả những khác biệt giữa Mác và Angghen về triết học nhận thức
trên đây đã đóng vai trò quan trọng trong việc phân liệt chủ nghĩa
Mác thành các trào lưu khác nhau về sau. Những người trung thành với
chủ nghĩa Mác của Mác thường đặt triết học của Mác vào truyền
thống Hegel, khai thác ý nghĩa cuộc cách mạng về ý thức của ông để
phê phán mọi biểu hiện hư ảo trong các hệ tư tưởng tư sản. Xu hướng
này ban đầu tuy khởi xuớng từ những người mácxít cộng sản – đặc biệt
với Georg Lukacs trong cuốn Lịch sử và Ý thức giai cấp của
ông
[29], nhưng
về sau đã lan rộng sang những triết gia muốn lấy nguồn cảm hứng của
Mác để nghiên cứu, suy tưởng, trong đó người ta có thể kể đến
những tác giả như J. P. Sartre
[30],
Merleau Ponty
[31],
Lucien Goldman
[32] v.v...
tạo ra một truyền thống mácxít thường được gọi là "mácxít
phương Tây". Trái lại với xu hướng nói trên là xu hướng của những
người tiếp thu chủ nghĩa Mác qua sự trình bày phổ cập của Angghen
[33], đồng
nhất hoá Mác với Angghen, tạo thành một thứ chủ nghĩa Mác
"khoa học", dần dà biến những giáo trình diễn giảng Mác thành những
cẩm nang hành động. Nếu xu hướng thứ nhất thường chỉ giới hạn trong
vòng tư biện của những nhà tư tưởng thì xu hướng thứ hai lại là sự
chọn lựa của những nhà cách mạng chuyên nghiệp rất cần đến một thứ
lý thuyết giản dị để tuyên truyền và vận động đấu tranh.
Nhưng cũng chính vì vậy mà qua sự diễn giải của
Angghen về Mác,
chủ nghĩa Mác của Mác đã bị biến dạng dần dần, trong đó
"nhận thức luận mácxít", vốn là một vấn đề triết học trừu tượng
(trong truyền thống triết học phương Tây những vấn đề như vậy được
liệt vào siêu hình học) đã bị biến thành một hệ thống những luận
điểm "khoa học", chặt chẽ, chính xác và hiệu dụng không kém gì những
thứ khoa học tự nhiên. Tất nhiên đó không phải là những khoa học cụ
thể nào đó mà là một thế giới quan khoa học có tham vọng bao
trùm lên và nhất thể hoá mọi lĩnh vực của đời sống, chi phối và định
hướng cho mọi hoạt động tinh thần, thay thế cho triết học bị liệt
vào loại siêu hình tư biện, và đặc biệt nhất là đưa những sinh hoạt
tôn giáo vào lĩnh vực của những mê tín, ngu dân. Khác với sự thách
thức của tính chân thực triết học đối với thực tiễn trong học thuyết
Mác, sự thách thức của những ý tưởng của Angghen đã trở thành sự
thách thức của “thế giới quan khoa học": sự thách thức này dễ hiểu
hơn nhiều, nhưng cũng vì đó đã làm cho những ý tưởng của Mác trở nên
tầm thường đi rất nhiều.
Sự đóng góp của Lênin và phản ánh luận xôviết
1. Trong nhận thức luận, cũng như trong vấn đề triết
học Mác nói chung, Lênin đã theo truyền thống của những mácxít Nga
(khởi đầu từ Plékhanov) tiếp nhận chủ nghĩa Mác qua sự diễn giải của
Angghen là chính yếu. Điều này biểu hiện rõ nhất trong cuốn Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của ông (1908)
(cuốn này về sau được bổ sung thêm – đúng hơn là được điều chỉnh –
bằng cuốn
Bút ký triết học (1914-1915) cho đỡ máy móc, đơn giản)
[34], trong
đó Lênin hầu như đã để toàn bộ thời gian lập lại tư tưởng của
Angghen (tên của Mác có được nói đến thì chỉ với tư cách là người
được Angghen giải thích một cách đúng đắn, đáng tin cậy).
