TỪ
NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN HỒ CHÍ MINH
(Sự hình thành
một chọn lựa)
Phụ lục 1
Huyền thoại Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là
một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải
phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam,
tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện
đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết
lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam. Đã có khá
nhiều ý kiến nhận định, đánh giá sự nghiệp của ông theo nhiều quan
điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam, trong chế độ cộng
sản, từ một nhân vật lịch sử ông đã trở thành một nhân vật huyền
thoại có tác dụng huyễn hoặc rất đặc biệt.
Theo những người nghiên cứu về Việt Nam, hiện tượng này có ba nguồn
gốc: 1) tự ông cố ý tạo ra để lôi kéo quần chúng, 2) Đảng Cộng sản
đã dầy công làm cho ông thành một biểu tượng thờ phụng của chế độ,
3) người Việt Nam hy vọng vào ông như một ngưới cứu độ, giúp họ thực
hiện được những mong mỏi nghìn đời của đất nước và bản thân.
Nếu huyền thoại Hồ Chí Minh đã cho Đảng Cộng sản uy tín hầu như
quyết định để chiến thắng trong chiến tranh, thì do những thất bại
của Đảng Cộng sản trong xây dựng hoà bình mà huyền thoại Hồ Chí Minh
từ từ rạn vỡ trong nhân dân và cả trong Đảng. Một cái nhìn công bằng
là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này.
Vẽ rồng thấy đầu không thấy đuôi
Do phải giữ kín tung tích trong hoạt động bí mật, lý lịch của Hồ Chí
Minh cũng là một bí mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người còn chưa
biết ông là ai. Nhiều đoạn đời của ông có một thời bị nhiều nhà viết
tiểu sử ông để trống (như sau vụ thất bại của Xô Viết Nghệ Tĩnh 1931
đi đâu không biết cho đến năm 1941 mới xuất hiện lại và về nước).
Phần ông, ông lại không chịu viết hồi ký hoặc chính thức công bố đầy
đủ lý lịch của mình. Nếu có viết thì ông lại không ký tên thật. Với
bút danh Trần Dân Tiên trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch, hình ảnh mà ông tự giới thiệu chỉ là một người
cách mạng rày đây mai đó, không có cuộc sống riêng tư. Nhưng đó cũng
chính là ý muốn của ông. Trong cuốn sách nhỏ này ông có khen ngợi
tài của người hoạ sĩ Trung Hoa vẽ rồng và cho rằng vẽ rồng giỏi là
chỉ cho người xem trông thấy đầu còn đuôi thì dùng những cụm mây che
khuất đi. Thủ thuật ấy rõ ràng ông đã sử dụng để tự hoạ. Cái cốt
cách thanh thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người
của ông: với khuôn mặt xương xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã
để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với một số lãnh tụ
cộng sản châu Á khác – như Mao Trạch Đông chẳng hạn.
Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy, ngoài
một lĩnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết
phương Đông. Nhưng đối với ông, không phải chỉ có như vậy. Trong
thời chống Pháp, có một dạo, mấy chữ “Cha già dân tộc” đã được bộ
máy tuyên truyền Việt Minh dùng để tôn vinh ông khá ồn ào (như một
câu hát: “thi đua thi đua Cha già nhắn tin về…”). Thật sự thì hình
ảnh này đã được chính ông sử dụng để tự đề cao trong Những mẩu
chuyện về đời Hồ Chủ tịch do chính ông viết (“Nhân dân gọi Chủ
tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành
nhất của Tổ quốc Việt Nam”). Về sau có lẽ vì thấy hơi quá lố, hình
ảnh ấy không còn được nhắc lại, mấy chữ “Bác Hồ” được thay vào và
giữ mãi cho đến khi ông mất.
Trong tiếng Việt, chữ “bác” chỉ vai người anh của cha, dùng để xưng
với các cháu thiếu nhi thì thích hợp. Nhưng sau này, nó lại trở
thành phổ biến để mọi người gọi theo. Theo nhiều người gần gũi ông
cho biết thì điều đó cũng do ông chỉ đạo: ai mới gặp ông mà gọi ông
bằng “anh” hoặc “đồng chí” thì bị ông chỉnh lại ngay (tôi nghe nói
trong những ngươi bị ông chỉnh có Trần Văn Giàu và nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng).
Cung cách ứng xử của ông thường được coi như tấm gương để toàn Đảng,
toàn dân học tập, trong đó tác phong giản dị, cần kiệm, thân dân (lo
chuyện tương cà mắm muối cho dân) thường được đề cao nhiều nhất. Năm
1968, sau khi vào chiến khu, suốt 7 năm ở R, năm nào đến 19 tháng 5
(người ta cho là sinh nhật của ông), trong các buổi lễ kỷ niệm tôi
đều được nghe không biết bao lần những câu chuyện như vậy.
-
Chuyện đôi dép râu: Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng
biết. Bác đi một đôi dép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác
thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ
mãi không được, cậu đã phải lén lấy đôi dép ấy đi đổi. Khi phát
hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại
đôi dép cũ.
-
Chuyện lá dong gói bánh chưng của dân Hà Nội. Mỗi
năm khi gần Tết, mặc dầu “bận trăm công ngàn việc”, Bác vẫn điện
thoại hỏi đồng chí Trần Duy Hưng, bấy giờ là Chủ tịch Uỷ ban
Nhân dân Thành phố Hà Nội, xem có lo đủ lá dong để gói bánh
chưng cho dân chưa.
