MIỀN TÂY TRỜI RỘNG SÔNG DÀI Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
Hương miền Tây
Từ Sài Gòn đi về quê ngoại Cao Lãnh bây giờ có thêm một con đường đi qua
huyện Mộc Hóa (Long An) và huyện Tháp Mười (Đồng Tháp). Đây là con đường
đi qua một phần Đồng Tháp Mười, có từ lâu nhưng là đường nhỏ ngoằn nghèo
và không liền lạc, gần đây được nối liền, nắn thẳng và nhiều đoạn được
đắp mới.
Cũng như những con đường ở miền tây Nam bộ, trên đường có hàng chục cây
cầu lớn, rất đẹp, tĩnh không cao, hầu hết bắc qua những dòng “kinh xáng”
thẳng tắp, nước phèn trong xanh hai bên bờ còn chưa mọc kín dừa nước cỏ
lác - những dòng kinh thoát nước và xả phèn vào mùa nước nổi của miền hạ
lưu Mê Kông. Với độ tĩnh không cao như thế những con kinh xáng là đường
giao thông nối liền vùng sâu của Đồng Tháp Mười ra đến đường lộ mới. Ghe
xuồng chở lúa, chở phân bón, hàng hóa xuôi ngược trên kinh, và rồi không
lâu nữa, ngay dưới chân cầu trên con đường tạm đi vòng khi xây dựng cầu
sẽ là nơi đổ hàng lên xuống xe vận tải, về thành phố hay trở vô vùng
bưng biền, đúng theo “quy luật” hình thành chợ búa (bến) của hàng trăm
ngàn cái chợ như thế khắp miền Tây. Những cây cầu mới chắc không còn làm
ai đó than rằng
Lâu nay muốn qua thăm em nhưng ngại vì cầu tre lắc lẻo…
như lời một bài hát quen thuộc.
Từ trên những cây cầu có thể phóng tầm mắt nhìn xa hơn. Có cánh đồng lúa
non xanh ngát, có đầm sen lớn nhỏ hoa trắng hoa hồng xen giữa bưng lầy
đầy cỏ lác, có rừng tràm rừng đước mới trồng, cây thẳng hàng
ngay ngắn, và lấp lánh cánh cò trắng bay về đậu rợp trên ngọn
tràm ngọn đước. Chỉ vài năm nữa thôi, hy vọng sẽ có thêm những “sân
chim” mới ở nơi đất lành này.
Con đường đi qua vùng lúa đang mùa gieo sạ. Hình như là “cánh đồng mẫu
lớn” vì trên đó cắm nhiều tấm bảng cho biết 4 loại phân bón được sử dụng
ở đây. Cánh đồng bát ngát xanh, chỉ cần hạ cửa kính xe hơi là có thể hít
đầy lồng ngực hương lúa non thơm lạ lùng, hương thơm không thể so sánh
với bất cứ mùi hương nào, làm ta nghẹn ngào thương đất, thương lúa,
thương người… Có nơi đang gieo sạ bằng những chiếc máy đơn sơ nhưng đỡ
đần được cho bao công lao động. Màu đất bùn đen cũng thơm thơm mùi phù
sa mới của mùa nước nổi vừa qua. Có nơi nước chưa rút hết, dưới ánh mặt
trời cuối chiều hiện rõ màu nước lợ giao nhau của lớp phèn đọng hàng
ngàn năm với phù sa theo mùa nước nổi tràn về.
Tôi rất dị ứng với ai đó bây giờ cứ luôn miệng, rằng “mùa lũ ở đồng bằng
sông Cửu Long” hay than thở “quê em mùa nước lũ”… Đừng biến ngôn ngữ văn
chương báo chí thành “hiện thực” để rồi ứng xử với mùa nước nổi miền Tây
Nam bộ như ứng xử với mùa lũ sông Hồng. Bởi vì, cho dù chế độ nước của
sông Mê Kông có sự thất thường hơn trước do biến đổi khí hậu, do bị tàn
phá nơi đầu nguồn bằng hàng chục nhà mát thủy điện lớn nhỏ… thì mùa nước
về vẫn theo quy luật thời gian, là mùa làm ăn sinh sống của người dân
đồng bằng Nam bộ, là mùa “đổi mới” những cánh đồng nhờ con nước rửa phèn
và phủ lên lớp phù sa mới.
