Quá Khứ Hiện Hữu Mỗi Ngày Ta Đang Sống
Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
1.
Câu chuyện về thành phố từ bảo tàng
Bảo tàng – thiết chế văn
hóa phổ biến và quen thuộc trên khắp thế giới có nhiều loại hình, nhiều
quy mô và chủ đề, phong cách khác nhau. Trong thời đại mà du lịch là
ngành kinh tế - văn hóa đang và sẽ rất phát triển thì bảo tàng tại các
thành phố là những điểm đến quan trọng, không thể thiếu trong đời sống
văn hóa đô thị.
Tham gia chương trình nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa đô thị tôi có
dịp đến một số thành phố “di sản thế giới” ở châu Âu. Tại đây cảnh quan
đô thị và những công trình kiến trúc thời trung cổ còn được bảo tồn rất
tốt, trở thành “sản phẩm văn hóa” chủ yếu, cùng với dịch vụ du lịch tạo
nên ngành kinh tế chính của những thành phố này. Đồng thời hệ thống bảo
tàng theo nhiều chủ đề cũng tạo nên sự khác biệt, trong đó Bảo tàng lịch
sử của các thành phố luôn giữ vai trò chính yếu.
Bruges là thành phố lớn của Vương quốc Bỉ. Khu vực trung tâm thành phố
từ lâu đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Thành phố có
rất nhiều bảo tàng nằm trên những đường phố cổ. Tại quảng trường trung
tâm là Bảo tàng lịch sử (Historium Brugge – theo tiếng Hà Lan). Tòa nhà
bảo tàng là công trình cổ còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc và cả những
cấu kiện bằng gỗ bên trong. Nhờ việc bảo tồn và đầu tư trưng bày hiện
đại nên bảo tàng rất hấp dẫn và để lại nhiều ấn tượng khó quên cho du
khách.
Từ thế kỷ thứ 9 thành phố Bruges là một phần của hệ thống phòng thủ
chống lại sự xâm lược của người Bắc Âu. Vì vị trí gần biển Bắc, Bruges
dần dần trở thành một thương cảng quan trọng và giao lưu với nhiều nơi
khác ở châu Âu. Với tiềm năng tài chính hùng mạnh Bruges phát triển mạnh
nhất từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 15 và chính trong thời kỳ này đã xuất hiện
những công trình kiến trúc đồ sộ và đẹp nhất. Trong vòng vài trăm năm
thời Trung cổ và Phục hưng, Bruges là một trong những trung tâm kinh tế
và nghệ thuật lớn nhất châu Âu.
Tại bảo tàng, lịch sử thành phố đã được lồng vào câu chuyện tình yêu của
một phụ nữ quyền quý với chàng họa sĩ nghèo. Hình ảnh
người phụ nữ rất đẹp với chiếc áo choàng đỏ trở thành một biểu
tượng của thành phố. Có thể nói sự hấp dẫn của bảo tàng là ở đây bởi nó
tạo ra sự khác biệt của lịch sử Bruges với những thành phố thời trung cổ
hiện diện khắp Châu Âu và nhiều nơi khác.
Du khách tham quan từng tốp nhỏ tối đa 15 người và đi theo sự hướng dẫn
qua hệ thống audio (có thể lựa chọn nhiều ngôn ngữ khác nhau) để lần
lượt xem hết các phần trưng bày trong khoảng 60 phút. Dựa vào cấu trúc
ngôi nhà bảo tàng, mỗi phần trưng bày là một gian khép kín tạo nên sự
chú ý cao của du khách, đồng thời mỗi người được
“tương tác” thông qua phương tiện visual studio: phim ảnh, âm
nhạc, tiếng động và cả mùi vị… Bằng các giác quan du khách “trải nghiệm”
lịch sử cũng như những sinh hoạt hàng ngày của Bruges ở thế kỷ 15 – thời
kỳ thịnh trị của Bruges, tham gia chứng kiến câu chuyện của các nhân
vật.. . Đây là sự chọn lựa khôn khéo và chính xác của bảo tàng về “thời
điểm, sự kiện” điển hình để xây dựng kịch bản trưng bày câu chuyện về
thành phố.
Vị trí của bảo tàng lịch sử Bruges cũng là một sự hấp dẫn đối với du
khách, bởi vì cuối phần trưng bày tuyến tham quan sẽ dẫn
du khách ra sân thượng của bảo tàng. Từ đây toàn bộ quảng trường
trung tâm và các khu phố cổ liền kề hiện ra dưới tầm mắt. Lịch sử “trong
bảo tàng” và hiện thực đan xen vào nhau tạo nên những ấn tượng rất sâu
sắc.