Chính vì thế mà theo sự đánh giá của phần đông những nhà nghiên cứu
thì giá trị triết học trong những tác phẩm này của Lênin, mặc dù
được những nhà lý luận xô viết tâng bốc quá đáng
[35], thật
sự chẳng có gì là đáng kể
[36]: từ
trong sự đào tạo về tư duy của mình, Lênin vẫn chỉ là một triết gia
tài tử – bản chất đích thực của ông là một người làm chính trị bẩm
sinh, vì thế, nếu ông có đề cập đến triết học thì chỉ với mục đích
chính trị hoá triết học thôi. Có lẽ đây mới thực sự là đóng góp
có ý nghĩa của ông cho nền “triết học xôviết” và tất cả những nền
triết học của những đảng cộng sản đặt cương lĩnh giải phóng xã hội
theo con đường mácxít xôviết.
2. Chống chủ nghĩa duy tâm, chống chủ nghĩa thầy tu, chống mọi thứ
triết học lấy nguồn cảm hứng từ Kant, đó là điều mà Angghen đã làm
rồi và tất cả những công việc ấy, trong cuốn Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của mình, Lênin chỉ lập lại
nguyên vẹn với mục đích rất rõ rệt: không chống chủ nghĩa duy tâm,
chủ nghĩa thầy tu, chủ nghĩa "bất khả tri" một cách nói chung mà là
chống tất cả những thứ này một cách thiết thực, cụ thể,
trong hàng ngũ đảng trước nhất. Những ai quen biết với tư tưởng
của Lênin đều hiểu rằng điều này là hoàn toàn nhất quán với cái ý
định nền tảng của ông: xây dựng nên một đảng kiểu mới, bao gồm những
người cách mạng nhà nghề, dân chủ trong thảo luận, nhưng sau đó thì
phải tập trung quyền lực một cách tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
trung ương, không chấp nhận bất cứ một thứ chủ nghĩa biệt phái nào
trong đảng, bất cứ trên phương diện nào, trong tổ chức lẫn trong tư
tưởng
[37]. Lập
luận của Lênin về vấn đề này là: đảng cộng sản là một đảng cách
mạng, mục đích trước mắt của nó là tập trung tất cả sức mạnh để
cướp chính quyền, đảng ấy hoàn toàn khác với những đảng nghị
trường trong chế độ tư bản vì thế những thứ thảo luận linh tinh về
tư tưởng như kiểu những câu lạc bộ là không chấp nhận được. Vậy mà
cái cảnh tượng linh tinh về tư tưởng trong đảng lại đã xảy ra vào
lúc bấy giờ (sau thất bại của cách mạng 1905): một số những
nhà tư tưởng đảng viên như Bogdanov, Basarov, Lounatcharski... đã
liên kết với những phần tử trí thức ngoài đảng, tiếp nhận thứ triết
học của những tác giả như Mach, Avenarius – những người đề
xuất một thứ triết học mệnh danh là "chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
mà theo Lênin thì đó chỉ là một thứ chủ nghĩa duy tâm trá hình – để
gọi là “bổ sung” cho chủ nghĩa Mác, hoặc tạo ra một thứ chủ nghĩa
Mác đặc biệt cho phong trào cách mạng vô sản ở Nga. Tình hình ấy đối
với Lênin là không thể chấp nhận được, nó làm lẫn lộn mọi thứ, có
nguy cơ mở đường cho những xu hướng phi vô sản xâm nhập vào đảng, vì
thế sau khi ra lệnh cho một số nhà tư tuởng của đảng lên tiếng,
Lênin nhận thấy cần thiết phải tự mình lao vào cuộc chiến đấu sinh
tử này. Thực chất của cái mà người ta thường gọi là phản ánh luận
lêninnít chỉ có ý nghĩa là cuộc thanh trừng về tư tưởng trong
nội bộ đảng và chỉ có ý nghĩa như vậy mà thôi.
3. Để tạo những tiền đề có thể giúp cho ý định của mình phát triển
được dễ dàng, Lênin đã bám sát khái niệm hai phe trong
triết học của Angghen và đẩy đến tận cùng cái hậu quả của nó
trong tranh luận: vì bất cứ những gì dính dáng đến khoa học xã hội
hiện nay đều có tính đảng cho nên nhận thức luận cũng
không thể thoát khỏi tính đảng được. Để biểu hiện cho sự xác tín
ấy, Lênin đã biến mỗi chữ trong những câu văn của mình thành những
chiếc đinh đóng sâu vào gỗ:
"...không một chữ nào của bất cứ ai trong những giáo
sư đó, tức là những người có khả năng viết những tác phẩm hết sức có
giá trị trong các lĩnh vực chuyên môn như hoá học, sử học (?) và vật
lý học, lại có thể tin được khi họ nói về vấn đề triết học",
bởi vì nói chung "các giáo sư môn kinh tế đều chỉ
là những học giả làm thuê cho giai cấp tư bản, còn các giáo sư triết
học đều chỉ là bọn học giả làm thuê cho phái thần học thôi"
[38].