Nhiều
lần về miền Tây Nam bộ vào mùa nước nổi, đi trên kinh rạch dọc ngang, đi
vô vùng Tháp Mười trên những chiếc xuồng “năm quăng” (xài một năm/ một
mùa nước thì quăng, vụt bỏ vì đóng bằng gỗ tạp, rẻ tiền), tôi chỉ ước
ao, thay vì cứ cứu trợ gạo mắm nước tương mì gói, chính quyền và doanh
nghiệp, cá nhân hảo tâm hãy làm những chiếc xuồng chắc chắn cho người
dân sử dụng kiếm sống lâu dài nhiều mùa nước, thay vì xây dựng “khu dân
cư chạy lũ” tốn kém mà không nhiều hiệu quả, hãy làm những ngôi nhà sàn
mà cọc bằng bê tông mái tôn cho bền vững để dân không phải tất bật chạy
lên những khu đất trống hơ trống hoác giữa đồng, rồi không làm được gì
để sống lại kéo nhau về giữa đồng, bám trụ trong những ngôi nhà lá nhỏ
nhoi trên biển nước.
Con đường chạy qua vài khu dân cư như những thị trấn nhỏ, có cả một nhà
máy “bột giấy” xây dựng vài năm nay nhưng im lìm như chưa từng hoạt
động. Sao không xây dựng ở đây những nhà máy xay sát lúa gạo nhỉ? Là
vùng lúa mới, đường xá kinh rạch thuận tiện giao thông chuyên chở, nếu
rút ngắn thời gian vận chuyển thì giảm thiểu mức độ hư hao của lúa, đỡ
thiệt thòi cho người trồng lúa, bởi vì vẫn còn đó một nghịch lý: được
mùa ép giá rớt giá, thất mùa lên giá nhưng không đủ lúa ăn lấy gì để
bán? Mùa nào nông dân cũng là người thua thiệt!
Đường dài gần trăm cây số hai làn xe chạy nhưng cũng vắng, chỉ có xe
tải, vài chiếc xe du lịch nhỏ, hầu như không có xe khách vì hai bên
đường chỉ là những cánh đồng ngút mắt mà ít có khu dân cư tràn ra mặt
tiền như nhiều con đường mới mở khác. Thi thoảng có vài
“quán võng” bán cà phê hay là
quán nhậu, luôn có chỗ dành chỗ treo một hàng võng đung đưa, người đến
quán có thể nằm nghi lưng nghe câu vọng cổ hay những bản
nhạc bolero thân thuộc của
người miền Tây. Về miền Tây mà chưa thưởng thức hai điều này thì coi như
chưa đến miền Tây, phải không?
Phía đông cơn mưa sầm sầm kéo tới. Trong cơn mưa cuối mùa mãnh liệt lạ
thay gió vẫn đẫm hương lúa non, hương đất, hương sen, hương lá rừng
tràm… Những mùi hương trong lành đầy sức sống như những con người miền
Tây giản dị.
Về miệt Hậu Giang
Lâu lắm tôi mới có dịp về miệt Hậu Giang.
