CÒN AI NHỚ NHỮNG NƠI NÀY Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
Thương nhớ những cây
cầu
Sài Gòn – Chợ Lớn là đô thị sông nước, hẳn rồi. Vì thế đây cũng là thành
phố có nhiều cây cầu cổ xưa, từng giữ vai trò quan trọng của hệ thống
giao thông đường bộ trong quá trình đô thị hóa gần suốt thế kỷ XX. Lang
thang Sài Gòn - Chợ Lớn, nhìn ngắm những cây cầu mới hay cũ như đang
được gặp gỡ những “chứng nhân” của từng giai đoạn lịch sử thành phố.
Khu vực Sài Gòn – Gia Định có những cây cầu nổi tiếng như Cầu Thị Nghè,
cầu Bông, cầu Bình Lợi, cầu Kinh, cầu Kiệu, cầu sắt Đa Kao, cầu Trương
Minh Giảng, cầu Công Lý… rồi cầu Ông Lãnh, cầu Mống, cầu Khánh Hội, cầu
Calmette, cầu Kho-cầu Muối, cầu chữ Y…
xây dựng trong nửa đầu thế kỷ XX. Đến nay hầu hết những cây cầu
này vẫn còn và đã sửa chữa nhiều lần hoặc được xây mới nhằm đáp ứng nhu
cầu giao thông ngày một tăng của đô thị lớn nhất nước. Những cây cầu ở
khu vực này cho thấy một Sài Gòn hiện đại, trẻ trung đang ngày một đẹp
hơn.
Khu vực Chợ Lớn kinh rạch chằng chịt. Những con kinh chính ở Chợ Lớn là
Kinh Tàu Hủ đoạn từ Xóm Chỉ (đường Tản Đà đến Rạch Lò Gốm), Rạch
Chợ Lớn (đoạn chảy từ Xóm Chỉ hướng vế Bắc vào Chợ Lớn, Tây đến giáp
nước Rạch Chợ Lớn-Rạch Lò Gốm và kinh Vòng Thành (đường Nguyễn Thị Nhỏ
ngày nay); Kinh Bãi Sậy (kinh Hàng Bàng, Canal Bonard) và Kinh Vòng
Thành (Bao Ngạn- Canal de Ceinture, được đào năm 1875 nhưng chỉ vài chục
năm sau đã bị lấp đi vì xóm Lò Gốm không còn hoạt động nữa)… Từ những
con kinh này có hàng chục rạch nhỏ tỏa đi khắp khu vực như những mạch
máu li ti nuôi dưỡng sức sống ngày đêm của một đô thị thương mại lớn
nhất phía Nam. Vùng này cũng có những cây cầu nổi tiếng như cầu Chữ Y,
cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chà Và…
Chỉ cần đi dọc theo những con kinh có thể còn nhìn thấy những cây cầu
sắt cổ xưa đã già nua lắm rồi: trên kinh Tàu Hũ có Cầu Xóm Chỉ, cầu Bình
Tây, cầu Chữ U… Trên kinh Bãi Sậy- Hàng Bàng có cầu Gò Công… Một số cây
cầu khác chỉ được gọi đơn giản là “cầu sắt” để phân biệt với cầu xi
măng, mặt cầu còn lót ván, có cầu thang đi lên, nay chủ yếu dành cho
người đi bộ và xe đạp. Đoạn cuối kinh Tàu Hũ ở quận Tám còn vài cây cầu
sắt in bóng trên dòng kinh đen cùng bóng dừa,
vài chiếc ghe miền tây neo lại nổi lửa trên bếp cà ràng cho bữa
cơm chiều… dường như chốn thị thành xa lắm, dù chỉ bên kia cây cầu đã là
đại lộ mới tám làn xe chạy thênh thang…
Kinh rạch vùng Chợ Lớn đã
bị lấp nhiều do tốc độ đô thị hóa và sự hoàn thiện của đường bộ, do dó
nhiều cây cầu cũng biến mất theo, chỉ có thể “nhìn thấy” qua những bức
ảnh xưa như cầu Ba Cẳng, vài cây cầu đã thành đường như cầu Minh Phụng,
Lò Gốm, cầu Quới Đước, cầu Gò Công…
Ngày cuối năm ngồi ở quán cà phê nhỏ trên đường Hoàng Sa, trước mặt là
công trường chuẩn bị xây dựng lại cầu Kiệu. Hai cầu tạm đã được bắc
xong, đường dẫn vòng cũng đang hoàn thành, cần cẩu đã được đưa về phía
đầu cầu, xà lan đã neo ở chân cầu… Giờ này còn vắng chứ vào giờ tan tầm
con đường này cây cầu này thường kẹt đường chen chân không lọt. Theo
thiết kế, các cây cầu huyết mạch đang được xây mới như cầu Bông, cầu
Kiệu, cầu Lê Văn Sĩ, cầu Hậu Giang có kiến trúc đẹp, hiện đại, nâng cao
tĩnh không cho ghe tàu có thể lưu thông trên sông rạch, Nhiêu Lộc – Thị
Nghè hay Bến Nghé, Kinh Đôi… sẽ hồi sinh, sức sống của thành phố sông
nước sẽ ngày càng tươi mới.