Cần ghi nhận rằng đó là một thứ lôgích khách quan,
đương nhiên
được xem là chân lý, cho nên nó không dính dáng gì đến những ganh
ghét đố kị mang tính tầm thường: dù ý định của anh có là thế nào đi
nữa, dù anh có là đồng chí Bogdanov hay gì gì đi nữa, thì
khách quan mà nói, nếu anh không thừa nhận vật chất có trước
tinh thần có sau và tinh thần chỉ là hình ảnh của vật chất tồn tại
khách quan ngoài ý thức con người – thí dụ như vậy –, về mặt triết
học, anh cũng đứng về phía kẻ thù của giai cấp vô sản, nghĩa là đứng
vào hàng ngũ của những bọn tư sản, thầy tu. Và nếu anh lại cho rằng
mình chỉ muốn đứng lên trên mọi trường phái, đi tìm con đường dung
hoà thì sự tình lại càng tồi tệ hơn nhiều lần – tất cả những bọn
đứng giữa trong triết học ấy đều chỉ là một thứ gì đó "sền sệt" thật
đáng khinh bỉ!
[39].
Truyền thống coi những người đứng giữa còn nguy hiểm hơn cả kẻ thù,
trong những cuộc đấu tranh tư tưởng của các đảng cộng sản, đích thực
đã bắt đầu từ Lênin.
4. Cái cung cách tranh luận về triết học của Lênin, theo phương
hướng trên đây, cũng đã mang vào ngôn ngữ mácxít về sau nồng nặc mùi
bạo lực. Nó biểu hiện trước hết ở sự giản lược mọi vấn đề
triết học thành vấn đề phe phái để từ đó truy chụp lập trường chính
trị: anh có nói gì thì nói nhưng nếu không nói một cách duy vật
như Ăngghen thì anh đã chống lại chủ nghĩa duy vật. Mọi
ngóc ngách phức tạp trong lĩnh vực tư tưởng đều bị bỏ qua để quy về
bản chất: mọi thứ triết học không duy vật (theo kiểu Angghen)
thì đều là duy tâm, mà đối với người duy vật thì mọi thứ khác nhau
trong chủ nghĩa duy tâm, suy cho cùng cũng chỉ là chuyện cá mè một
lứa thôi. J. P. Sartre sau này có nói đến cái thùng acide
sulfurique
mà những người mácxít theo chủ nghĩa Stalin đã thủ sẵn bên mình để
ném vào đó mọi hiện tượng lịch sử
[40], cái
thùng
acide ấy là do Lênin tạo ra trước tiên. Chẳng những truy bức,
quy chụp, Lênin còn tạo ra một phong cách tranh luận sỉ vả, mạt sát
nguời đối thoại, coi những ai – trong triết học – không thừa
nhận thực tại thế giới có trước con người, đều là những thứ, nếu
không là trẻ con, thì cũng là những kẻ điên khùng, gàn bướng v.v...
Quá tin tưởng vào tính vạn năng của học thuyết Mác, đồng hoá triết
học Mác thành một thứ cẩm nang cách mạng, thách thức quá xác tín với
thời đại về sự tất thắng sắp đến của cách mạng vô sản
[41], Lênin
là người đã thực sự mở đầu cho sự hình thành một chế độ xã hội đặt
nền móng trên sự thống trị chuyên chính của ý thức hệ gọi là
“xã hội chủ nghĩa”.
" Từ ý kiến của những người mácxít cho rằng lý luận
của Mác là chân lý khách quan, người ta chỉ có thể rút ra một kết
luận duy nhất là: đi theo con đường mà lý luận của Mác vạch ra thì
chúng ta ngày càng đi đến gần chân lý khách quan (tuy không bao giờ
có thể nắm hết được); nếu đi theo bất cứ con đường nào khác, chúng
ta chỉ có thể đi đến sự lẫn lộn và dối trá"
[42].
Những người cộng sản theo chủ nghĩa Stalin sau này
mỗi lần mở miệng ra là "duy nhât" và "duy nhất", đó chẳng phải là họ
đã thừa kế thái độ độc quyền chân lý trên đây của Lênin hay sao?