Nam bộ có một từ rất hay:
miệt. Miệt vườn, miệt ruộng, miệt U Minh, miệt Cà Mau… nghe xa ngái mà
như trải dài trước mắt. Từ Sài Gòn đi về miền Tây qua gần 250km thì miệt
Hậu Giang cũng đang hiện ra ngút ngát trước mắt tôi: cánh đồng, dòng
kinh, con đường, xóm làng xanh mướt…
Cung đường mới từ Cần Thơ về thành phố Vị Thanh của tỉnh Hậu Giang qua
nhiều địa danh rất lạ theo số đếm như Một
Ngàn, Bảy Ngàn, Bảy Ngàn Rưỡi, Mười Ngàn… Trong một cuốn sách nhà văn
Sơn Nam cho biết: những địa danh này gắn liền với kênh xáng Xà No – con
kinh quan trọng nhứt vùng Hậu Giang do người Pháp cho đào từ đầu thế kỷ
XX - nối từ Cần Thơ qua Kiên Giang, vùng trồng lúa quan trọng ven sông
Hậu. Từ kinh lớn
này có những con kênh sườn, cứ cách 500m thì đào một kênh nhỏ, 1.000m
đào một kênh lớn và đào theo lối “xôm lươn” (nằm lệch nhau), vì vậy mới
có những địa danh như trên. Do vậy chỉ
khoảng 40 km thôi mà có tới 27 cây cầu kiên cố chưa kể những cống hộp
trên con đường này. Hệ thống kinh “xôm lươn” mang nước từ sông Hậu vô
tưới mát những đồng lúa bạt ngàn, rồi từ đây ghe xuồng lại chở lúa ra
kinh Xà No nơi có những chiếc xà lan lớn đang chờ ăn lúa đưa về Cần Thơ,
Kiên Giang, Sài Gòn và nhiều nơi khác. Cho tới giờ tuy đã có hệ thống
đường bộ khá hoàn chỉnh nhưng kinh Xà No vẫn được coi là “con đường lúa
gạo” của miệt Hậu Giang.
Xe chạy giữa những đồng lúa chín vàng, có nơi gặt xong chỉ còn thân rơm
khô dần dưới nắng tháng sáu. Đây đó những thửa ruộng vừa gieo sạ xong,
mầm mạ đã nhú lên đều khắp. Có đoạn đường mờ khói đốt đồng, mùi khói
phảng phất thơm mùi lúa chín… Mùa lúa Hậu Giang nhưng chỉ thấy thấp
thoáng vài cái lán của thợ gặt dựng ở bờ ruộng, treo mấy bộ quần áo phất
phơ trong gió chiều… Nông dân bây giờ lên thành phố làm công ty, làm khu
chế xuất hết rồi. Ruộng nhà
ai không chạy máy gặt được thì rất khó thuê người: trước đây tiền công
gặt chỉ một hai trăm ngàn cho một công ruộng nhưng bây giờ năm trăm ngàn
cũng khó kiếm người. Gặt xong phải thuê tuốt lúa phơi khô đóng bao, rồi
công vác lúa từ đồng ra ghe hay ra xe tải… cộng lại cũng gần cả triệu.
Vậy mà “lái” còn chê không mua vì lúa không khô không đều… Người nông
dân cầm chắc là lỗ cho dù trúng mùa.
Cứ một đỗi thì nhìn thấy chiếc máy gặt đập thong thả vòng quay trên
“cánh đồng mẫu lớn”. Máy gặt và xuốt (tuốt) lúa vô bao đều đặn, ít hư
hao nên gần tới mùa thì “lái” đã vô tận ruộng, trả giá đặt cọc rồi khi
lúa chín cho ghe cho xe về tận nơi nhận lúa. Có tiền cọc thì đi mướn máy
về làm. Một chiếc máy thay cho hàng chục người, ai mà không ham, nhưng
đâu phải ai cũng được sở hữu “cánh đồng mẫu lớn” để có thể dùng máy?
Những chiếc máy trên cánh đồng lúa vàng vắng bóng người, và vắng những
đàn sáo mỗi sáng mỗi chiều bay về đồng lúa Hậu Giang quấn quýt bên
người, vắng cả những đàn vịt chạy đầy đồng ăn lúa trên cánh đồng vừa gặt
xong mà chỉ còn mấy bầy vịt vài chục con ăn quẩn ven bờ… Đêm qua vừa có
cơn mưa lớn nhưng mới sáng sớm trời đã nóng nực báo hiệu một ngày nắng
gắt.
***
Vị Thanh là một địa danh không xa lạ với tôi, bởi nhiều lần tôi đã được
nghe ba má tôi kể về những ngày kháng chiến chống Pháp ở đây. Nhiều lần
đi ngang qua thị trấn Vị Thanh êm đềm nhưng chưa có dịp ghé lại cho đến
lần này.