Theo đà phát triển, nhiều kinh rạch ở nội thành ngoại ô đã bị lấp để xây
dựng thành đường bộ, thành phố liền lạc hơn mở rộng hơn xưa nhiều lần
nhưng hiện tượng ngập nước khi mưa, vào những ngày “triều cường” cũng
nhiều hơn… Đi đường bộ quen rồi lại thấy những cây cầu là “chướng ngại”…
Không khéo sau này ký ức về các cây cầu chỉ còn lưu lại ở địa danh bởi
cầu mới không khác gì đường
bằng, qua cầu cũng chỉ như đi trên một đoạn phố thị mà thôi.
Vậy nên giờ này ngồi đây mà đã thương nhớ những cây cầu xưa quá chừng
quá đỗi…
Có còn ai nhớ nhà đèn
Người Sài Gòn không mấy ai không biết đến địa danh Chợ Quán. Chợ Quán
nguyên là tên một xứ đạo hình thành vào khoảng cuối thế kỷ 18. Nhà thờ
Chợ Quán xây dựng từ 1887 đến 1896 – một trong vài nhà thờ xây dựng sớm
nhất và đẹp nhất tại Sài Gòn. Dần dần khu vực này phát triển thành một
phần của đô thị Sài Gòn mở rộng hồi cuối thế kỷ 19, địa danh Chợ Quán
gắn liền với hai công trình dân sinh khác, đó là Nhà đèn Chợ Quán và nhà
thương Chợ Quán.
Hỏi người Sài Gòn: nhà đèn Chợ Quán ở đâu thì chắc chắn sẽ nhận được câu
trả lời, nó ở kế bên nhà thương Chợ Quán. Hỏi tiếp, vậy chớ nhà thương
Chợ Quán ở đâu, thì nghe: cứ kêu taxi
hay xe ôm chạy tới vùng Chợ Quán hỏi thì ai cũng biết! Hóa ra hai
cái “nhà” này nằm kế nhau trên đường bến Hàm Tử (cũ), nơi giáp ranh quận
Một và quận Năm, quay mặt ra sông Bến Nghé – con sông thông thương giữa
sông Sài Gòn, vùng Bến Nghé với vùng Chợ Lớn và đi về miền Tây.
Vậy tại sao không gọi Nhà đèn Chợ Quán là nhà máy điện Chợ Quán (như nhà
máy điện Yên Phụ ở Hà Nội)? Có lẽ phải trở về lịch sử chiếu sáng đô thị
Sài Gòn. Từ năm 1867 ở Sài Gòn, chủ yếu là khu trung tâm quận Nhất hiện
nay, đã có đèn thắp sáng đường
phố bằng dầu dừa, nhưng chỉ gần ba năm sau, 1870, đã có đèn thắp
sáng bằng dầu lửa. Đèn dầu lửa sử dụng liên tục mấy chục năm. Đến đầu
thế kỷ 20 bắt đầu có đèn điện chiếu sáng từng khu vực rồi mở rộng sang
vùng Chợ Lớn. Vì vậy, gọi là
Nhà đèn là vì nhà máy làm cho đèn điện cháy sáng, kể cả đèn điện ở trong
nhà lẫn đèn điện ở ngoài đường. Người Sài Gòn giải thích giản đơn như
vậy.