Còn nhiều chuyện khác có nội dung tủn mủn, lẩm cẩm và “bao cấp” như
vậy. Chưa kể đến những bài nhạc, bài thơ – nơi không cần phải mô tả
những chi tiết – người ta đã tha hồ dùng sự bay bổng của phạm trù mỹ
học gọi là sự cao quý để đưa ông lên chín tầng mây! Từ một người anh
hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện
thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng
ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh
nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa
bùng binh Sài Gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn còn
giữ thói quen này, không phải chỉ với riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng
sản đã thành thần trong các miễu, các đền).
Cuộc sống riêng tư
Chuyện tình ái, vợ con của ông là điều được dư luận quan tâm, nhưng
sách báo của Đảng thường né tránh. Cả một đời vì nước vì non thì
màng chi đến những hệ luỵ nhân gian ấy! Nhưng điều này hoàn toàn
không đúng ngay cả đối với ông: có lần ông đã cho rằng sai lầm lớn
nhất đời ông là không lấy vợ! Nói chơi thôi nhưng thật sự trong thực
tế, đã có nhiều chuyện kể cho biết ông có rất nhiều nhân tình ở khắp
nơi, từ Pháp, Nga, Trung Quốc…
Kim Hạnh lúc làm Tổng biên tập báo Tuổi trẻ, vì đăng ở trang
nhất tin nói về bài thơ của ông (bí danh Lý Thuỵ khi ông từ Liên Xô
sang Trung Quốc khoảng 1925) gửi người vợ Tàu mà bị cách chức và
đuổi khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ, khi truy tầm hồ sơ mật
của Đệ Tam Quốc tế lưu trữ tại Moskva sau khi Liên Xô sụp đổ, đã tìm
thấy tài liệu cho biết có một người đàn bà khác trong một Đại hội
Quốc tế cộng sản ở Nga đã khai ông chính là chồng của bà, và người
đàn bà ấy chính lại là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai của ông chứ
không phải là ai khác!
Trong nước chuyện tình của ông nhiều hơn và cũng nhiều tính chất bi
thảm hơn. Dư luận Hà Nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô
tên Xuân, cô này do mật vụ Trần Quốc Hoàn đưa về để phục vụ ông
nhưng sau cho người giết đi để bịt tung tích, có đứa con trai được
Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông cứu thoát, đem về nuôi. Gần đây nhân Đại
hội 9 của Đảng (tháng 4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã
nói đến khá nhiều chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với
một nữ cần vụ người dân tộc và sinh ra Nông Đức Mạnh, nay mới được
bầu Tổng Bí thư Đảng.
Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật
thuyết phục, nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì
quan trọng lắm: các lĩnh tụ cộng sản cũng là những con người, vợ
con, này nọ đủ cả, một số lại rất hoang toàng trong cái khoản mục
này! Giả sử Hồ Chí Minh có như vậy đi nữa thì công lao chống thực
dân của ông chẳng hề bị suy suyển. Nhưng do Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy mà còn vượt lên thời
gian tồn tại muôn năm, nên hình ảnh của Hồ Chí Minh phải được tô vẽ
sao cho thật lý tưởng, thật phi thường.
Và đó cũng chính là chính sách tạo thần tượng của guồng máy. Người
ta có thể vẫn sống một cuộc sống bình thường, nhưng khi Đảng cần thì
cái bình thường sẽ được thay vào bằng những việc làm, những sự tích
thần thánh. Anh là người có tính Đảng cao thì anh phải biết tuân
phục: phải biết cố gắng đóng cho tròn cái vở kịch được tạo ra cho
mình. Chỉ vì lợi ích cách mạng thôi. Càng có nhiều tấm gương phi
thường để những người bình thường noi gương hy sinh thì sự nghiệp
của Đảng mới huy hoàng. Chính vì đã dựa trên cái lý lẽ về chủ nghĩa
anh hùng cách mạng đó mà Đảng đã tạo ra khá nhiều những truyền
thuyết trong tất cả mọi lĩnh vực từ bộ đội, tình báo đến nhà báo,
nhà sư… Hồ Chí Minh cũng chỉ là một huyền thoại trong những huyền
thoại do Đảng tạo ra, nhưng là huyền thoại của những huyền thoại cho
nên phương pháp tạo dựng cũng phải hết sức đặc biệt.
Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy
những bất ổn trong những vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ
bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền
gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều
chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong
quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất. Sau Cải cách
ruộng đất năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ Trung Quốc, quá thất đức
và sai lầm, ông đưa Võ Nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên
Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên thế chỗ
Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên Xô, Krushchev đang
thắng thế với đường lối hoà bình, trong Đảng Việt Nam cũng có xu
hướng ấy. Nhưng tình hình Việt Nam lại không thuận lợi để phát
triển. Do cường độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã lên cao, đường lối
quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa
cánh Lê Duẩn/Lê Đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ Nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy: bị quy là kẻ cầm
đầu chủ nghĩa xét lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi
Lê Duẩn chết mới thôi. Còn về Hồ Chí Minh thì dường như chẳng có gì,
nhưng thật sự cũng đã chịu số phận chung với tướng Giáp. Bên ngoài
thì vẫn đi đây đi đó, chỉ đạo việc này việc kia… nhưng bên trong đã
dần dà bị cô lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng, không
có ảnh hưởng gì lắm tới những quyết định lớn. Theo một bài viết của
Vũ Kỳ (đăng trên một số báo Văn nghệ Xuân cách đây vài năm),
công lao của Hồ Chí Minh trong cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” 1968,
vẻn vẹn chỉ có bài thơ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng lợi
tin vui khắp mọi nhà… Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được
đưa đi… nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc “Tổng
tấn công và nổi dậy” nổ ra qua đài phát thanh nghe được ở nơi ông
được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh – cùng với giọng đọc của ông, ra rả
suốt ngày về bài văn vần nói trên. Nhiều người đã nói đến nhiều
khuynh hướng đối nghịch nhau trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời chiến
tranh; nhưng qua câu chuyện trên, ta thấy có hai xu hướng chính
trong suốt một thời gian dài: Lê Duẩn/Lê Đức Thọ đối đầu với Hồ Chí
Minh/ Võ Nguyên Giáp.
Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng liêng của ông để tạo ra sự thiêng
liêng cho chính mình nên cái chết của ông cũng đã được cánh Lê
Duẩn/Lê Đức Thọ khai thác triệt để để “xài” một cách thoải mái. Ngày
chết của ông là 2-9 vì trùng với ngày quốc khánh nên người ta dời
lại 3-9-1969. Trong di chúc cuối cùng, ông muốn được hoả táng và đem
tro rải xuống biển hoặc chôn vào một vùng đất nào đó, người ta lại
bỏ không biết bao nhiều tiền bạc ra ướp xác và xây lăng nghìn đời
cho ông.
Những lựa chọn chính trị
Con người của Hồ Chí Minh được thần thánh hoá chỉ nhằm mục đích thần
thánh hoá những lựa chọn chính trị của ông cho Đảng Cộng sản. Những
chủ đề sau đây đã trở thành kinh điển trong các khoá giảng dạy về tư
tưởng của chế độ: từ thuở ấu thơ, Hồ Chí Minh đã ưu tư về tình trạng
nô lệ của dân tộc, vì thế đã quyết định bỏ xứ ra đi tìm đường cứu
nước; chu du khắp thế giới để tìm hiểu và so sánh, cuối cùng ông đã
nhận ra chủ nghĩa Mác-Lênin thần kỳ, không những giúp dân tộc giành
được độc lập mà còn mở đường đi vào cõi hạnh phúc muôn đời; Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất thực hiện được cái
tất yếu ấy của lịch sử cho nên quyền lãnh đạo của Đảng đối với dân
tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.
Qua sự kiểm nghiệm của lịch sử hơn nửa thế kỷ đã qua, người ta thấy
những xác tín trên đây nếu đúng một phần nhỏ thì sự cường điệu và
phóng đại lại là quá nhiều.
Thí dụ như việc tìm đường cứu nước. Có lẽ không cần tranh luận về
cái giả định khởi đầu này: Hồ Chí Minh là một trong rất nhiều những
thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ. Nhưng từ đó cho rằng vì yêu
nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài để tìm giải pháp
cứu nước thì điều này không nhất định phải là tất yếu. Một người
Pháp nghiên cứu về Việt Nam là D. Hémery có tìm ra được một tờ đơn
của Hồ Chí Minh đề ngày 15-9-1911 ở
Marseille – ký là Paul
Tatthanh – gửi chính phủ Pháp xin vào học trường Ecole coloniale
(một loại trường tạo công chức cho các thuộc địa) và đã bị từ chối.
Nhà sử học này cũng tìm ra một số thư của ông – cũng ký là Paul
Tatthanh – nhiều lần gửi về nước nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin
tức và chuyển tiền cho cha. Từ những tài liệu này – Biên niên
tiểu sử Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993) có
ghi lại phát hiện của Hémery – người ta có thể bàn luận nhiều
chuyện, nhưng để đừng đi quá xa chúng ta chỉ cần ghi nhận điều hiển
nhiên sau đây: ý định “cứu nước” của Hồ Chí Minh chưa chắc đã có
ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có thể đã đến sau những dự tính
khác không thành (thí dụ không được chấp nhận vào học tại Ecole
coloniale). Giả thiết này chẳng hề hạ thấp tình cảm yêu nước của
ông, nhưng tất nhiên, như vậy thì sẽ rất khó để tạo ra cái chủ ý lý
tưởng hoá cuộc đời ông từ nhỏ cho đến lớn. Làm sao có thể cho là “lý
tưởng” cái hiện tượng Hồ Chí Minh tự gọi mình là “Paul Tất Thành”,
xin đi học làm công chức cho chính quyền thực dân đồng thời nhờ cả
chính quyền thực dân ấy chuyển tiền từ nước ngoài về cho cha!
Cái lập luận cho rằng sau khi đã bôn ba khắp nơi để nghiên cứu tìm
hiểu, từ đó thấy chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt vời nên Hồ Chí Minh mới
chọn – lập luận này cũng tỏ ra rất khó thuyết phục. Việc ông đi đây
đó trên thế giới không đủ để chứng minh được rằng ông đã thâu đạt
được tất cả những tinh hoa của nhân loại như đã được những người
xưng tụng ông giả định. Khác với nhiều lĩnh tụ châu Á khác, chẳng
hạn như Tôn Dật Tiên, Gandhi, ông không hề có ý định đào sâu kiến
thức của mình qua các trường đại học. Thời gian ông trở lại nước
Pháp hơi lâu (1917-1923), nhưng công việc của ông ở đây vẫn đi theo
cái chiều hướng nghiêng về phần thực hành, quan hệ tiếp xúc, viết
báo, vận động… Các sách ông đọc ở đây chỉ là những loại phổ thông,
không có gì chứng tỏ được chiều sâu cần thiết về tư duy để nghiêm
chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Marx. Tôi đã viết ra nhiều lần nhận xét
này, nay không sợ lặp lại để nói thêm một lần nữa.