Cũng như nhiều bảo tàng khác, tại đây có nơi bán đồ lưu niệm mà phần lớn
là sách vở, tranh ảnh về bảo tàng. Những sản phẩm lưu niệm khác cũng
mang dấu ấn riêng của thành phố Bruges mà không nơi nào có nên du khách
ai cũng muốn mua một món đồ lưu niệm. Phòng cà phê và ăn nhẹ cũng trang
trí những bức họa nổi tiếng, tạo không khí thư giãn mà vẫn có thể hấp
dẫn bởi sự mới lạ. Nguồn thu từ những dịch vụ này rất đáng kể bên cạnh
tiền vé vào xem bảo tàng.
Mỗi thành phố đều để lại những dấu ấn lịch sử của mình bằng những di
tích lịch sử văn hóa, trong lòng đất và trên mặt đất. Tuy nhiên cộng
đồng cư dân và du khách không phải lúc nào cũng có điều kiện và đủ thời
gian để có thể tham quan tìm hiểu tất cả những di tích đó, chưa kể nhiều
dấu ấn cổ xưa đã biến mất theo thời gian và do những biến cố xã hội. Vì
vậy bảo tàng lịch sử thành phố là “giải pháp tối ưu” để mọi người có thể
tìm hiểu về lịch sử và văn hóa và những nét độc đáo của thành phố một
cách đầy đủ nhất trong thời gian ngắn nhất.
Tiếc rằng khi tìm kiếm trên Google thì những website và tour du lịch
giới thiệu về Bruges bằng tiếng Việt không giới thiệu Historical Museum
mà thường chỉ có các bảo tàng Sôcôla,
bảo tàng Khoai tây và bảo tàng Kim cương (trong số hàng chục bảo
tàng ở đây). Có lẽ vì những bảo tàng này có thể kết hợp shopping – một
thói quen và nhu cầu phổ biến của nhiều du khách Việt. Trong khi đó việc
tham quan bảo tàng lịch sử
để hiểu biết về nơi mình đến thì hầu như các tour đều bỏ qua. Tôi đã đến
khá nhiều bảo tàng lịch sử của những thành phố du lịch nổi tiếng nhưng
hầu như rất ít gặp du khách Việt, nếu có chỉ là vài sinh viên du học
hoặc người nghiên cứu. Có
lẽ nào người Việt đi du lịch chỉ mang về quà cáp hàng hóa mà không quan
tâm đến những câu chuyện về lịch sử - văn hóa của các di sản thế giới để
bổi bổ cho sự hiểu biết và tri thức, ngoài những tấm hình selfie chụp
vội tại di tích (và do mải chụp hình nên hầu như cũng chẳng nghe được
những gì hướng dẫn viên đang thuyết minh).
Ở Việt Nam nếu chỉ đầu tư bảo tồn các khu phố cổ, di tích cổ nhưng không
có hệ thống bảo tàng hỗ trợ thì không tạo được đặc trưng riêng biệt.
Những bảo tàng khảo cổ hay lịch sử, ẩm thực hay trang phục… của từng
thành phố sẽ tạo nên sự khác biệt, đa dạng và sức hấp dẫn lâu dài. Với
thời gian bảo tàng trở thành di sản văn hóa do nhiều thế hệ xây dựng và
phát triển.
2.
Một nửa sự thật
“Đi một ngày đàng học một
sàng khôn”. Cứ mỗi chuyến đi lại càng thấm thía sự đúc kết
của ông bà mình.
Do thói quen nghề nghiệp (trước đây) nên đi đâu tôi cũng chú
ý đến bảo tàng. Nhiều lần tham quan các bảo tàng lịch
sử, văn hóa, mỹ thuật… về thời quá khứ xa xưa nhưng “nghệ
thuật trưng bày” các chủ đề thì khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn
riêng của mỗi bảo tàng. Tất nhiên lịch sử văn hóa mỗi nước
đều có đặc trưng riêng, nhưng ngay cả những sự kiện, hiện tượng
mang tính toàn cầu thì vẫn được trưng bày khác nhau tạo nên
những góc nhìn đa chiều, phong phú, qua đó lịch sử được
phản ánh toàn diện hơn.