5. Thật vậy, phản ánh luận của Angghen được Lênin đảng hoá,
sau khi cách mạng thành công, đã được tổng kết, cô đúc thành một thứ
bản thể luận biện minh cho sự thống trị của nhà nước chuyên chính vô
sản đối với đất nước. Cái khớp nối liền giữa khoa học tự nhiên với
khoa học xã hội mà Angghen phát khởi ở đây đã trở thành mấu chốt:
đường lối cách mạng của đảng hoàn toàn có cơ sở trên khoa học về
lịch sử, mà sự nghiên cứu về lịch sử lại chỉ là sự kéo dài của
phương pháp duy vật biện chứng về tự nhiên
[43] (như
những nhà tư tưởng stalinít đã nói), đường lối ấy tất yếu có đầy đủ
cơ sở khoa học vì nó nó đã phản ánh sự phát triển khách quan của
lịch sử loài người với những “quy luật” tất yếu của nó. Nói cách
khác, sự lãnh đạo của đảng cộng sản vừa hợp với đạo người
(lịch sử), lại cũng vừa hợp với đạo trời (tự nhiên) nữa. Tính
đảng trong phản ánh luận đã được dùng để tạo ra lý luận về nhà nước
cách mạng vô sản: nhà nước do đảng lập ra để cách mạng hoá xã
hội là hiện thân của Lịch sử, được Lịch sử ủy nhiệm cho sứ mệnh lãnh
đạo nhân dân xây dựng cuộc sống mới, vì thế nhà nước ấy cũng là cái
tất yếu của Lịch sử. So với các nhà nước thần quyền phương Đông cho
phép nhân dân đứng lên lật đổ những hôn quân (do lẽ những người này
không thực hiện đúng đạo trời) thì nhà nước cách mạng vô sản là sự
tuyệt đối, vĩnh viễn, bất khả xâm phạm, trừ phi đến ngày nó tự
tiêu vong như lý luận của Mác. Sự thống trị mang tính thần
quyền ở đây đã được thay thế bằng “khoa học”: người cai trị lẫn
người bị trị phải hiểu rằng những gì mình làm đều xuất phát từ sự
cưỡng bức của chân lý khách quan, nó phản ánh vào nhận thức của
mình; do đó tất cả đều phải chấp nhận những tất yếu ấy một cách hoàn
toàn tự nguyện để được tự do. Tự do, trong lĩnh vực lịch sử, theo
nghĩa mà những nhà lý luận xôviết giới thuyết, cũng phải được xây
dựng trên tất yếu của khoa học gọi là mácxít-lêninnít chứ
không thể là cái gì khác. Người được đánh giá là “tiến bộ” cũng là
người “giác ngộ” ra được cái chân lý ấy.
6. Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, lý luận phản ánh
cũng đã dần dần được diễn tả một cách mềm mại hơn (phần biện chứng
trong Bút ký triết học của Lênin được khai thác nhiều hơn)
hoặc được hiện đại hoá bằng một số kiến thức mới (phản xạ có điều
kiện của Pavlov, thông tin, mô hình hoá...)
[44], tất
cả đều nhằm mục đích bảo vệ cho được tính khoa học và sáng
tạo của phản ánh luận mácxít- lêninnít. Để đạt được mục đích
này, những nhà lý luận mácxít xôviết đã khai thác ý kiến mà Lênin đã
nói qua trong
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán: không
nên lúc nào cũng đối lập một cách tuyệt đối vật chất với tinh
thần, chỉ trừ trường hợp rốt ráo, cuối cùng phải xét xem cái nào có
trước cái nào có sau, tức là trường hợp liên quan đến vấn đề cơ bản
của triết học mà thôi
[45]. Điều
đó có nghĩa là trong rất nhiều trường hợp khác – và hầu hết là những
trường hợp thường nghiệm – sự kiện trái ngược lại mới là phổ biến:
tinh thần, ý chí và nói chung văn hoá
[46] quyết
định mọi thứ. Nhưng theo những nhà lý luận mácxít xôviết thì sự độc
lập của ý thức trong những trường hợp như vậy cũng chỉ là tương đối
thôi: dù có độc lập như thế nào đi nữa nhưng truy đến tận nguồn gốc,
ý thức vẫn bị tồn tại quyết định – nghĩa là chỉ khi đụng đến những
vấn đề cuối cùng của tồn tại, những vấn đề vĩ mô về lịch sử và vũ
trụ, những vấn đề triết học liên hệ đến nguồn gốc của sự sống sự
chết thì lúc bấy giờ sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và tinh thần
và câu chuyện vật chất quyết định tinh thần mới được đặt ra, còn
trong cuộc sống thường nhật thì mọi thứ đều chỉ là “tương đối”. Ý
nghĩa thực tiễn của lập luận này đối với những nhà lý luận xôviết
