Từ bỏ
Lần đó đi thăm cậu Năm, ông ngoại dắt tôi theo. Chín tuổi, tôi nhỏ nhất
nhà, từ sinh ra chưa từng gặp cậu. Nghĩa là chín năm đôi bên không qua
lại, hoặc bảy, nếu trừ cái lúc tôi quá nhỏ, không nhớ từng được cậu nựng
bồng. Nhưng đứng trước cánh cửa vừa xịch mở, tôi chào người ta chẳng
chút đắn đo,
“Con thưa cậu”,
Sau này nhớ lại, tôi tự hỏi trước buổi thăm đó, ông ngoại đã làm gì tôi,
khắc khảm kiểu chi mà thằng nhỏ không chút bối rối nào khi đứng trước
người đàn bà mảnh khảnh lẽ ra phải gọi chị, dì. Sao nó có thể chắc chắn
đây là cậu mình, và là nhân vật chính đắng cay trong những câu chuyện
thường ngày của ông ngoại.
“Sao, ngó cậu thấy giống trong hình không ?”, ông ngoại bôi bàn chân chỉ
còn bốn ngón lên tấm thảm mịn tựa lông mèo, hỏi.
“Y chang, chỉ tóc dài hơn”, tôi xướng theo luôn, khi sửa lại chiếc dép
tổ ong của mình sao cho thẳng hàng với đôi giày cao gót cậu Năm đặt sát
tường. Giày đỏ, mũi thuôn như mũi chiếc xuồng, và nhỏ nhắn tới mức tôi
không hình dung được có đôi chân nào vừa với nó.
Hơi mất tự nhiên với hai người khách không mời, chóp mũi cậu tôi nở mấy
đốm mồ hôi. Ký ức có hình ảnh đó, nhưng tôi ngờ nó đã bị chỉnh sửa. Bởi
đứa trẻ đâu kịp ngó vẻ mặt chủ nhà, vì bận phải xuýt xoa những hoa trong
bình, những rèm voan trắng như sữa viền tua rua đỏ, những bức tranh thêu
chữ thập trên vách. Gần cửa sổ có cái xích đu tổ chim, ngay bệ tường một
ly cà phê uống dỡ, vẫn thấy qua ánh sáng mấy gợn khói mỏng dờn. Thằng
nhỏ quýnh lên, nó nôn nao muốn trèo vô tổ chim đong đưa, nhưng ngại
người đầy mồ hôi sẽ làm nát hết mùi thơm thoảng trên gối tựa. Sợ những
thứ tinh sạch ở đó sẽ bị hai ông cháu nhà quê luốc lem cám gạo làm cho
xỉn màu.
Chỉ có một thứ trong ký ức đáng tin, là mọi thứ trong căn chung cư đó
đều thanh tú, như chủ của chúng. Còn lại ý thức bẻ cong, kể từ tôi biết
nhà bên ngoại mình có một người đàn ông tự biến mình thành phụ nữ, và
ông ngoại không bao giờ chấp nhận chuyện đó, kể cả khi ông chẳng thể
ngăn cản được những cuộc phẫu thuật lớn nhỏ, những đẽo gọt, điêu khắc
lại một hình hài. Sâu đã thành nhộng, hóa bướm bay đi, ông ngoại vẫn giữ
chiếc kén chết khô, hy vọng còn sót gì trong đó.
Và ông đã tuyệt vọng biết bao nhiêu, khi kéo cả một đứa con nít mới chín
tuổi vào làm đồng minh. Má và mấy dì tôi đã chịu thua, từ bỏ khi hay cậu
Năm về xã làm thủ tục thay tên. Nghe anh nhân viên hộ tịch kể, cậu đòi
được lấy tên Mộng Yên, nói thêm, “họ gì cũng được”.
“Giỡn hoài, cái họ quan trọng vậy, gì cũng được là sao ?”, khi đó anh nọ
cự.