Những nhà ý thức hệ cộng sản có thể rất tức giận vì nhận xét ấy,
nhưng tiếc thay, điều đó lại được chính Hồ Chí Minh nói ra. Ai đã
đọc cuốn sách mang tên Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chí tịch do chính ông viết (dưới bút danh Trần Dân Tiên) thì sẽ
thấy ngay. Xin dẫn một vài đoạn ông kể về Đại hội
Tours cuối năm 1920 của
Đảng Xã hội Pháp:
Người ta thảo luận rất sôi nổi (…) Ông Nguyễn lắng nghe nhưng
không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng,
những câu: chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã
hội, cách mạng, không tưởng, khoa học, Saint-Simon, Fourrier, Marx,
chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề,…
giải phóng… chủ nghĩa tập thể… chủ nghĩa cộng sản, khách quan, chủ
quan v.v…
Không hiểu rõ lắm, nhưng đến lúc biểu quyết, gia nhập Đệ Tam hoặc
ở lại Đệ Nhị Quốc tế thì ông vẫn bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc tế.
Rất ngạc nhiên, Rô-dơ, làm tốc ký của Đại hội hỏi ông Nguyễn:
“Đồng chí! Bây giờ đồng chì hiểu tại sao ở Pa-ri, chúng tôi đã
bàn cãi nhiều như thế rồi chứ?”
“Không, chưa thật hiểu đâu.”
“Thế thì sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc tế?”
“Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược,
chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều là
Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ Tam
Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc
lập của họ. Còn Đệ Nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc
địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ Tam Quốc tế. Tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn;
đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Đồng chí đồng ý với tôi chứ?!”.
Rô-dơ đồng ý, chị cười và nói: “Đồng chí đã
tiến bộ”.
Những đoạn trích dẫn trên đây đã cho chúng ta biết mấy điều quan
trọng như sau:
-
Hồ Chí Minh chưa biết gì về chủ nghĩa Marx với tư
cách là một học thuyết triết học-chính trị. Những khái niệm rất
tầm thường trong báo chí có khuynh hướng thiên tả như đấu tranh
giai cấp, bóc lột, sản xuất… ông còn chưa hiểu rõ, nói gì đến
những tư biện về lao động tha hoá, giá trị thặng dư, sứ mệnh
giải phóng của giai cấp vô sản…?
-
Đối với chủ nghĩa Lenin ông có biết đến nhưng lại
rất hời hợt. Ông chưa đọc gì về Lenin, ngoại trừ bài “Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc
địa” đăng trên tờ L’humanité tháng 7 năm 1920 trước Đại
hội Tours vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu
bao nhiêu, ngay cả các khái niệm căn bản.
-
Ông chọn lựa đi theo Lenin hoàn toàn chỉ vì, qua
Đệ Tam Quốc tế, Lenin hứa “giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành
lại tự do và độc lập”. Đó là một chọn lựa hoàn toàn cảm tính,
vội vàng, phiến diện: chủ nghĩa Lenin là một học thuyết toàn
diện về cách mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản
phát triển, trong đó vấn đề giải phóng các thuộc địa chỉ là một
bộ phận.
Với những thiếu sót trầm trọng như vậy, làm sao có thể gọi được là
nghiêm chỉnh thái độ chọn lựa nói trên của ông?
Tất nhiên không thể không xét đến chuyện về sau, cùng với thời gian
hoạt động, ông đã tiếp cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn.
Nhưng dù vậy đi nữa thì cũng không vì thế mà coi sự chọn lựa ấy là
tuyệt đối đúng, phải trung thành để chuyển giao cho các thế hệ mai
sau. Có rất nhiều lý do:
-
Sau khi Lenin mất, “chủ nghĩa Marx-Lenin” đã dần
dà bị Stalin hoá. Cách mạng vô sản ở những nước tư bản phát
triển thoái trào, “chủ nghĩa xã hội” ở Liên Xô thực chất là chủ
nghĩa tư bản nhà nước, chủ nghĩa vô sản quốc tế chỉ là cái bình
phong bảo vệ Liên Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa dân tộc Xô
Viết.
-
Mục tiêu xây dựng một xã hội mác-xít có nền kinh
tế phát triển cho một xã hội công bằng và tự do là hoàn toàn ảo
tưởng. Các nước lấy Liên Xô làm mô hình đều giẫm chân trong lạc
hậu nghèo nàn, còn thể chế chính trị thì chỉ là sự nối dài của
chế độ phong kiến, độc tài. Là vũ khí hiệu nghiệm trong lật đổ
và cướp chính quyền nhưng bất lực trong phát triển.
Sự
lựa chọn đường đi của Hồ Chí Minh cho Việt Nam vì vậy là chọn lựa
bất toàn: nó có thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức
đấu tranh bạo lực, nhất là chiến tranh, nhưng đã thất bại toàn diện
trong xây dựng hoà bình. Điều này đã được chứng thực rất hiển nhiên
qua hơn nửa thế kỷ thực hành. Không thể coi đó là “cái cẩm nang thần
kỳ” để đưa nhân dân đến cõi hạnh phúc nghìn năm. Cũng không thể nói
bừa rằng ta phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa vì “nhân dân ta
đã chọn”. Nhân dân ta chẳng biết gì về chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ để
chọn. Rất nhiều người chỉ đặt lòng tin vào Bác Hồ, nhưng sự chọn lựa
của Bác Hồ lại chẳng thể gọi được là khuôn vàng thước ngọc.