thật là rõ rệt: trong thực tế chúng ta hãy cứ làm như mọi người,
nghĩa là hãy chọn một hệ thống giá trị nào đó để định hướng
cho những hành động (ở đây tinh thần quyết định vật chất), nhưng khi
phải xét đến cùng cái động lực tạo ra sự chọn lựa ấy thì chúng ta sẽ
nói rằng đó là sự chọn lựa đã có cơ sở trong hiện thực khách quan
của lịch sử, mà lịch sử thì lại có cơ sở khách quan trong sự phát
triển của tự nhiên (ở đây thì vật chất quyết định tinh thần)! Lý
luận về đảng - nhà nước chuyên chính vô sản là gì nếu không phải là
cái lô gích xét đến cùng nói trên? Không khác gì mọi thứ nhà
nước chuyên chính dựa vào bạo lực để thống trị, nhà nước chuyên
chính vô sản lại được những người cầm quyền cộng sản dùng lý luận
Mác-Lênin để chứng minh rằng cái thực thể mà duy trì bằng thống trị
bạo lực là một nhà nước có nền móng trên cái gọi là “khoa học về
lịch sử”, là sự “tất yếu của lịch sử” ! Nhưng lịch sử là gì và cái
gọi là “sự tất yếu của lịch sử” là gì thì những câu hỏi ấy những
người cộng sản lại cho rằng chỉ có cách trả lời của họ mới là đúng
nhất. Nói tóm lại, xét cho đến cùng, chỉ có đảng cộng sản mới
nắm được thế nào là chân lý và có quyền nhân danh chân lý ấy để ném
vào sọt rác tất cả những thứ “chân lý” khác
[47]: con
đường ngày càng phải tỏ ra loanh quanh nhưng sự độc quyền về ý thức
hệ thì vẫn không hề suy xuyển.
7. Thử phân tích sơ lược cái giáo điều mệnh danh là “văn nghệ phản
ánh hiện thực”, chúng ta sẽ có thêm một ví dụ để hiểu rõ hơn những
gì đã trình bày ở trên. Những nhà mácxít xôviết, khi bảo vệ giáo
điều này, thường hay coi đó là một nguyên lý chung cho văn nghệ
trong đó chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ bổ sung, hệ thống lại và làm cho
trở nên khoa học mà thôi. Điều này thì có phần đúng vì không phải
chỉ có những người mácxít-lêninnít mới chủ trương “văn nghệ phản ánh
hiện thực”; nhưng khi nói rằng chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ hệ thống hoá
và làm cho nó trở thành khoa học (theo nghĩa là những nguyên tắc phổ
biến) thì lại không đúng, vì lẽ khái niệm “phản ánh hiện thực” ở đây
đã mang một thứ nội dung hoàn toàn do những người “mácxít” giới
thuyết cho chúng, nghĩa là đã gắn liền với quan niệm mácxít-lêninnít về triết học và chính trị mà chúng ta đã phân tích:
“hiện thực” là tồn tại xã hội phát triển theo những “quy luật” đấu
tranh giai cấp, cuôc đấu tranh ấy tất yếu dẫn đến chuyên chính vô
sản do đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo, và tất nhiên chỉ có thứ
hiện thực đó mới được coi là “bản chất”, “khách quan” thôi. Kết luận
sau đây cũng là tất yếu: nghệ sĩ không thể không trang bị cho mình
thế giới quan Mác-Lênin, vì nếu không có thế giới quan này thì nghệ
sĩ sẽ không tránh khỏi sai lầm, hạn chế, phản ánh không đầy đủ
hoặc sẽ xuyên tạc “bản chất của hiện thực”. Đi vào sáng tác, ai cũng
biết cái sơ đồ sau đây là rất quen thuộc với những nghệ sĩ sống
trong chế độ xã hội chủ nghĩa: đối với “cái thế giới cũ”, chẳng hạn
như xã hội tư bản hiện đại, do bản chất của nó là lạc hậu, cho nên,
dù có thay đổi thế nào đi nữa, nó vẫn là phản động, lỗi thời; cho
nên thể hiện trung thực thế giới ấy cũng phải thể hiện cho được sự
xảo quyệt trong cơn giẫy chết của nó, đồng thời vạch ra cho được
những mầm móng tích cực sẽ sinh thành cho tương lai. Còn đối với cái
thế giới tương lai đã sinh thành rồi – tức là chế độ chủ nghĩa xã
hội hiện thực – thì vì bản chất nó là cách mạng, là tiến bộ, cho nên
dù có thế nào đi nữa (thí dụ với những sai lầm trầm trọng như
trong những chế độ theo chủ nghĩa Stalin), nó vẫn là tốt đẹp, vì đó
chính là sự thể hiện hùng hồn cho tiến trình khách quan của Lịch sử!