“Cha
tôi họ Nguyễn”, cậu nói, sau một lúc tần ngần. Có con sông Vàm chảy
trước ủy ban chứng kiến, kẻ ném cái tên cũ vào đáy nước đã quay bước dứt
khoát, không ngoái nhìn một lần nào giây phút nó chới với rồi chìm dần
theo những sủi tăm. Chỉ còn cái họ, giữ lại cũng là miễn cưỡng.
Bữa đó cậu không ghé qua nhà, đón xe đò đi thẳng về Gòn Phố. Dì Út tôi
đi chợ ngược chiều xe, tình cờ nhìn thấy, quýnh lưỡi kêu anh Cường ơi
nhưng chỉ có những hành khách xa lạ day mặt ra dòm, có gã còn chòng
ghẹo, “về nấu cơm tắm rửa chờ anh”.
Hay được cái tên cuồn cuộn cơ bắp đàn ông đã đuối nước chết trôi, ông
ngoại nổi khùng, không ngừng gây chiến. Cả nhà không rõ xảy ra gì trong
những cuộc gặp tay đôi, chỉ biết sau những chuyến đi thăm cậu về, ông
mệt muốn đứt hơi bởi đường xa và cay đắng, khi thấy con gái trèo thang
sửa ống khói, trong lúc thằng rễ ôm gà đi cáp độ ở tận miệt nào,
“Cái thằng khốn trời đánh”, ông ngoại rủa, nhưng cả nhà biết câu đó
không dành cho ông rễ mê chơi, ngay từ đầu bị coi là người ngoài, mà cho
thằng con trai đang ở đâu đó, hoặc vừa trải qua ca phẫu thuật đau đớn
nữa hoặc ngồi trước gương tỉa lại chân mày. Có trời mới rảnh mà ngồi
đếm, má với hai dì tôi phải làm bao nhiêu thứ nặng nhọc để duy trì nhà
máy chà gạo, loại công việc không dành cho người tay nhỏ chân mềm. Phải
chi có đàn ông trong nhà, dù thể tích ngang nhau, nhưng đứng cạnh bàn
gằng anh ta cũng không đến nỗi nào nhỏ bé.
Nghĩ, chắc vô vọng lắm ông ngoại mới rủ tôi theo. Nhưng thằng bé chín
tuổi không có nghĩa là vô hại, những cú ra đòn của nó dù ngây thơ, đã
làm ông ngoại nhiều lần đắc ý
“Cậu diện áo đầm đi dễ té, sao không mặc quần hai ống giống như con cho
gọn”, tôi nói. Những câu nói nhân danh tình thâm được rải lền khên trong
suốt mấy ngày chúng tôi ở lại nhà cậu Năm. Buổi sáng ông ngoại đưa tôi
tới bệnh viện rửa tai, dĩ nhiên viêm tai giữa thì bác sĩ ở trạm xá xã
nhà lo được, nhưng ông ngoại còn muốn ở lại rề rà mấy chuyện cũ èo,
“Cậu mầy hồi nhỏ có tên trong đội banh của trường”
“Ở nhà còn giữ cái hình đó, cậu ôm trái banh, đen thui, được cái hàm
răng trắng”
“Nó đánh nhau cũng dữ”
“Đánh không thắng thì cắn, má con kể vậy. Đâu phải nhỏ con là dễ bị ăn
hiếp đâu”
“Bởi vậy”,
Sau này tôi ngờ rằng ông ngoại khơi chuyện cũ không phải để đánh thức
một phần đời bị cậu Năm ruồng bỏ, chỉ là ông muốn nói rằng mầy có thành
tiên thành quái, thì không chối được đã từng là thằng nhỏ ở truồng tắm
sông. Thoát cách nào, con ?