Từ hơn mười năm trước khi thành lập tỉnh Hậu Giang
thì Vị Thanh được nâng cấp là thành phố của tỉnh. Từ khu phố cũ
nằm dọc đôi bờ kinh Xà No giờ đây Vị Thanh mở rộng đến 118 km2, nhiều
đường phố mới, những kiến trúc hiện đại, khu hành chính lớn được xây
dựng ở hai bên đại lộ lớn nhất thành phố. Trụ sở một cơ quan lớn còn có
cả sân bay trực thăng để khi cần “khảo sát vùng lúa Hậu Giang”. Về phía
Đông – Đông Bắc (giáp Vị Thủy của Hậu Giang và Giồng Riềng của Kiên
Giang) khu vực các trường cao đẳng, bệnh viện của thành phố đang được
xây dựng… Vị Thanh ngày nay mang dáng dấp của một thành phố hiện đại với
mười mấy con đường chính, đại lộ có dải phân cách và vỉa hè rộng trồng
cây xanh đã lên cao, hệ thống đèn giao thông, biển báo hoàn chỉnh.
Tuy là thành phố nhưng Vị Thanh vẫn giữ được vẻ hiền hòa và có phần lặng
lẽ của thị xã Vị Thanh ngày trước. Vào những ngày cuối tuần phần đông
cán bộ công chức của tỉnh, của thành phố đều về Cần Thơ hoặc xuống Kiên
Giang, thậm chí Cà Mau, vì nhà cửa vợ con của họ vẫn còn ở đó. Đây là
tình trạng chung của nhiều tỉnh trước nhập sau lại chia tách: một phần
cán bộ của tỉnh Hậu Giang cũ mà trung tâm là Cần Thơ về tỉnh Hậu Giang
mới. Tỉnh mới, cơ sở vật chất chưa có gì, điều kiện làm việc của vợ
chồng rồi chuyện học hành của con cái chưa thuận lợi, vậy là họ cứ một
chốn đôi nơi suốt hơn mười năm qua.
Ngày trong tuần thành phố còn đông người đi lại, các quán ăn quán nhậu
tấp nập vui vẻ, nhưng từ chiều thứ sáu thì Vị Thanh trở lại dáng vẻ một
“thành phố buồn” mà dân số nhiều năm nay chưa vượt con số trăm ngàn.
Những con đường vắng bóng người, ghe xuồng, xà lan đi trên kinh Xà No có
khi còn nhiều hơn xe máy xe
hơi chạy trên đại lộ hai bên bờ.
Thành phố có một hồ sen rộng, mùa này sen nở trắng hồ, có thể
thoải mái ngồi quán cà phê hay thong thả từng bước ven hồ để cảm nhận
hơi thở đẫm hương sen tinh khiết… Cái hồ này mà nằm ở Sài Gòn thì quán
cà phê quán nhậu sẽ vây quanh không có chỗ ngồi ngắm sen, còn ở Hà Nội
thì sẽ “trắng” những tấm lưng trần sau manh yếm mỏng mải mê tạo dáng
chụp hình, ai ngó đến sen?
Mấy ngày ở đây tôi được ăn những món ăn đồng quê thức ăn tươi rói: lươn
nấu canh chua bông súng, tép bạc xào bông hẹ, cá kèo kho rau răm, cá
bống kho tiêu… rồi baba nấu chuối mẻ, và đặc biệt là cá thác lác ướp tẩm
gia vị, để nguyên con với lớp da dày chiên giòn mà miếng cá dai như chả
cá đã được nạo quết. Bạn muốn mua đặc sản này của Vị Thanh mang về Sài
Gòn, thậm chí về Hà Nội cũng không khó, vì nó sẽ được nhà hàng đóng hộp
ướp đá lạnh, cho vào thùng xốp dán băng keo kín mít có thể giữ lạnh
trong 30 giờ để cá và chả vẫn tươi ngon.
Cách Vị Thanh không xa là thị xã Ngã Bảy của huyện Phụng Hiệp. Lúc mới
nâng cấp thành thị xã nó được người ta đặt cho cái tên mới là Tân Hiệp
nhưng không lâu sau thì phải trở lại tên Ngã Bảy vì… người dân không
chịu. Chợ nổi Ngã Bảy nổi tiếng từ lâu, không chỉ là một nơi giao thương
hàng hóa độc đáo mà còn vì phong vị văn hóa miền sông nước Hậu Giang.