Nhìn lại mọi việc đã xảy một cách bình tâm, chúng ta thấy sự chọn
lựa của Hồ Chí Minh đã bị quy định bởi cái tạng văn hoá sau đây của
ông:
-
Hồ Chí Minh là một người rất thực tế. Thúc đẩy
bởi vấn đề bức xúc của đất nước là độc lập, ông nhận thấy sự hứa
hẹn của Đệ Tam Quốc tế là rõ rệt và rất triệt để, khác hẳn với
những thế lực khác (Mỹ, Nhật), nên đã chấp nhận. Đối với ông chủ
nghĩa Lenin thực tế lúc bấy giờ đồng nghĩa với giải phóng dân
tộc là vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam. Cái tạng thực tế ấy
sau này đã biểu hiện trong việc lãnh đạo của ông đối với mọi
công việc: nói năng, hành động, bao giờ cũng cố tránh những cái
cao xa, trừu tượng.
-
Ông cũng lại là một người nhiều tình cảm và lý
tưởng. Đọc Lenin, thấy gãi đúng ưu tư của mình, ông đã khóc lên
vì vui sướng và tin ngay. Sau này tìm hiểu thêm thấy chủ nghĩa
cộng sản hứa hẹn chấm dứt những khốn khổ của những người lao
động bị áp bức ông càng tin hơn. Khát vọng độc lập cho dân tộc
của ông cũng gắn liền với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công
bằng, nhân đạo. Cũng chính vì vậy mà óc thực tế của ông không
trở thành óc thực dụng tầm thường. Ông chọn Lenin vì con đường
giải phóng đất nước mà còn vì nhu cầu có một người thầy, người
cha tinh thần theo kiểu phương Đông để thờ phụng, tôn kính.
Tất cả những những thuộc tính trên đây đều đã biểu hiện trong sự
chọn lựa nói trên với những ưu và những nhược điểm của nó. Những
người thần phục ông chỉ nói đến những cái ưu nhưng không hề dám nói
đến những cái nhược quan trọng của ông sau đây: 1) quá vội vàng,
không suy xét cẩn thận, cái trí không theo kịp cái tâm 2) trung
thành mù quáng với sự chọn lựa ban đầu, không học được tinh thần
phản tỉnh để can đảm nhìn lại toàn diện con đường đã đi.
Những cái ưu của ông đã bộc lộ trong thời hoạt động bí mật, khi còn
phải sống trong dân và phải nhờ dân che chở. Tính chất trong sạch lý
tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con
đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền. Cũng
nhờ thái độ ấy mà Đảng đã được đa số nông dân ủng hộ, góp sinh mạng
và tài sản cho cuộc tranh đấu chung. Việc chiến thắng nhiều đế quốc
hùng mạnh đã từng đến thống trị Việt Nam không đơn thuần chỉ là vấn
đề thủ đoạn, chiến thuật. Trên nhiều mặt, Đảng Cộng sản hơn hẳn
những lực lượng chính trị yêu nước khác. Trong thời kỳ bị lệ thuộc,
người dân có nhìn vào ông như kẻ “cứu độ” thì cũng không có gì đáng
ngạc nhiên.
Những nhược điểm của sự chọn lựa của ông đã bộc lộ thật rõ rệt trong
thời xây dựng hoà bình. Đấu tố, cải cách: phá hoại đến tận nền tảng
đạo lý dân tộc. Hợp tác hoá: phản bội nông dân về ruộng đất. Chỉnh
huấn: bơm máu đen vào cơ thể Đảng. Trấn áp, chà đạp trí thức văn
nghệ sĩ: phản bội lời hứa về tự do văn hoá. Khoác lác về cái gọi là
“dân chủ gấp triệu lần”, nhưng lại đè đầu cưỡi cổ nhân dân một cách
rất tự nhiên như những cường hào. Làm mất hoàn toàn động lực về phát
triển kinh tế qua chủ trương nhà nước hoá toàn bộ hoạt động sản
xuất. Nói chung: giam hãm dân tộc trong cái ao tù chuyên quyền độc
đoán, lạc hậu nghèo nàn.
Những sai lầm trên đây không phải là những “tồn tại” hoặc những
“khuyết điểm” như Đảng đã giải thích. Chúng nằm ngay trong sự chọn
lựa của Hồ Chí Minh – hợp nhất quá vội vàng giữa hai vấn đề hoàn
toàn khác nhau về bản chất: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội.
Chân dép lốp mà đi vào vũ trụ. Một bên là dép lốp, một bên là
vũ trụ; với dép lốp thì không thể đi vào vũ trụ được, nhưng ta cứ
“thừa thắng xốc tới”, vì vậy mà bao nhiêu điều tàn tệ đã xảy ra. Cái
ý thức hệ mácxít-lêninít mà Hồ Chí Minh ghép vào chủ nghĩa dân tộc
của ông (“từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội”) đã bộc lộ hết
thực chất không tưởng và bất lực của nó. Trung thành mù quáng, căn
cứ vào đó buộc thực tế phải uốn theo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã biến
sự chọn lựa của Hồ Chí Minh thành vật cản đường cho sự phát triển tự
nhiên của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Sự thất bại của mô hình lêninít về phát triển cho những nước nghèo
nàn, lạc hậu là quá rõ ràng. Do sự thúc ép của hàng loạt những nhân
tố trong và ngoài nước, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu,
Đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận điều chỉnh đường đi, chuyển
nền kinh tế “bao cấp, mệnh lệnh” hẳn sang kinh tế thị trường, mở cửa
làm ăn với thế giới tư bản. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” đã ra
đời trong tình hình đó như một thích ứng.
Nhưng xét kỹ thì đây không phải là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ
Chí Minh còn sống, ông đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư
tưởng gì cả. Nếu có một người xứng đáng ở Á châu này thì đó chính là
Mao Trạch Đông (chính vì vậy mà Điều lệ Đảng Đại hội II đã ghi: chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao trạch Đông, phong cách Hồ Chí Minh).