Sự khác biệt rõ nhất về “góc nhìn” chính là các bảo tàng
về thời hiện đại. Ví dụ: loại hình bảo tàng quân đội (hay
bảo tàng về chiến tranh, bảo tàng lịch sử hoặc nghệ thuật
quân sự, bảo tàng sự kiện chiến tranh…), tại một số bảo
tàng thường trưng bày toàn vũ khí nhất là vũ khí hiện
đại: xe tăng máy bay súng ống tối tân đủ loại đủ kiểu; các
sự kiện chiến thắng quân sự và những lời ngợi ca quân mình, công
khai những tổn thất của quân địch… Nhưng nhiều bảo tàng khác lại
trưng bày về tác động của chiến tranh đến đời sống xã
hội và những con người cụ thể, dường như không lên án tố cáo điều
gì, sự thắng thua lại càng không quan trọng mà hậu quả của
chiến tranh mới là quan trọng: đó là sự thiệt hại về con
người, về vật chất, những chấn thương tâm lý xã hội lâu dài,
những biến động xã hội… Điều đó tác động rất mạnh đến người xem
vì đó chính là câu chuyện của bản thân, của gia đình mình. Khi
chiến tranh trở thành nỗi ghê sợ của mỗi người thì việc chống
chiến tranh đồng nghĩa với việc gìn giữ sự ổn định, bảo vệ
hòa bình cho chính mình, gia đình mình và rộng hơn là tổ quốc
mình.
Ở thủ đô Budapest của Hungaria có
một bảo tàng
về “Thời vừa qua”
mang tên “Nhà khủng bố”, tọa lạc ngay trên đại lộ chính của thành phố.
Suốt 6 tầng lầu với những căn phòng hẹp, u ám, âm thanh, hình
ảnh, tài liệu hiện vật trưng bày bằng thủ pháp mang tính nghệ thuật
cao với sự hỗ trợ của phương tiện, kỹ thuật đa truyền thông
hiện đại, “ngôn ngữ” trưng bày hiện vật chuẩn xác… khiến người xem
không thể nghi ngờ về những gì đang được công khai sau nhiều năm
trong vòng bí mật. Có thể tự hỏi, vì sao những sự kiện như thế
lại có thể xảy ra, có thể giật mình vì hóa ra lâu nay ta chỉ
biết một phần rất nhỏ của sự thật, thậm chí có thể bị sốc
vì hóa ra ta cũng từng sống trong một thời “khủng bố”…
Nhưng sau khi xem còn lại điều gì? Với riêng tôi gờn gợn một băn
khoăn, kiểu trưng bày “sự thật” như thế này chỉ mang lại và
khoét sâu hơn sự hận thù một thời đã qua, hận thù những con
người cụ thể của một chính thể đã mất. Bảo tàng trưng bày
sự thật lịch sử sao cho con người hiểu hoàn cảnh và nguyên nhân
những sai lầm của quá khứ để tránh không lặp lại những sai
lầm ấy. Nếu trưng bày “sự thật” chỉ mang lại sự hận thù quá
khứ thì nguy cơ sẽ đưa đến sự thù hận trong tương lai.
3.
Những thành phố vì con người
Mùa hè vài năm gần đây
tôi
thường
tham dự
những
cuộc hội thảo
thú vị, được tổ chức ở một số thành phố lớn như Toulouse “thành phố
hồng”, Berlin,
qua Prague “thành phố tình yêu”
và
Budapest
“Hòn ngọc bên sông Danube”,
rồi đến
Warsaw – thành phố hồi sinh từ đổ nát sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Và trong những chuyến đi ấy điểm dừng lâu nhất của tôi bao giờ cũng là
Paris – thành phố tôi yêu từ thời thơ ấu và ở đó tôi có những người bạn
thân quý.
Mỗi nơi tôi chỉ lưu lại có vài ngày để tham quan một cách vội vã nhưng
những “thành phố
di sản văn hóa” đã để lại cho tôi ấn tượng khó quên, bởi sự hòa
hợp kỳ lạ giữa cuộc sống hiện đại và sức sống “cổ tích” từ
di
tích và bảo tàng
hiện diện mỗi ngày.
Những thành phố này là thủ đô
hoặc đô thị lớn
từ thời trung cổ, vì vậy hệ thống thành cổ, cung điện lâu
đài, công trình công cộng được xây dựng trong thời gian dài vài
thế kỷ
đã
được bảo tồn khá nguyên vẹn. Khu vực thành cổ (hay những lâu
đài lớn của một dòng họ quý tộc) thường
xây dựng
trên đồi hay sườn núi
để bao quát toàn bộ khu vực và phòng vệ quân sự.
