TÔI
ĐÃ ĐỌC MARX TRONG HOÀN CẢNH
NÀO
(Diễn từ nhận
“Giải Nghiên Cứu” của Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh 2018)
Kính thưa Quý vị,
Trước hết cho phép tôi gửi đến các vị phụ trách Quỹ Văn hoá Phan Châu
Trinh lời cám ơn đặc biệt vì đã tạo điều kiện cho tôi được đứng ở đây
nhận sự vinh danh những bài viết của mình về một đề tài nghiên cứu cực
kỳ nhậy cảm ở nước ta là học thuyết Marx. Thú thật, với tôi đây là điều
hơi bất ngờ, khiến tôi gặp phải chút ít bỡ ngỡ và khó khăn vì ngoài tính
chất nhậy cảm đó, chủ nghĩa Marx còn là một đề tài học thuật gây thật
nhiều tranh cãi
từ trước
đến nay. Không muốn đi sâu vào những vấn đề phức tạp làm mất nhiều thời
giờ của quý vị, trong bài phát biểu này, tôi chỉ xin nói qua cái hoàn
cảnh đặc biệt nào trước đây khiến tôi tìm đến và cùng với cái hoàn cảnh
nào sau này đã thúc đẩy tôi nhìn lại ngay từ cái nền tảng lý luận đã
nâng đỡ cái học thuyết ấy.
Thưa Quý vị,
Như
mọi người đều biết, học thuyết Marx đã được du nhập vào Việt Nam không
phải trong một tình thế bình thường
của một xã hội bình
thường ở đó người ta có thể coi việc nghiên cứu Marx như một thao tác
nghề nghiệp mang tính hàn lâm thuần tuý. Đất
nước bấy giờ chìm đắm
trong bóng tối của sự bất bình thường:
nhà nước dân tộc bị tước mất chủ quyền, nhân dân sống trong nô
lệ, trí thức thì bơ vơ,
tuyệt vọng. Chủ nghĩa Marx đã đến với chúng ta
trong tình thế đó, và mặc dù không có đủ điều kiện để tìm hiểu
đến nới đến chốn, chúng tôi đã tiếp nhận học thuyết
ấy như biểu tượng của sự giải phóng chói loà ánh sáng: không phải
chỉ mang đến cho dân tộc
biện pháp xây dựng hiệu nghiệm cuộc sống mới về sau mà còn giúp người
trí thức lấp đầy được cái khát
vọng ngàn đời của mình về sự tồn tại của một trần gian ở đó con người có
thể hoà giải vĩnh viễn với nhau. Trong khung cảnh tinh thần đó, việc tìm
đến Marx đối với chúng tôi đã mang nội dung một cuộc dấn thân toàn diện
và triệt để, bấy giờ thường được xưng tụng là “hiện thực và khoa học”,
nhưng thực chất lại rất giống với một hình thức tín ngưỡng nào đó, đặt
niềm tin tuyệt đối vào một đấng bậc phi phàm có thể dẫn đường một cách
kỳ diệu cho các kế hoạch mà chúng ta vạch ra để cải tạo thế giới, làm
lại con người.
Bây
giờ thỉnh thoảng nhìn lại
mọi thứ từ cái thời xa xưa ấy, tôi bỗng có cảm giác như mình đã sống qua
một giấc mơ dài, giấc mơ ấy
chứa đựng rất nhiều hứa hẹn kỳ vĩ, đẹp đẽ nhưng cũng lại mịt mùng, chơi
vơi so với cuộc sống tràn ngập những
lo toan tầm thường, vô vị hôm nay. Tuy vậy khi bình tâm suy nghĩ
lại mọi thứ về những cái đã qua đó, đặt nó vào cái khung cảnh tổng thể
của cuộc chiến đấu vào lúc bấy giờ với
những gian khổ, mất mát, hy sinh
triền miên, cái viễn cảnh tuyệt hảo về một xã hội tương lai ấy đã
có tác dụng nâng con người
lên, giúp chúng tôi vượt qua những thử thách tưởng như không thể
vượt qua được để tiếp tục cuộc chiến đấu và đưa cuộc chiến
đấu đến ngày chung cuộc. Tôi không biết bây giờ trong những bạn
bè còn sống của mình có ai, vào một lúc nào đó bỗng chạnh nhớ đến cái
giấc mơ thuở đó hay không nhưng bản thân tôi thì không bao giờ quên
được: chính giấc mơ ấy đã khuôn nắn
nên con người tôi, giúp tôi biết chia sẻ với đồng loại những ưu
tư liên hệ đến số phận chung, không lúc nào từ bỏ cái ý muốn đi tìm một
chân trời nào đó xa hơn bản thân mình để cuộc sống thường nhật mang được
ý nghĩa nhiều hơn cái nó vốn có.