Đối với ông, khi chọn chủ nghĩa Lenin rồi, đó đã là tất cả, là cái
“cẩm nang thần kỳ” có thể giải quyết được mọi chuyện trên đời, chẳng
cần phải nhọc công tìm kiếm làm gì nữa. Nói do ông khiêm tốn có lẽ
chỉ một phần, chính yếu là do có óc thực tế, ông biết rằng mình
không thể nào nắm tóc mình để tự đưa lên cao được. Gán cho ông điều
ông không có và không muốn có, những đệ tử của ông chỉ làm cái công
việc lợi dụng như họ đã từng bất chấp di chúc của ông khi cho ướp
xác và xây lăng cho ông.
Sự lợi dụng đó cũng không phải là đắc sách lắm. Nó chẳng có tác dụng
làm cho chủ nghĩa Marx-Lenin được phát triển hay bổ sung thêm. Đó
chỉ là một bước lùi ý thức hệ đi cùng với bước lùi về kinh tế, hoàn
toàn chỉ có ý nghĩa thực dụng: phải tìm cách làm dịu đi những giáo
điều đã bị thời gian chứng minh là không tưởng, bất lực, sắt máu mà
ai cũng biết như công hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập thể,
đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, quốc tế vô sản v.v… Và
trong khi né tránh bớt những khái niệm đã mất giá ấy thì một số
thuộc tính khác đã được nhấn mạnh hơn, ồn ào hơn: nào là yêu nước,
truyền thống, độc lập, tự chủ, nào là nhân ái, thân dân, hoà hợp…
toàn là những sản phẩm phương Đông và nội địa mềm mại, dịu dàng
không có gì là ngoại lai, khắc nghiệt cả. Cái thủ đoạn thao tác lý
sự ở đây cũng quá rõ ràng: trong hai thành phần được Hồ Chí Minh kết
hợp lại trong sự chọn lựa của mình – chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa
quốc tế vô sản – thì thành phần thứ nhất đã được đưa lên hàng chính
diện để làm lu mờ bớt thành phần thứ hai đi.
Những người có ý hướng cải cách trong Đảng đã nhận ra thủ đoạn này.
Họ đã chỉ ra được cái mưu tính thực sự của những nhà ý thức hệ chính
thống: miệng nói Hồ Chí Minh nhưng hành động vẫn không khác gì
Stalin và Mao Trạch Đông, chuyên chế, khắc nghiệt, giả dối, xảo
quyệt. Sự chỉ trích không phải là vô căn cứ: Đảng chỉ dùng Hồ Chí
Minh như cái bung xung chứ chẳng có thật lòng gì cả. Theo những
người cải cách thì thật lòng là phải thay đổi triệt để phương thức
lãnh đạo của Đảng: phải từ bỏ đường lối nửa vời, khập khiễng, từ bỏ
hẳn chuyên chính vô sản và thực hiện dân chủ cho tương xứng với
chính sách mở cửa và kinh tế thị trường. Chỉ với đường lối cải cách
triệt để ấy, Đảng mới tạo ra những điều kiện tích cực để khắc phục
những ruỗng nát nội tại, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh chóng.
Cũng theo những người cải cách thì sự thay đổi ấy không nằm ở đâu
khác ngoài tư tưởng Hồ Chí Minh đích thực. Trong hình dung của họ,
thực chất của Hồ Chí Minh là phi-Stalin và phi-Mao – một Hồ Chí Minh
nhân đạo dân chủ!
Dù cho có ủng hộ cải cách, chúng ta thật khó lòng mà tìm được sự
khách quan trong cách lập luận trên đây: nếu Hồ Chí Minh đối với
những nhà ý thức hệ chính thống chỉ là một hình ảnh giả thì đối với
những người cải cách, Hồ Chí Minh cũng không thật là bao nhiêu. Sự
khác nhau giữa hai quan điểm chỉ là sự khác nhau về cách khai thác
hai khía cạnh trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh: một bên nghiêng về
phần quốc tế và vô sản, một bên lại nghiêng về phần quốc nội và dân
tộc; một bên nghiêng về phần “chuyên chính vô sản” thì bên kia lại
muốn loại bỏ nó. Cả hai đều làm biến dạng đi một Hồ Chí Minh đích
thực: một người Việt Nam yêu nước, nhưng cũng là một người Việt Nam
yêu nước theo phương thức của Lenin, một người đã đem lại cho đất
nước sự tự chủ và thống nhất nhưng cũng lại là một người đã cho du
nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai mà tác hại của nó còn kéo
dài cho đến ngày nay chưa gỡ bỏ được.
Có thể cho rằng lập luận của những người cải cách chỉ là một cách
trình bày mang tính chất kỹ thuật tranh đấu trong hoàn cảnh không có
tự do tư tưởng, và nếu như vậy thì có lẽ sẽ không cần bàn luận thêm.
Nhưng nếu trong chúng ta có ai thành thật tin rằng với chủ trương
ấy, đất nước sẽ bước vào được một chế độ dân chủ hiểu theo nghĩa
hiện đại thì chắc chắn sẽ có không ít người lên tiếng bày tỏ sự nghi
ngờ: giả sử như có gạt đi hết tất cả những phần ngoại lai, ảo tưởng
của Hồ Chí Minh về con đường tiến lên “chủ nghĩa xã hội” theo kiểu
Lenin, thì Hồ Chí Minh vẫn không thể là ngọn cờ dân chủ được.