Hai ông cháu tôi đi xe đêm tới nhà cậu buổi sáng, buổi chiều ông ngoại
làm quen hết xóm giềng chung cư. Nghe nói mấy chỗ ở trước của Năm sang
hơn nhiều, nhưng cái giá tạo tác các đường cong, hố sâu của một người
đàn bà thì đắt đỏ, cậu buộc đổi nhà. Chẳng lý do nào có lý hơn, để giải
thích sao một người mảnh khảnh như cậu lại ở một chung cư không thang
máy, rác thò ra khỏi miệng thùng, âm thanh những cánh cửa khép mở cứ
nghiến sít trên nền gạch, và những người vô công rỗi nghề suốt ngày tụ
tập ngay quán nước tầng trệt tòa nhà, bàn tán chuyện bà già tầng ba cặp
bồ với thằng con nít, ai đó ở tầng năm bị ếm xì bùa. Một chỗ quá lý
tưởng để ông ngoại tuyển mộ chiến binh, những người không bao giờ tiếc
thời gian và nước miếng,
“Thằng Cường con tôi thấy vậy thôi, chớ hồi chưa chuyển giới nhìn nó
ngầu lắm”, ông ngoại nói, giọng va vào những bức tường dội ra sân nắng,
nơi có hồ nước thả bèo hoa dâu và mấy băng đá sứt mẻ đặt quanh, suốt
chạng vạng là chỗ của những đứa trẻ bị ép ăn, cùng với những bà mẹ bưng
chén cơm rượt đuổi theo không mệt mỏi.
Chỉ cần một chi tiết làm mồi, là khói thị phi tỏa khắp chung cư. Người
ta hít hà, kêu có cho vàng họ cũng không dám tin con nhỏ từng là đàn
ông, người làm xây xẩm nhiều gã chồng trong tòa nhà, và những bà già hay
đưa chuyện cứ tò mò sao cô ta không tham gia mấy cuộc thi sắc đẹp, hay
ít nhất cũng phải đóng phim.
“Làm đàn bà khổ thấy mồ, thiệt không hiểu ham gì mà bất chấp”, một thím
thở hắt
“Bởi vậy”, ông ngoại tôi nhanh chóng chụp bắt lấy cái ngậm ngùi của
người đem vào câu đầu môi.
Đặt cậu tôi vào trung tâm chung cư, ông ngoại tôi thành công quá sức.
Ngó cậu bằng ánh mắt như tò mò như thương xót, có thím còn sấn lại sờ
nắn khuôn ngực vểnh lên sau làn áo, khen mềm y như thật. Mặt tràn đầy độ
lượng, cậu chỉ cười, bỏ đi. Sâu trong mắt có thê lương, nhưng khó phân
biệt ấy dành cho người hay cho mình.
Chi tiết đó tôi không tin lắm, con nít biết gì mà nhìn đáy mắt. Cũng như
chuyện xảy ra ở ban công, của buổi sáng ngày thứ ba chúng tôi làm khách.
Tự dưng ông ngoại lên cơn lịch sự, mở cửa bước ra ban công hút thuốc,
sau mấy bữa làm vữa không khí trong nhà bằng thứ khói hôi xì. Cậu tôi
đứng ở kệ sách ngó theo, mắt bỗng rực lên rồi tối rộ, cảm giác thứ ý
nghĩ đen nào đó tràn rìa não. Ngoài kia ông ngoại đi tới lui, phà khói
vào mấy chậu đổ quyên, bằng tất cả căm ghét, như ghét những gì quá sức
đàn bà ở trong căn nhà cậu. Không thể đập phá tất cả chúng, đâu thể vờ
như lỡ tay quá hai lần sau khi cho về cát bụi chậu cỏ gương và bình bông
màu trứng sáo, ông phà khói thuốc vào những thứ chẳng tội gì. Và khi ông
bước tới lan can, xoay người, định tựa lưng vào đó, cậu tôi thảng thốt
kêu,
“Đừng cha, rào gãy ! ”
Nói gãy cũng không chính xác, dãi lan can được làm bằng sắt, lâu ngày
ghỉ sét, đứt chân, dù vẫn đứng sững. Sẽ khó thấy chỗ đứt ấy bởi đã bị
những chậu cây nhỏ che khuất, nhưng chỉ cần tì người vào cầm chắc rơi từ
tầng hai xuống đất. Độ cao đó không làm ai chết, nhưng chẳng gì bảo đảm
người già nào đó không bị gãy chân, giập xương sườn. Gãy xương không
chết, nhưng cần rất nhiều thời gian để lành, và quãng thời gian ấy người
ta chẳng thể ngồi xe đò đường dài đuổi theo một bóng mây.