Ngay cả đến khi kinh qua thực tế, những thí nghiệm về “chủ nghĩa xã
hội” bị thực tế làm cho phá sản buộc những những lĩnh tụ đảng phải
nhân nhượng ngày càng nhiều về những vấn đề có tính nguyên tắc mà ai
cũng thấy (như công hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập thể...)
thì, xét trên lý luận, nghĩa là xét đến cùng, điều đó vẫn chỉ thể
hiện cho sự “vận dụng tài tình” của đảng đối với những nguyên
lý khách quan, khoa học mà chỉ có đảng mới là
người nắm giữ được mà thôi. Hiện thực mới trong cuộc sống có mặt này
mặt kia, những nghệ sĩ có thể phân tích phê phán hiện thực ấy,
có thể lan man sang những lĩnh vực trước đây bị coi là cấm kỵ, nhưng
chỉ có một điều duy nhất mà họ không thể đụng đến được: đó chính là
đảng cộng sản với ý thức hệ Mác-Lênin của đảng, bởi vì, đó
chính là nguyên nhân chính yếu đã tạo ra cái hiện thực mới ấy, mặc
dù cái hiện thực ấy chẳng có gì phù hợp với những nguyên lý về lý
luận mà đảng nhân danh cả. Ý nghĩa của luận điểm “phản ánh xét đến
cùng” biểu hiện trong lĩnh vực nghệ thuật đến đây đã bộc lộ hoàn
toàn ý nghĩa sâu sắc nhất của nó: nó chỉ có mục đích biện hộ
cho kỳ được sự thống trị chuyên chính của đảng trên đời sống xã hội, và ý thức hệ Mác-Lênin gọi là “khoa học” mà đảng ra sức sống
chết bảo vệ cũng chỉ có ý nghĩa như vậy.
Giá trị của phản ánh luận mácxít-lêninít
Sự phê phán đối với phản ánh luận mácxít-lêninnít
dưới hình thức xôviết của nó, như đã được trình bày như trên, từ lâu
đã là điều hiển nhiên và đã diễn ra theo nhiều hướng. Tựu trung
người ta thấy có những điểm có thể tóm tắt như sau:
– Phản ánh luận gọi là “mácxít-lêninnít” rất khác xa với khởi
nguyên mácxít của nó: thứ phản ánh luận đó nên dành cho
Angghen, còn những lý giải của Mác về mối quan hệ giữa ý thức xã hội
và tồn tại xã hội thì nên gọi là ý thức luận mácxít
với những đặc trưng triết học của ông. Sự phân biệt từ cội nguồn
này, xét về mặt học thuật, là rất quan trọng cho việc nghiên cứu sự
phân nhánh của chủ nghĩa Mác thành những trường phái về sau.
Việc những nhà mácxít xôviết đồng hoá Mác với Angghen để sau đó đồng
hoá một lần nữa với Lênin đã làm biến dạng chủ nghĩa Mác
của Mác một cách tuỳ tiện để phục vụ cho các nhu cầu chính trị
thực dụng cho những đảng cộng sản, tồn tại dưới rất nhiều hình thức
khác nhau trên thế giới ngày nay.
– Cái mà Angghen gọi là “bản sao, bản chụp”, sau đó được Lênin lặp
lại không biết bao lần như một thứ chân lý tuyệt đối thật sự
chỉ là một thứ tư duy triết học ngây thơ của những nhà tư
tưởng thời cổ, tin rằng những cái chủ quan tồn tại trong tâm trí
cũng chính là hình ảnh mà cái thế giới bên ngoài đã in vào theo một
cách nào đó mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa hiểu được cách thức
vận hành. Không có cơ sở nào để cho rằng thứ phản ánh luận dựa
trên lập luận về “những bản sao” ấy là “khoa học” như Lênin đã
liên tục lặp lại Angghen để từ đó suy ra cả một hệ thống những quy
luật về vũ trụ và lịch sử, sau đó lại cột những luận điểm ấy vào
“lập trường” của một giai cấp vô sản huyễn hoặc rồi đẩy vào
hàng rác rưởi mọi thứ tư tưởng khác.