Ý kiến này thật đáng suy nghĩ. Mặc dù Hồ Chí Minh có nói nhiều đến
dân chủ, nhưng quan niệm của ông vẫn rất xa lạ với cái nội dung mà
thời hiện đại đã sản sinh ra nó, đặc biệt là cái tính chất giao ước
trần tục của sự phân chia và kiểm soát quyền lực, căn cứ vào đó tổ
chức và quản lý đời sống công cộng. Ông không biết gì đến tính chất
độc lập của xã hội công dân đối với nhà nước, và ông cũng không hiểu
tính chất quyết định làm nên nhà nước hiện đại là nhà nước phi thiên
mệnh, nhà nước sinh ra từ pháp luật và tồn tại bằng pháp luật. Quan
niệm của ông về mối tương quan giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan
niệm của Nho giáo lý tưởng; cái loại nhân dân mà ông yêu mến vẫn chỉ
là loại “xích tử” cần phải được dạy dỗ về luật trời và phép nước
đồng thời lại phải biết lo cho họ về những chuyện “tương cà mắm
muối” để sống trong yên ổn; còn nhà nước theo quan niệm của ông vẫn
chỉ là thứ nhà nước của những người hiền, những bậc minh quân kiểu
vua Nghiêu vua Thuấn đời xưa. Những gì ông nói về “pháp chế xã hội
chủ nghĩa” hoặc “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” cũng đều dựa trên cơ
sở ấy. Chúng chỉ là những ý định tốt của những đấng, những bậc bề
trên.
Sở dĩ ông chọn chủ nghĩa Lenin một cách vội vã và vô điều kiện như
ta đã biết có lẽ là do ông đã trực giác được tính chất “bên trên”
của cách mạng vô sản lêninít trong việc làm lại nước Nga với những
tàn dư nặng nề của thời trung cổ. Là người dân chủ, hiểu rõ học
thuyết Marx, nhưng tình thế đã buộc Lenin làm ngược lại tất cả nhưng
gì mà Marx đã hình dung ra cho xã hội tương lai: thay vì để cho giai
cấp vô sản tự mình trở thành nhà nước như trong Công xã Paris 1871
thì nhà nước Xô Viết lại phải đảm đương công việc giáo dục và tổ
chức lại cái giai cấp vô sản đã tan tác và mất hết tính chất tiền
phong sau cách mạng và nội chiến. Dự định khởi đầu là một lĩnh tụ
dân chủ vô sản vượt xa nền dân chủ tư sản “hàng triệu lần”, cuối
cùng, Lenin thừa nhận đã phải theo gương của một ông vua của thế kỷ
18 – Pierre Đại đế – công khai dùng độc tài để chống lại dã man, lạc
hậu.
Cảm nhận của Lenin về sự không ăn khớp giữa chủ nghĩa Marx hậu hiện
đại và nước Nga tiền hiện đại, Hồ Chí Minh hoàn toàn không hề biết
đến, ông chỉ thấy trong những hành động độc tài của Lenin trách
nhiệm tự nhiên của những minh quân thời trước, nay được hiện đại hoá
qua khái niệm chuyên chính vô sản của Đảng Cộng sản: đó là một nền
chuyên chế nhân đức và cách mạng, một nền chuyên chính vì nhân dân
chứ không phải là cái gì khác. Cái lô-gích của vấn đề ở đây vẫn là
cái lòng tốt từ trên ban xuống. Muốn được giải phóng, muốn có quyền
lực, nhân dân phải hết lòng đi theo Đảng. Đại biểu cho quyền lợi lâu
dài của nhân dân, Đảng được phép làm tất cả để tạo dựng nên cuộc đời
mới cho họ. Sự chuyên chính của Đảng là sự chuyên chính của đám
đông, của chính nghĩa, của khoa học, của chân lý, của cách mạng. Vì
vậy phải tập trung quyền lực vào Đảng một cách tuyệt đối và vĩnh
viễn, không chia với bất ai, không nhân nhượng với ai một mẩu xác
tín nào về chân lý, ai có ý đi ngược lại thì chỉ là những lý lẽ của
bọn thù địch với nhân dân cần phải thẳng tay trừng trị.
Với một quan niệm về quyền lực sắt thép như vậy, Lenin đã dọn đường
cho Stalin vắt cạn sức lực của người dân để nhanh chóng đưa nước Nga
vào con đường công nghiệp hoá, còn Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng
sản đã tích tụ được những hy sinh vô hạn của nhân dân để đánh bại
nhiều thế lực xâm lược hung hãn, giành lại độc lập thống nhất cho
Việt Nam. Nhưng còn về dân chủ, cùng với bao nhiêu thứ khác nữa mà
các Đảng Cộng sản đã hứa sẽ đem lại cho nhân dân trước đây như bình
đẳng, tự do, hạnh phúc v.v… tất cả đều vẫn chỉ là những lời hứa, và
tệ hơn nữa, về sau này đã biến thành những lời dối trá đơn thuần.
“Chuyên chính vô sản”, “chuyên chính nhân dân” bây giờ đã trở thành
chuyên chính với giai cấp vô sản, chuyên chính với
nhân dân. Hiện tượng suy thoái này, vào cuối đời mình Lenin đã mơ hồ
nhận ra như một bi kịch, nhưng ở Hồ Chí Minh, mọi việc dường như đã
êm xuôi như ván đã đóng thuyền, cứ thế lướt sóng mà đi, từ bây giờ
cho đến cả muôn đời con cháu mai sau!