Cấu
trúc gồm tường thành cao, dày, xây bằng đá hoặc gạch, bên trong
là quần thể cung điện, lâu đài, nhà thờ lớn ở trung tâm… xung
quanh là khu phố buôn bán và những dịch vụ cho sinh hoạt. Bên
ngoài thành có một dòng sông, là đường giao thông và “tuyến
phòng ngự” khi có sự cố, nhưng nhờ vậy mà phong cảnh
bốn mùa đều
nên thơ.
Trải
qua hàng trăm năm nên trong
nhiều tòa thành cổ có di tích
đã hoặc đang được
khảo cổ học
khai quật.
Thành
cổ Buda ở Budapest
khu
vực khai quật liền kề với những công trình còn nguyên vẹn, du
khách có thể nhìn thấy nền móng của các kiến trúc đã sụp
đổ, hầm ngầm, đường bí mật sâu dưới lòng đất… Công trường đang
khai quật thì có mái che bên trên bảo vệ hiện trạng, di tích
khai quật xong hầu hết được bảo tồn tất cả các lớp kiến trúc
làm bằng chứng cho từng giai đoạn
xây dựng vào những niên đại khác nhau.
Bảo tồn
được như vậy vì vật liệu xây dựng hầu hết bằng gạch, đá,
trải qua vài trăm năm trong điều kiện khí hậu không ẩm ướt nên
vẫn còn chắc chắn. Hiện vật tìm thấy trưng bày trong bảo tàng
nhỏ ngay tại tòa thành hay lâu đài. Khu di tích nào cũng có
một mô hình đúc bằng đồng đặt gần lối ra vào, thể hiện toàn
bộ khu lâu đài, thành cổ, giúp khách tham quan nhận biết tổng
thể qua các công trình kiến trúc còn nguyên và phế tích do
khảo cổ học khai quật.
Hầu như không có công trình nào xây lại mới hoàn toàn trên nền
móng cũ, mặc dù có thể làm được điều đó vì tài liệu, hình
ảnh và
tư liệu
khoa học còn lưu lại đầy đủ. Riêng thành cổ Warsaw là một
trường hợp đặc biệt:
chiến tranh thế giới lần thứ hai đã biến
cả thành phố
thành đống đổ nát hoang tàn trong đó có tòa thành cổ xây dựng
từ thế kỷ
12
và tồn tại đến thế kỷ
20.
Sau năm 1945 Ba Lan đã
phục
dựng lại thành phố Warsaw
– khu phố cổ
và tòa thành cổ
-
như
tình trạng
trước chiến tranh. Các công trình đều xây bằng gạch
– vật liệu đặc trưng của kiến trúc cổ của ba Lan, gạch mới
được nghiên cứu phục chế gần như không khác biệt với gạch cũ,
có lẽ nhờ thời tiết không nóng ẩm nên ít bị rêu mốc và các
loài thực vật gây hại.
Trong
các thành phố, tại khu phố cổ hay ở trung tâm, trên
đường phố hẹp hay quảng trường rộng
lớn, cả những “rãnh thoát nước” hình lòng máng xưa cũ vẫn
giữ nguyên
vật liệu lát đường là
những viên đá nhỏ,
đan xen
thành hoa văn hình vỏ sò, hình xoáy ốc… vừa đẹp vừa dễ rút
nước khi mưa và mùa tuyết tan, giảm trơn trượt khi băng giá.
Nếu làm lại những con đường quảng trường này bằng vật liệu mới thì ngoài
chuyện rất tốn kém, nó còn làm giảm giá trị của cảnh quan cổ xưa – chính
là giá trị cần gìn giữ và được du khách tìm đến chiêm ngưỡng.
Mùa
hè là mùa
du lịch cao điểm ở châu Âu,
những thành phố tôi đến
lúc nào cũng đông đúc nhưng
không lộn xộn
hay gây cảm giác
bất
an.
Cũng là quần thể di tích thành cổ, phố cổ nhưng
mỗi nơi có những
hình thức tham quan
khác nhau
nhằm đáp ứng
nhiều
nhu cầu, điều kiện của du khách: Tham quan tòan bộ lâu đài, cung điện
hay chỉ một phần, tham quan hầm mộ trong lâu đài hay nơi có liên quan
đến một nhân vật nổi tiếng,
hay
tổ chức
sinh hoạt đặc biệt như
ở
Nhà thờ “con gà” quảng trường trung tâm thủ đô Prague chẳng hạn,
cứ mỗi giờ là du khách tập trung rất đông, ngước nhìn lên tháp
đồng hồ để ngắm chú Gà bằng vàng và những vị Thánh xuất
hiện lần lượt sau ô cửa nhỏ, rồi tiếng kèn báo hiệu thời
khắc vang lên…
Thú vị nhất là Dinh Tổng thống trong các tòa thành cổ cũng
là điểm tham quan của du khách. Tôi được chứng kiến lễ đón
khách của Tổng thống Hungary, có Đội danh dự duyệt binh. Du
khách vẫn đứng trong sân của Dinh Tổng thống, chỉ có vài cảnh
sát làm nhiệm vụ giữ trật tự. Dinh Tổng thống Cộng hòa Sec
cũng vậy, ngày vài lần du khách tụ tập vào thời điểm đổi
phiên gác để chiêm ngưỡng đội danh dự bước đi trong trang phục
rất đẹp mắt.