Thưa Quý vị,
Chính với tâm thế đó, tôi và bạn bè đã theo Marx bước vào cuộc thử thách
mới khi đất nước giành lại được quyền tự chủ, thuận lợi cho việc tập
trung sức mạnh xây dựng tương lai. Chúng tôi không ai ảo tưởng rằng mọi
việc sẽ dễ dàng, do đó đã động viên nhau dùng ý chí để vượt qua khó
khăn. Tuy vậy mọi chuyện đã diễn ra không suôn sẻ như kỳ vọng: dần dà
qua thời gian, những vấp váp, chệch choạc,
sai lầm trong thực hiện cứ lặp đi lặp lại triền miên để rồi dần dà dường
như đã tích tụ thành một sự cản phá vô hình, nó tác động
vào công cuộc xây dựng, đục khoét đến thối rữa chính cái viễn
cảnh tốt đẹp mà Marx đã phác hoạ
ra cho chúng tôi trong những ngày tranh đấu cũ. Không phải chỉ là sự bất
lực trong phát triển kinh tế, xã hội
khiến đất nước giẫm chân trong lạc hậu, chậm tiến, mà quan trọng
hơn nhiều lần là nó dẫn đến tình trạng những chủ thể của
đất nước bị làm cho bệ rạc, ích kỷ, tầm thường, ác độc, khác hẳn
với sự hình dung của Marx về hình mẫu một con người tự do, biết sống vì
người khác bằng văn hoá và sáng tạo ra văn hoá cho xã hội mới. Hàng loạt
những câu hỏi gay gắt liên hệ đến bản thân học thuyết Marx đã xuất hiện
từ đó. Tại sao chủ nghĩa Marx được xem là học thuyết vừa khoa học vừa
nhân đạo, nhưng đưa vào thực tiễn xây dựng lại sản sinh ra những điều
trái ngược như vậy? Có phải là do chúng ta đã vận dụng sai những
chỉ dẫn của Marx trong thực hành? Phải chăng chủ nghĩa Marx mãi mãi vẫn
chỉ là những giấc mơ, tươi đẹp, nhưng bất khả thi, không thể đem vào
thực tế để biến thành một phác đồ
làm lại thế giới và cải tạo con người?
Dù
có cố gắng đi tìm sự yểm trợ của các loại tài liệu tham khảo nhiều
nguồn, tôi vẫn lặn ngụp trong nỗi hoang mang do những câu hỏi ấy đặt ra,
suốt một thời gian dài.
Phải vật vã thật lâu cuối cùng tôi mới nẩy sinh ra được ý định
phải gác lại mọi thứ để
tập trung vào việc đọc lại hết những tác phẩm của Marx từ đầu cho đến
cuối, xem thực sự Marx đã nghĩ gì, hy vọng qua đó tự mình tìm ra được
giải đáp cho những câu hỏi trên đây. Thời gian đánh vật với những trước
tác của Marx kéo dài có hơn mười năm, rất khó khăn vì lối viết trừu
tượng và nặng nề của ông, do đó thường phải đọc đi đọc lại nhiều lần, cọ
xát với những cách đọc khác, rồi
nghiền ngẫm thật lâu mới lần dò ra phần nào cái ý hướng nền tảng thể
hiện qua cái mạch tư duy của ông.
Vấn đề “nghiên cứu chủ nghĩa
Marx” với tôi như vậy thật
sự chỉ là vấn đề đọc Marx để hiểu Marx cho được mà thôi.