Những gì tôi nhớ về chuyện xảy ra ngoài ban công sáng ấy, ngờ là nó xảy
ra rất nhanh, ông ngoại bước ra ngoài, cậu kêu lan can gãy, ông không
cảm ơn mà còn day qua cạu nhạu sao không kêu thợ sắt sửa lại, để vậy
chết như chơi. Hoàn toàn không có thời gian cho một người trưng bày cái
nội tâm phức tạp, trước cơ hội được tự do sống trong hối lỗi.
Từ ngờ ký ức mình, tôi không tin hồi ký. Một ông già kể lể tuổi thơ buồn
tủi, vào đúng thời điểm đó, thằng nhỏ có tan nát vậy không, hay nó chỉ
buồn chút rồi quên, mê chơi vô lo, giống như bản chất của mọi đứa trẻ.
Mấy ngày ở lại chơi nhà cậu Năm, mỗi ngày tôi phản bội ông ngoại mấy
lượt. Tôi gần như bị khuất phục hoàn toàn bởi một thứ lúc nào cậu cũng
sẵn : mùi thơm. Không phản đòn khiêu khích của ông ngoại (với sự trợ
giúp vô tình của tôi), cậu chừng như chẳng chống trả, chỉ cười nhẹ và
thơm nhẹ. Cái mùi thơm của thịt da, như được tiết ra từ tủy xương, khiến
tôi tò mò muốn chết, theo hỏi hoài, cậu làm sao mà thơm được vậy.
“Làm đàn bà”, cậu tôi nói, mắt ngó ông ngoại, hơi mỉm cười. Câu trả lời
chắc chắn chẳng dành cho con nít.
Nhớ cậu, trong tôi không phải là không có chút cảm giác tình thân. Cậu
không chê tôi hôi sình, hay kéo vào lòng, chải mớ tóc cháy nắng. Bất
chấp tôi gọi cậu ơi à giữa đám đông, gặt bộn cái nhìn chưng hửng, buổi
tối nào cậu cũng dẫn tôi đi ăn kem ở ngã tư Bốn Ngựa. Những ngón tay
thuôn muốt mà tôi nắm lấy lúc qua đường luôn làm tôi căng thẳng, chúng
mềm như của một đứa trẻ, nhìn rất thật ở những mạch máu nhỏ hiện ra rồi
biến mất vô chừng, và gần như không nhận ra đoạn khớp nối giữa các đốt
bằng mắt. Dứt khoát những ngón tay không phải ông bác sĩ nào tạc nên,
tôi nghĩ vậy, lần đầu tiên nghi ngờ chuyện ông ngoại nói, “trên người
cậu Năm mầy thứ chi cũng giả”
“Đâu, cũng có thứ thiệt, giọng nói thiệt”, bữa đó má tôi phụ thêm.
Nhưng giọng nói, chính là thứ duy nhất tôi nghi giả, bởi cái chất âm
luôn bị gia giảm, bóp méo kiểu gì, khiến lời nhỏ nhẹ quá mức, chừng như
không thực, buông ra trong trạng thái buộc lòng. Trái cây buộc lòng phải
chín, dù có ngọt thì cũng thớ lợ.
“Thấy vậy chớ cậu mầy ca thần sầu lắm”, vào buổi tối thứ ba làm khách
trong nhà cậu, ông ngoại nói trong lúc ngồi gỡ lớp da nẻ ở gót chân.
Những lúc đó trông ông mơ màng, và nói thứ chi cũng có vẻ bâng quơ.