Bài học của người anh hùng
Gần một thế kỷ đã qua, cùng với những biến chuyển lớn lao trên thế
giới và đất nước, hình ảnh Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam đã
không còn như xưa nữa. Tính chất lý tưởng, cao vời mà Đảng Cộng sản
đã cố sức tô vẽ cho một Hồ Chí Minh thần thánh đã không chống đỡ nổi
cho những sự việc tầm thường, sai lầm của một Hồ Chí Minh thực tế:
càng cố thần thánh hoá ông bao nhiêu lại càng gây ra tác dụng ngược
lại bấy nhiêu. Thoả đáng nhất là nhìn ông với những gì ông có, một
cách hiện thực.
Mặc dù tên tuổi của Hồ Chí Minh gắn liền với những gì làm nên cái
gọi là “Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” ngày nay, thiết nghĩ
không nên đồng hoá tên ông với toàn bộ chế độ. Thế giới đã có những
kinh nghiệm tương tự. K. Marx không phải là không có liên quan đến
cái thực thể gọi là “chủ nghĩa xã hội” ở Liên Xô, nhưng đổ mọi sai
lầm của Liên Xô lên đầu K. Marx là hoàn toàn không đúng. Mối quan hệ
giữa Lenin và Stalin cũng có những điểm cần phân tích theo chiều
hướng đó. Trường hợp Hồ Chí Minh đối với chế độ chính trị hiện tại ở
Việt Nam có đặc biệt hơn nhưng cũng cần biết rằng hình ảnh của ông
đã bị chế độ tô vẽ bằng mọi cách để huyễn hoặc quần chúng.
Cũng đừng quên rằng những gì làm nên đặc trưng của Hồ Chí Minh là
vai trò của ông trong thời kỳ chống ngoại xâm, một giai đoạn lịch sử
rất đặc biệt của thế kỷ 20, giai đoạn mà việc đấu tranh giành độc
lập không thể tách rời việc chọn lựa một ý thức hệ. Cần chú ý ghi
nhận đặc biệt này: trong khi vấn đề độc lập là quá rõ ràng về ý
nghĩa thì vấn đề ý thức hệ trong thời hiện đại lại chứa đầy cạm bẫy
và phức tạp. Những cái hay cái dở không phải lúc nào cũng hiển hiện
ngay từ đầu. Những gì tạm thời chưa được chấp nhận chưa hẳn đã sai,
những gì mang đến thắng lợi chưa hẳn đã là đúng. Hơn nữa, sự sai/
đúng cũng không phải lúc nào cũng như nhau: đúng lúc này có thể sai
lúc khác; xem tất cả sự sai/ đúng một cách trừu tượng, bất dịch rồi
căn cứ vào đó để tâng bốc quá trớn hoặc kết án nghiệt ngã – một lần
là xong – là quá đơn giản. Thái độ ấy không thích hợp cho những tiếp
cận khách quan về lịch sử.
Nhìn tổng thể về thế kỷ 20, tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng
lớn của Việt Nam trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Những gì
mà thế giới biết đến Việt Nam một cách tích cực cho đến nay vẫn là
sự kiện Hồ Chí Minh đánh bại các thế lực xâm lược hiện đại, giành
được độc lập cho dân tộc. Thiết tưởng dù chính kiến có khác nhau như
thế nào đi nữa người ta cũng không thể phủ nhận được tính chất hiển
nhiên của các sự kiện ấy. Có thể với nhiều người, ở những nơi nào
đó, việc đánh nhau giành độc lập ấy thật sự chẳng có gì quan trọng
lắm đối với cuộc sống, nhưng đối với đông đảo những người Việt Nam,
từ xưa cho đến nay, điều đó lại là một trong nhiều lý do để sống,
không thể coi như không có.
Thời trai trẻ, tôi quý trọng Hồ Chí Minh là do ông đã tô đậm cái
tình cảm tự nhiên đó trong tôi để tôi biết trách nhiệm với đất nước.
Nhưng cũng chính vì tình cảm và trách nhiệm ấy mà khi tóc đã bạc
rồi, tôi không còn có thể mù quáng tin vào ông nữa. Hồ Chí Minh chỉ
là một nhân vật của lịch sử, còn đất nước là chuyện của muôn đời:
không thể cột chặt vận mệnh đất nước vào sự chọn lựa bất toàn của
một con người, dù đó là một anh hùng. Tốt nhất vẫn là ghi nhận tất
cả những chuyện đúng sai của ông một cách bình thản, hy vọng chỉ có
như thế mới rút ra được những bài học hữu ích cho những thế hệ đi
sau.
Đối với tôi, sự chọn lựa ý thức hệ cho đất nước của Hồ Chí Minh là
bài học đáng suy ngẫm hơn cả. Tất cả đều là những ý định “làm điều
tốt” nhưng tất cả đều thiếu cái chiều sâu của sự phản tỉnh triết
học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là sự trung thành mù
quáng về sau. Lầm lũi đi theo ông, giắt theo mình cái gói hành trang
của những ý định ấy, không biết thường xuyên quay đầu nghiêm khắc
nhìn lại, không có gì bảo đảm để chúng ta không vấp lại những sai
lầm của ông – đẩy cái đám đông nhân dân mà mình muốn đưa lên thiên
đàng xuống chín tầng địa ngục! Nhất là những ý định tự cho là duy
nhất đúng đắn, cần được bảo vệ quyết liệt bằng một định chế quyền
lực cũng tự cho là duy nhất đúng đắn.
Tôi nghĩ rằng bài học ấy không chỉ đáng suy ngẫm cho những người
xưng tụng ông mà còn cho cả những người chống ông nữa.
Thư Nhà tháng 5-2001
© 2007 talawas
Trở
lại Trang Lữ Phương
11-6-08 |