Nhiều người, cả tôi nữa, vẫn cho rằng Nhà đèn Chợ Quán là nhà máy điện
sớm nhất Sài Gòn, có khi sớm nhất nước, nhất Đông Dương. Nhưng hóa ra
không phải! Sài Gòn có nhà máy điện đầu tiên vào khoảng năm 1897 nhưng
nó ở vào vị trí Công ty Điện lực trên đường Hai bà Trưng phía sau Nhà
hát Lớn bây giờ. Sau đó có thêm một vài nhà máy điện nhỏ khác nhưng chỉ
cung cấp điện cho từng khu vực. Nhà đèn Chợ Quán xây dựng vào năm 1922
với công suất đủ cho nhu cầu của Sài Gòn – Chợ Lớn và một số thị trấn
phụ cận như Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, đồng thời từ lúc này này hầu hết các
đường phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều được chiếu sáng bằng điện của “nhà đèn”
Chợ Quán nên tên gọi này được nhiều người biết và nhớ cho đến nay, khi
nhà máy đã đi vào quá khứ hơn chục năm.
Nhà đèn Chợ Quán nằm kế sông Bến Nghé, cũng như nhà máy điện Yên Phụ ở
Hà Nội nằm cạnh bờ đê sông Hồng. Con sông là đường vận chuyển than –
nhiên liệu chính của máy phát điện. Sau này nhà máy có máy phát điện
bằng dầu Diezen nhưng người Sài Gòn đã quen với những ống khói cao tuôn
những cột khói trắng lan nhanh trên bầu trời xanh. Nếu thấy từ phía nhà
đèn Chợ Quán những cột khói đen là dân Sài Gòn biết có sự cố, coi chừng
mất điện. Hàng ngày vào lúc mười hai giờ trưa, cũng từ đó khói trắng dày
hơn, rồi vang lên một hồi còi dài. Thợ thuyền thì gọi là còi tầm (thay
ca kíp) còn công chức thì biết đến giờ nghỉ trưa. Từ các nhà máy, công
sở người tuôn ra, đường phố tấp nập giữa cái nắng gay gắt và ngay cả
trong cơn mưa tầm tã…
Đã lâu rồi trong các đô thị không còn vang lên tiếng còi tầm dù nhịp
sống vẫn vội vã như thế. Vắng những tiếng còi tầm, tiếng chuông nhà thờ
hay chỉ tiếng chuông đồng hồ thong thả trong từng ngôi nhà, dường như
con người ít khi biết giật mình nhìn lại…
Khi đại lộ Đông – Tây (nay là đại lộ Võ Văn Kiệt) đang xây dựng thì từ
đầu năm 2008, khu vực nhà đèn Chợ Quán rộng 6,5 ha được quy hoạch
thành Khu phức hợp văn phòng - trung tâm thương mại - khách sạn - căn hộ
(gọi tắt là khu phức hợp).
Nhà máy điện Chợ Quán đã ngừng phát điện, những tòa nhà đồ sộ hồi nào
xây bằng gạch lâu ngày ám khói đen, những ống khói vươn cao không còn
nữa, nhà thương Chợ Quán cũng xây mới và đổi tên thành Trung tâm bệnh
nhiệt đới.
Cảnh quan nơi này đã thay đổi hoàn toàn. Địa danh Chợ Quán chắc không
lâu nữa ít người biết đến, bởi vì thế hệ cư dân gắn liền với địa danh
này đã vào lứa tuổi xưa nay hiếm. Ký ức của họ về nhà đèn Chợ Quán mà họ
muốn kể cho con cháu có chăng chỉ còn trong trí nhớ, trên vài tấm bưu
ảnh. Ngay cả cái tên nôm na “nhà đèn”, “nhà thương”, “nhà giây thép”
(bưu điện) chỉ còn đâu đó trong vài đoản văn nhớ về xưa cũ. Với những
người phải rời chốn này sinh sống ở phương xa, nhớ về Sài Gòn là nhớ
những gì gắn bó thân thuộc hàng ngày, con đường góc phố, quán cà phê
nhỏ, cây điệp vàng, hoa dầu hai cánh xoay xoay… tất cả thuộc về đời sống
bình thường nhưng cũng là “chứng nhân” của bao thăng trầm của đô thị Sài
Gòn.