“Giọng vậy sao ca được ?”, tôi cãi, nhiều lúc tôi thấy ông ngoại không
đáng tin.
“Không tin kêu cậu mầy ca thử”
Bữa đó cậu có thể từ chối, kêu không thuộc bài nào, hoặc đau họng hết
hơi, kệ tôi kèo nài bởi muốn chứng minh ông ngoại đã sai. Nhưng cậu nựng
bó nọng dưới cằm tôi, nói luôn, ừ thì ca. Đoạn tuyệt, tôi nhớ tên bài
hát, dù sau này phát hiện ó tới vài ba Đoạn tuyệt, và tôi không phân
biệt được bữa đó cậu Năm ca bài nào. Cả nỗi buồn trong từng bài hát cũng
khiến tôi bị nhịu lẫn, bởi đoạn tuyệt thường y hệt nhau, nhiều đau đớn.
Rất có thể cậu ca bài vu vơ nào khác, chẳng ẩn dụ gì, nhưng ý thức đã
thay bằng một Đoạn tuyệt mang tính biểu tượng cao hơn, hợp với hoàn cảnh
hơn.
Khỏi nói giọng ca cậu làm tôi thất vọng cỡ nào. Vỡ nát ở những nốt cao,
và mất hút ở đâu khi ngang qua chỗ thấp. Vừa cất giọng lên là bao nhiêu
xinh nhỏ trên người cậu bị ngờ vực ngay lập tức, sao những thanh tú ấy
có thể phát ra âm thanh như vậy.
“Giọng này thần rầu chết ngựa, ai đâu mà sầu, ngoại ?”
“Ờ, con gà trống, gáy sao cũng là tiếng gà trống”, ông ngoại châm điếu
thuốc, khoái chí cười. Lúc đó ông quên gà trống thiến thì không gáy. Tôi
không nhớ sau câu nói ấy vẻ mặt cậu ra sao, nhưng có thể như mọi khi,
cậu chỉ cười, độ lượng.
Sáng sau ông cháu tôi thức dậy không thấy cậu đâu. Trên tủ lạnh thấy dán
tờ giấy ghi mấy lời nhắn rằng đồ ăn nấu sẵn trong tủ lạnh, khi ăn nhớ
lấy ra hâm nóng. Cả ngày tiếp theo, cậu Năm cũng không về. Ông ngoại bồn
chồn như vị tướng dẫn binh vào chỗ vườn không nhà trống, chẳng biết giặc
chơi chiêu gì tiếp theo. Buổi xế trưa ngày thứ sáu, ngày mà ông ngoại
không nói lời nào tọng quần áo ướt trên dây phơi vào giỏ dắt tôi ra bến
xe, cậu Năm được bạn đưa về với cổ quấn băng trắng, người hơi xanh. Hỏi
cậu bị sao, người bạn kia cười, “cắt dây nói”. Hiểu lầm vẻ mặt ông ngoại
tôi, người kia trấn an luôn, “tiểu phẫu thôi, so với mười mấy cuộc trước
là đồ bỏ”. Ông ngoại tôi nuốt nước miếng như nuốt khúc xương, ngó ra
cửa, trước khi cậu Năm chìa cho tờ giấy nhỏ màu hồng,
“Cha về đi”, cậu ghi. Chữ thanh tú, như người. Và không thiếu, thừa dù
là nửa chữ.
Không hiểu sao lúc đó tôi linh cảm đây là lần cuối cùng ông ngoại và cậu
gặp nhau, khi nhón chân ngó vào tờ giấy. Ông ngoại buông tay. Và Cậu lại
sắp đổi nhà, đến một nơi không ai biết cậu từng là ai.
Lúc đó tôi chín tuổi, gặp cậu Năm tôi lần đầu nhưng đã nhìn thấy hoạt
cảnh của những lần tình cờ gặp lại sau này, tôi lạnh như không, và chúng
tôi chào hỏi nhau hệt chưa từng quen biết.
Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư
Dùng bản Tư gởi |