Cũng nghe đâu người ta đã “dẹp” chợ vào một địa điểm khác cách đó 2-3 km
với lý do “trật tự an toàn giao thông đường thủy”, nhưng rồi chợ mới
không ai mua bán nên cũng chẳng ai đến tham quan du lịch… Rồi chợ nổi
Ngã Bảy lại được phục hồi.
Thật tình tôi cứ tiếc. Giá mà thành phố của tỉnh Hậu Giang là thị xã Ngã
Bảy thì hay biết mấy, một thành phố kế bên đầu mối của những con sông
dòng kinh quan trọng nhất nhì Nam bộ, một thành phố có loại chợ đã trở
thành biểu tượng của văn hóa Nam Bộ, chẳng phải là độc đáo nhất hay sao?
“Từ
trên những rạng đông con chim sáo nó bay ra đồng… tình phù sa tuy đục mà
trong”… Về miệt Hậu Giang chưa xa
đã thấy thương nhớ lạ lùng…
Sông nước miền Tây
Người miền Tây mỗi khi đi Sài Gòn thì kêu bằng “lên thành phố”. “Thành
phố” gần như trở thành danh từ riêng để chỉ Sài Gòn dù miền Tây có nhiều
đô thị sầm uất, như Cần Thơ – được coi là thủ phủ miền Tây, như Long
Xuyên – thành phố bên bờ sông Hậu, như Mỹ Tho bên sông Tiền – một “đại
phố” từ thủa mới hình thành…
Trên những con đường tỏa khắp miền Tây có đến hàng ngàn cây cầu lớn nhỏ
bắc qua hàng trăm con sông, kinh, rạch… chằng chịt.
Giữa các tỉnh hầu như đều có ranh giới tự nhiên là những giòng
sông lớn nhỏ, trên trục lộ chính cứ qua một bến phà một cây cầu là vào
địa phận một tỉnh khác. Chỉ mươi năm trước qua sông Tiền sông Hậu còn
phải có chuyến phà bến bắc
thì nay đã có những chiếc cầu dây văng đẹp như mơ: cầu Mỹ Thuận nối Tiền
Giang và Vĩnh Long, từ đó qua cầu Cần Thơ là vào Tây Đô, cầu Rạch Miễu
nối Mỹ Tho với Bến Tre, qua cầu Hàm Luông là vào đất Trà Vinh… Mai mốt
xây xong cầu Vàm Cống nối Đồng Tháp và Long Xuyên, rồi qua cầu An Hòa
vào Rạch Giá… thì quốc lộ
Một gần như liền lạc không còn cảnh ngăn sông cách bến. Hồi gần hai mươi
năm trước, khi khánh thành cầu Mỹ Thuận, đoạn quốc lộ hai đầu cầu kẹt xe
hàng tuần, dưới sông thì đặc kín ghe xuồng… bà con các tỉnh kéo nhau về
đây để tận mắt được nhìn thấy câu cầu dây văng đầu tiên và lớn nhất của
đồng bằng sông Cửu Long, cây cầu trong mơ của bao nhiêu đời người miền
Tây.
Đường lên thành phố bây giờ chủ
yếu là đường bộ. Quốc lộ Một như “xương sống” từ Sài Gòn về tới Cà Mau,
đi qua hoặc tỏa nhánh vào các thành phố, thị tứ bằng những tỉnh lộ… gần
đây tuy được mở rộng nhưng phần lớn vẫn là “độc đạo” chật hẹp, xe hơi xe
máy ngày đêm cứ đan vào nhau, tai nạn nghiêm trọng không ngày nào không
có. Ở vùng sâu còn bao nhiêu cây cầu thô sơ, sức tải yếu, hàng ngàn cầu
khỉ chênh vênh… tuy là hình ảnh thân thuộc lâu đời của quê hương nhưng
trở ngại cho lưu thông hàng ngày, cho sự phát triển của địa phương. Để
có thể làm đường xây cầu ở khắp miền Tây thì rất tốn kém và cần nhiều
thời gian nữa…
Nhiều lần đi dọc đường miền Tây tôi luôn tự hỏi, tai sao không sử dụng
và phát triển giao thông đường thủy – một lợi thế tự nhiên ở đồng bằng
sông Cửu Long đã được cư dân tận dụng từ hàng trăm năm nay?