Là sự trùng hợp hay hữu ý mà nhà máy điện Yên Phụ ở Hà Nội cũng đã tháo
dỡ và ngưng phát điện từ năm 1988, thay vào đó là công trình trụ sở Tổng
công ty điện lực Việt nam VNE. Còn ở Sài Gòn, chỗ nhà đèn Chợ Quán nay
cũng được quy hoạch “xây dựng
công trình khu văn phòng công ty Điện lực TP.HCM làm điểm nhấn phát
triển các công trình xung quanh”. Đối với những trung tâm kinh tế - văn
hóa – chính trị thì nguồn điện là năng lượng quan trọng không thể thiếu
được cho đời sống và sản xuất kinh doanh, vì vậy nhà máy điện là một
trong những cơ sở hạ tầng dịch vụ quan trọng nhất của đô thị. Bởi vậy
trong ký ức đô thị của người Sài Gòn luôn hiện diện nguồn ánh sáng từ
nhà đèn – như một biểu tượng của nếp sống văn minh.
Khu phức hợp hiện đại thì cũng cần, nhưng vì thế mà phế bỏ chứng tích
văn minh đô thị ngót trăm năm thì như vậy lại không phải đạo. Không biết
trong tòa nhà hoành tráng kia có góc nào dành cho ký ức về nhà đèn Chợ
Quán hay không?
Cột cờ Thủ Ngữ
Theo tài liệu lịch sử, sau khi chiếm Sài Gòn (1859) Pháp xây dựng công
xưởng hải quân (tức xưởng Ba Son) ngay sát Xưởng Thủy của triều Nguyễn,
nơi được coi là vị trí rất tốt cho việc đặt các ụ sửa tàu, có khả năng
tiếp nhận nhiều loại tàu thuyền vào cập bến. Bên cạnh công xưởng hải
quân chính quyền Pháp cũng thiết lập một hải cảng thương mại quốc tế mới
ở sông Sài Gòn phía cửa rạch Bến Nghé. Chỉ một năm sau (1860) Pháp đã
quyết định mở thương cảng cho tự do thông thương và khu vực cảng này
hoàn tất vào năm 1863, đánh dấu bằng sự hiện diện của tòa nhà trụ sở
Công ty vận tải đường biển Pháp (Messageries Maritimes) tức Bến Nhà
Rồng. Khoảng từ 1870 bắt đầu có tàu thủy chạy bằng hơi nước từ nhiều nơi
ghé bến Sài Gòn.
Cột cờ Thủ Ngữ được xây dựng vào tháng 10 năm 1865 tại khu vực ngã ba
rạch Bến Nghé gặp sông Sài Gòn, đối diện với bến Nhà Rồng, nay ở đầu
đường Hàm Nghi. Cột cờ là một bộ phận kỹ thuật của cảng Sài Gòn, có chức
năng gắn liền với việc điều hành những chuyến tàu ra vào cảng. Kiến trúc
của Cột cờ Thủ Ngữ khá độc đáo gồm 3 tầng giật cấp, phần dưới cùng là
nền cao, phía trên xây một ngôi nhà bao quanh chân cột cờ, gian chính
giữa cao hơn có phần mái hình bát giác… Trên một tấm ảnh chụp ghi năm
1882 đã thấy cột cờ Thủ Ngữ và Nhà Rồng tạo nên một cảnh quan đẹp tại
nơi “thoi loi đất” ngã ba sông rợp cây xanh và lộng gió.
Ở Sài Gòn và vùng phụ cận có vài địa danh mang chữ "Thủ", như Thủ Thiêm,
Thủ Đức, xa hơn là Thủ Dầu Một ở Bình Dương, Thủ Thừa ở Long An... Theo
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, "Thủ" có nghĩa là "giữ, giữ gìn". Cột cờ "Thủ
ngữ" ở Sài Gòn với chữ “thủ” mang nghĩa là "điểm/vị trí giữ cửa/cảng
biển”. "Gia Tân nền tạm thuở xưa, Ngày nay có dựng cột cờ gần bên" như
Gia Định phong cảnh vịnh
củaTrương Vĩnh Ký đã miêu tả. Vương Hồng Sển ghi trong
Sài Gòn năm xưa về chức năng
của cột cờ Thủ Ngữ: “Trên chót vót ngọn cờ thường thấy treo ám ngữ, ban
ngày là cờ vải, cờ màu, hoặc một quả bóng sơn đen. Ban đêm thì treo một
ánh đèn, khi trắng khi đỏ, tức là ám hiệu báo tin cho tàu bè biết hiệu
lịnh tránh lỗ rạn hiểm nguy, ghe thuyền qua lại, trong lúc vô ra sông
Sài Gòn”.