Hay Tòa thị chính Paris trở thành “bảo tàng” đón du khách vào một số
ngày trong mùa hè...
Có rất nhiều di tích
được
tham quan miễn phí, nhất là nhà thờ cổ, nơi ở của các nhân vật lịch sử
và danh nhân văn hóa, nhà hát, kể cả những tòa nhà là công sở
còn đang hoạt động.
Không chỉ di tích thời trung cổ được trân trọng gìn giữ mà cả những
tượng đài và di tích chiến tranh thế giới thứ hai, một số bảo tàng về
“thời kỳ quốc xã” hay “thời kỳ cộng sản” được xây dựng. Tại Berlin có
khu tưởng niệm người Do Thái, trên nhiều đường phố có những tấm biển
đồng nho nhỏ đóng ở vỉa hè trước những ngôi nhà đã có người bị bắt và
chết trong trại tập trung thời Hitler... Tại Warsaw có Bảo tàng về người
Do Thái, Bảo tàng sự kiện Katyn... Budapest có bảo tàng “Nhà khủng
bố”... Con người được “can dự” vào lịch sử bằng sự thật chứ không phải
là những huyền thoại, vì thế nhận thức và hiểu biết quá khứ không chỉ là
những ý nghĩa to lớn mà còn là những câu chuyện đời thường, đau thương
và mất mát của từng số phận. Tất cả, dù ghi dấu ấn chiến thắng hay gợi
nhớ tội ác của một chính thể đều thuộc về Lịch sử.
Quan sát “cuộc sống” của
hệ thống
di sản văn hóa
tại các thành phố này,
có thể nhận thấy giữa bảo tồn và bảo tàng không hề tách rời:
bảo tồn di tích cổ là làm cho chúng trở thành những “bảo
tàng mở”, những “bảo tàng mở’ mang lại sức sống cho di tích được bảo
tồn. Điều đó tạo điều kiện cho công chúng có thể tiếp cận di
sản văn hóa một cách dễ dàng nhất, tiếp nhận những giá trị
lịch sử - văn hóa một cách phong phú hấp dẫn nhất. Bảo tồn di
sản văn hóa không chỉ giới hạn trong phạm vi di tích, mà đã trở
thành một bộ phận quan trọng của quy hoạch đô thị và được ưu tiên
hàng đầu trong quá trình phát triển đô thị.
Cũng cần nói thêm, việc trùng tu di tích thường xuyên được tiến hành
nhất là vào mùa hè thời tiết thuận lợi. Nơi nào cũng có di tích đang
được trùng tu một cách khoa học, cẩn trọng nhưng vẫn có thể phục vụ du
khách. Có những di tích trùng tu kéo dài nhiều năm do quy mô lớn và thực
hiện nhiều công đoạn rất tỉ mỉ.
Tôi
đã nhận được nhiều kinh nghiệm từ việc bảo tồn và “phát huy
giá trị” di sản văn hóa của những thành phố này. Họ cũng đã
qua “một thời đạn bom, một thời hòa bình”, cũng từng chịu sức
ép của “đô thị hóa, hiện đại hóa” sau chiến tranh và trong quá
trình phát triển kinh tế, nhưng họ gìn giữ trân trọng di sản
văn hóa trước hết là cho đất nước mình, và sau đó “hữu xạ tự
nhiên hương”, di sản trở thành của thế giới. Họ đã thành công
từ một điều giản dị: di sản văn hóa phải có một đời sống
của chính nó, nhờ con người và vì con người.
Bạn bè hỏi tôi có cảm nhận thế nào khi ngắm nhìn những công trình di sản
văn hóa hiện hữu trong thành phố đang phát triển? Và tôi, không tránh
khỏi tâm trạng ngậm ngùi khi luôn phải đặt ra một câu hỏi day dứt: vì
sao người ta gìn giữ và làm giàu được từ di sản văn hóa, còn chúng ta
thì để tình trạng phá hoại di sản diễn ra triền miên và ngày một trầm
trọng? Vì sao?
|