Sông Cửu Long chảy vào Nam bộ dài khoảng 250km theo hai nhánh lớn là
Tiền Giang và Hậu Giang. Sông Tiền qua Châu Đốc, Sa Đéc, Cao Lãnh, Vĩnh
Long rồi tỏa nhánh qua Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh đổ ra biển bằng Cửa
Tiểu, cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu. Sông Hậu cũng qua
Châu Đốc rồi qua Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và ra biển bằng cửa Định
An, Ba Thắc và Tranh Đề. Hàng trăm kinh đào và sông rạch tự nhiên đã tạo
nên hệ thống đường thủy nối liền chứ không chia cắt miền đồng bằng rộng
lớn. Cùng với đường biển, Nam bộ có cả một nền văn minh sông nước trong
đó phương tiện đi lại và giao thông đường thủy là một nét văn hóa đặc
sắc.
Ngày trước ghe thương hồ và chợ nổi là những “đầu mối” mang hàng hóa từ
miệt vườn, miệt thứ, miệt u minh… đi ra nơi thị tứ, lên thành phố. Ngày
nay đi dọc các con sông ta còn thấy nhiều “chành” lúa gạo, trái cây, gần
đây có những chành gốm… là nơi tập kết thu mua và chuyên chở sản phẩm đi
khắp nơi. Thế mạnh của miền Tây là nông sản: trái cây, lúa gạo, thủy hải
sản… quanh năm mùa nào thức ấy. Phần lớn là hàng hóa tươi sống cần vận
chuyển nhanh để đảm bảo chất lượng bên cạnh việc phục vụ nhu cầu lớn của
thị trường cả nước và xuất khẩu. Mặc dù đã có một số nhà máy chế biến
nông sản, thủy hải sản tại địa phương nhưng việc đưa sản phẩm đến vùng
miền khác còn nhiều trở ngại. Vì vậy giao thông là yêu cầu hàng đầu cho
miền Tây, tuy đã có những loại xe chuyên dụng bảo quản trái cây tôm cá…
nhưng chỉ cần một sự cố gây kẹt xe tắc đường là nguy cơ hàng hóa hư
hỏng, dẫn đến nhiều hệ lụy khác.
Theo thời gian, đồng bằng sông Cửu Long ngày càng trở thành vùng nông
nghiệp quan trọng nhất nước. Vậy nhưng hiện nay nơi đây vẫn chỉ “độc
đạo” quốc lộ Một với mật độ lưu thông dày đặc.
Trong khi miền Tây chờ đợi một tuyến đường cao tốc như nhiều nơi
ở miền Bắc đã có, chờ đợi việc phục hồi và xây mới tuyến đường sắt từ
Sài Gòn đi các tỉnh, nên chăng cần sử dụng đường thủy nhiều hơn để giảm
tải cho đường bộ, để có thể thuận tiện hơn khi đi vào vùng sâu vùng xa
thu mua nông sản, để góp phần lưu giữ một nét văn hóa độc đáo của miền
sông nước? Tất nhiên, những phương tiện như ghe, tàu, xà lan… cần được
hiện đại hóa, đáp ứng về tốc độ, an toàn, bảo quản hàng hóa, không làm ô
nhiễm nước sông … Đường thủy cần được bảo đảm an toàn, an ninh, hạn chế
nạo vét khai thác cát hay xả chất thải gây ô nhiễm môi trường.
“Từ
nghìn đời vẫn dòng sông quê hương
Những bài hát về sông nước Nam bộ luôn có lời ca tha thiết mà giai điệu
thể hiện sự sôi động của một vùng đất giàu tiềm năng với những con người
chịu thương chịu khó và lạc quan trong cuộc sống.
|