Thời đó, lúc chưa có xe hơi, sang lắm mới đi xe ngựa, phần lớn dân chúng
đi bộ… thì việc những chiếc tàu thủy từ phương xa theo sông Sài Gòn vô
tận bến cảng là biểu hiện của quá trình “hiện đại hóa” vào nửa sau thế
kỷ 19. Cột cờ Thủ Ngữ có vị trí ngay bến cảng, cấu tạo bằng sắt cao vút
với nhiều bộ phận, chức năng báo hiệu cho tàu thuyền ra vào, khác biệt
với cột cờ truyền thống trong thành quách cung điện xưa… đã trở thành
một dấu chỉ hiện đại của đô thị Sài Gòn.
Ngày nay Cột cờ Thủ Ngữ không còn thực hiện chức năng của nó. Các công
trình ở gần như bến Bạch Đằng, Bến Nhà Rồng, cầu Mống cùng với cột cờ
Thủ Ngữ tạo thành một quần thể di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu,
chứng nhân của quá trình phát triển cảng Sài Gòn và nhiều sự kiện lịch
sử quan trọng của Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh. Trải qua gần 150 năm, hiện
nay khi hệ thống cảng Sài Gòn đã di dời gần hết ra khỏi thành phố, từ
Tân Cảng đến Ba Son, kể cả khu vực Khánh Hội, thay vào đó là những dự án
của một vài tập đoàn bất động sản đã “chuyển đổi công năng” toàn bộ khu
vực có những di tích công nghiệp xưa nhất của thành phố và cả nước… thì
có lẽ Cột cờ Thủ Ngữ và Bến Nhà Rồng là chứng tích cuối cùng của một
thời thương cảng Sài Gòn sầm uất!
***
Một trong những đặc trưng của Sài Gòn – Bến Nghé từ khi khởi lập cho đến
khi người Pháp xây dựng một đô thị, và cho đến TP. Hồ Chí Minh đầu thế
kỷ 21, là đây là một thành phố - thương cảng. Từ “cảng Sài Gòn” nơi đây
không chỉ trở thành một trung tâm kinh tế mà còn là một trung tâm tiếp
nhận và giao lưu với nhiều nền văn hóa mới, yếu tố kỹ thuật
hiện đại trên thế giới. Có thể nói, nếu không có tính chất “cảng
thị” thì Sài Gòn khó có thể là một thành phố đa dạng và cởi mở về kinh
tế - văn hóa – xã hội như ngày nay.
Với ý nghĩa lịch sử của Cột cờ Thủ Ngữ đối với thương cảng Sài Gòn nói
riêng và thành phố nói chung, từ góc độ bảo tồn di sản đô thị, nên chăng
ngôi nhà dưới chân cột cờ cần được trùng tu và xây dựng thành phòng
trưng bày nhỏ về Cảng Sài Gòn từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 - giai
đoạn Pháp bắt đầu xây dựng và mở mang khu vực Cảng và phát triển thương
mại đường biển. Đồng thời trùng tu, bảo quản toàn bộ cấu trúc kỹ thuật
của cột cờ. Phục dựng và định kỳ “diễn lại” chức năng kéo cờ hiệu kết
hợp với tàu du lịch ra vào phía bến Nhà Rồng. Hoạt động này sẽ làm cho
Cột cờ Thủ Ngữ trở thành “điểm nhấn” thu hút du khách đến tham quan, như
những trường hợp phục dựng sinh hoạt cổ xưa tại nhiều di tích lịch sử
văn hóa trên thế giới.
Ngoài ra, khu vực Bến Nhà Rồng - cầu Mống - tòa nhà Ngân hàng quốc gia -
tòa nhà Hải quan thành phố - bến Bạch Đằng - Cột cờ Thủ Ngữ cần được gìn
giữ bảo vệ như “không gian di sản” của thành phố – giống như khu vực
đường Nguyễn Huệ - UBNDTP – Nhà thờ Đức Bà – Bưu Điện - Dinh Thống Nhất,
vì đây là những nơi tập trung các công trình được xây dựng vào thời kỳ
sớm của đô thị Sài Gòn.
|