– Hệ thống triết học của Mác, mặc dù tư biện, nhưng chứa đựng nhiều
yếu tố tích cực: gợi ra cho những người nghiên cứu những định
hướng mang tính phát hiện, nhắc nhở người ta phải chú ý đến những
nhân tố hiện thực đã tạo nên lịch sử (như ảnh hưởng của khoa học kỹ
thuật, những lợi ích vật chất, những mâu thuẫn giai cấp trong lòng
một dân tộc...), những điều mà có lúc giới nghiên cứu đã không quan
tâm đúng mức. Riêng khái niệm lao động bị tha hoá của Mác thì đã biến thành nguồn cảm hứng bất tận cho những xu huớng phê phán đến
tận nền móng chẳng những đối với các hình thức tồn tại của xã hội
hiện đại mà còn có thể đặt cơ sở để hình thành một thứ triết
học chống tha hoá đối với cuộc sống nói chung của con người.
– Sự đóng góp của Mác vào đời sống tư tưởng của nhân
loại là điều không thể phủ nhận được, sự đóng góp ấy bao giờ cũng
đứng bên ngoài hình thức chính trị hoá triết học kiểu Lênin, và do
đó chủ nghĩa Mác của Mác cần phải tiếp tục được thanh lọc khỏi những
“vấy bẩn” của
chủ nghĩa Lênin. Chủ nghĩa Lênin đó, thực chất chỉ là một thứ
chủ nghĩa Mác bị xét lại theo phương hướng xuyên tạc triệt để
nhất trong lịch sử triết học Mác: nhân danh cho một thứ ý thức hệ
gọi là “khoa học”, nó đã tạo ra mô hình nhà nước toàn trị ý thức
hệ đưa đời sống tinh thần xã hội trở về thời kỳ Trung cổ. Đích
thực, không thể có một “phản ánh luận mácxít-lêninnít” nghiêm chỉnh theo tinh thần học thuyết Mác.
16-12-1994
[1]
Xem Từ điển triết học, Tiến bộ, Matxcơva, 1975, tr.
309
[2]
Ph. Angghen:
Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức (1888), trong
C. Mác - Ph. Angghen: Tuyển tập, T. VI,
Sự thật, Hà nội, 1984, tr. 372.
[4]
Trong cuốn này, Mác chỉ đóng góp một chương, không quan hệ
gì đến lý luận phản ánh.
[5]
Xem Leszek Kolakowski:
Histoire du Marxisme, Tome I, Fayard, 1987, p.
583-598.
[6]
C. Mác - Ph. Angghen:
Hệ tư tưởng Đức (1846), trong Tuyển tập, T. I
, 1980, tr. 284.
[9]
C. Mác: Bản
thảo kinh tế- triết học năm 1844, Tuyển tập I, tr. 117.
[10]
C. Mác: Hệ
tư tưởng Đức, Tuyển tập I, tr. 285.
[12]
C. Mác: Góp
phần phê phán khoa kinh tế chính trị (Lời tựa) (1859),
Tuyển tập II, 1981, tr. 637-638.
[13]
C. Mác - Ph. Ăngghen:
Hệ tư tưởng Đức, như trên, tr. 345
[14]
C. Mác:
Ngày mười tám Sương mù (1852), Tuyển tập II, 1981, tr.
428
[15]
Như trên, tr. 515-516
[17]
C. Mác: Tư
bản, Tập I, Phần I, Tiến bộ, Mátxcơva, 1984, tr.
230-231.
[18]
“Cuộc cải cách ý thức chỉ là ở chỗ làm cho thế
giới tự mình soi tỏ cái ý thức riêng của mình, làm cho thế
giới thức tỉnh khỏi những giấc mơ về bản thân mình, giải
thích
cho nó thấy được ý nghĩa của những hành động của chính nó.
Toàn bộ nhiệm vụ chúng ta chỉ có thể là – như điều đã diễn
ra trong sự phê phán của Phoi-ơ-bắc đối với tôn giáo – đem
lại cho các vấn đề tôn giáo và triết học một hình thức thích
hợp với con người đã ý thức được bản thân mình”. ( C.