Thưa Quý vị,
Kết
quả của việc tìm hiểu đó, tôi đã trình bày trong một số bài viết, ở đây
không có điều kiện để nói rõ nội dung, nên tôi chỉ xin được nhấn mạnh
đến một điểm mà tôi cho là mấu chốt: học thuyết Marx không phải là một
khoa học bao gồm những quy luật tất yếu có thể đem ra thực hiện trong
các kế hoạch phát triển, cải tạo xã hội một cách nghiêm nhặt. Những kết
luận mang tính cách mạng do Marx
đề xuất về mặt thực tiễn, thực sự đã được tạo ra bằng một thứ logic
biện chứng về lịch sử đặt nền trên sự tồn tại của hàng loạt những
giả định về hiện thực, mà nếu thiếu đi như điều kiện cần và đủ thì những
kết luận ấy mãi mãi sẽ chỉ là những giả tưởng, suy đoán mộng mơ; đã như
vậy mà cứ nhất quyết đem ra thực hiện cho được trong thực tế thì hệ
quả ngược chiều do những kết luận ấy mang lại cho thực tế mới là
tất yếu. Có thể do không quan tâm
đầy đủ đến tính chất tư biện trong cái logic biện chứng mang tính chất
phương pháp luận ấy của Marx, nên những người theo Marx lẫn chống Marx,
khi khai thác quá mức những kết luận về thực tiễn của ông với mục đích
bảo vệ hoặc phê phán ông về mặt chính trị, những người theo hoặc chống
Marx đó, theo tôi nghĩ, đã bỏ qua hoàn toàn cái ý nghĩa tổng thể, biểu
hiện qua toàn bộ những trước tác của ông như một diễn trình suy tưởng về
số phận con người đi xuyên qua lịch sử tìm đường
phục hồi lại bản chất của mình.
Khai triển ý nghĩa căn bản này trong những tác phẩm của Marx, tôi thấy
tư tưởng của ông phong phú hơn những kết luận thực tiễn về chính trị của
ông rất nhiều: nó biểu hiện nơi sự phê phán của ông về quá trình hình
thành các hình thái xã hội ở đó những sản phẩm do con người làm ra cuối
cùng biến thành những thực thể kỳ bí, huyễn hoặc, làm cho con người đánh
mất bản thân trong chính những sản phẩm đó một cách vô ý thức và trở
thành những nô lệ vô ý thức cho chúng. Với Marx, những thực thể làm cho
con người xa lạ với sản phẩm do mình làm ra, từ đó xa lạ với cả đồng
loại của mình, không phải chỉ là một nền sản xuất chạy theo vật chất đơn
thuần mà còn bao gồm cả những biểu tượng tinh thần, do một số định chế
văn hoá nào đó tạo ra nữa. Chính cái luận đề về
con người bị tha hoá và tự tha hoá trên con đường đi tìm tương
lai cho mình đó mới là nội dung nền tảng, tồn tại nơi
tầng sâu nhất trong những trang viết của Marx. Những giải pháp
chính trị mà Marx đưa ra có thể không đủ sức mạnh hiện thực để đương đầu
với cái hiện thực mà ông phê phán nhưng sự cảnh tỉnh của ông về tình
trạng con người trở nên xa lạ với mình trong những cái do mình làm ra,
dưới nhiều hình thức, đã mang một ý nghĩa triết học sâu sắc, nhắc nhở
con người phải biết thường trực đối mặt với mình, để nhận ra cho được sự
giới hạn mang tính bản thể luận của bản thân, trước khi nghĩ đến việc
tìm ra con đường cứu chuộc thế tục nào khác cho cái thế giới mà mình
đang sinh sống.
Thưa Quý vị,
Với
suy nghĩ ấy, tôi xin phép chấm dứt bài phát biểu này và mong được Quý vị
đón nhận những điều đã trình bày, không phải như những kết luận chung
cuộc về một đề tài nghiên cứu mà chỉ là sự trang trải một món nợ tinh
thần đối với một triết gia đã dai dẳng theo tôi suốt một đời, nay vẫn
chưa trả hết.
Một
lần nữa xin cám ơn Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh.
Xin
cám ơn Quý vị.
24-3-2018
|