Mác:
Thư gửi Rugơ, tháng 9-1843, Toàn tập II, tr. 500).
[19]
Ph. Angghen:
Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, Tuyển tập VI, tr. 400.
[21]
Như trên, tr. 399-400.
[22]
Ph. Angghen:
Biện chứng của tự nhiên (1876), Sự thật, 1976, tr.
323.
[23]
Ph. Angghen:
Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, Tuyển tập IV, sđd, tr. 376.
[25]
Ph. Angghen:
Biện chứng của tự nhiên, sđd, tr. 349.
[26]
Ph. Angghen:
Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, sđd, tr. 405.
[27]
Thư Angghen
gửi Joseph Bloch
(21-9-1980), Tuyển tập VI, tr. 728.
[28]
“Thư Ăngghen gửi W. Borgius” (25-1-1894), Tuyển tập
VI, tr. 790.
[29]
Georg Lukacs:
Histoire et conscience de classe (1923), Minuit,
Paris, 1960.
[30]
J. P. Sartre:
Critique de la Raison dialectique, T.I, Gallimard,
Paris, 1960.
[31]
Maurice Merleau Ponty:
Les aventures de la dialectique, Gallimard, Paris,
1955.
[32]
Lucien Goldman:
Le Dieu caché, Gallimard, Paris, 1955 hoặc Pour
une sociologie du roman, Gallimard, 1964 .
[33]
Những ai đã trực tiếp đọc những tác phẩm kinh điển
mácxít đều
nhận thấy sách của Angghen rất dễ đọc và do đó có phần đơn giản (và
máy móc nữa) so với Mác. Nhưng cũng chính vì vậy mà người ta đã có xu
hướng đọc Angghen
để hiểu Mác,
cũng như đọc Lênin
để hiểu một lượt cả Mác lẫn
Ăngghen.
[34]
Bút ký triết học chỉ là những ghi chú lặt vặt khi đọc
sách của Lênin trong khoảng thời gian 1914-1915; được xuất
bản và biến thành một tác phẩm căn bản của triết học Liên xô
sau khi ông mất.
[35]
Ở Liên xô, trong rất nhiều sách, người ta đã dùng chữ
phản ánh luận lêninnít, không cần nhắc đến Mác,thí dụ trong Avner
Ziss: Eléments d’esthétique marxiste, Editions
du Progrès, Moscou, 1977, p. 20.
[36]
Trả lời Lênin, những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán như Bogdanov, Basarov, Youchkevitch đã coi thứ lý luận
kiểu Lênin (và cả Plékhanov nữa) là một thứ chủ nghĩa
Mác suy đồi ở nuớc Nga: ngu dốt, không hiểu hết ý người khác
nhưng cũng cứ gồng chính trị lên chụp mũ, kết án bừa bãi
(Xem Leszek
Kolakowski: Histoire du Marxisme, Fayard,
Paris, 1987, T. II, p. 520).
[37]Lênin:
Làm gì? (1902), Lênin toàn tập, T. VI, Tiến bộ,
Matxcơva, 1975.
[38]
Lênin:
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
(1908), Lênin toàn tập, Tập 18 Tiến bộ, 1980, tr. 425.
[40]
J. P. Sartre:
Critique de la Raison dialectique, sđd, tr. 37.
[41]
Lênin thường tiên đoán khoảng vài ba chục năm thì cách mạng
thế giới sẽ toàn thắng (Xem
Lênin: Về
tác dụng của vàng (1921), Lênin toàn tập, Tập 44,
tr. 280).
[42]
Lênin: Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, sđd,
tr. 168.
[43]
Commité central du
P.C (b) de l’ U.R.S.S.: Histoire du Parti
communiste de l’U.R.S.S,(1938) Editions sociales, 1946,
p. 95- 96.
[44]
Xem Từ điển triết học, sđd.
[45]
Lênin: Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, sđd,
tr. 173.
[46]
“Văn hoá là hoạt động sáng tạo tích cực của con người (cá
thể, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực
hiện trong các lãnh vực sản xuất vật chất và tinh thần, nhằm
nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất,
bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật
chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội; đồng thời nó là một
tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hoá hoạt động sáng
tạo đó của con người” (Nhiều
tác giả Liên xô: Cơ sở lý luận văn hoá Mác-Lênin,
Truờng văn hoá thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1985, tr.
29). Không có dấu vết nào của luận điểm vật chất quyết định
tinh thần cả!
[47]Lênin:
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán,
sđd, tr. 416.
|