TRƯỜNG SA CỦA TÔI
Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
Tiếng kẻng báo động trên “vùng trời bình
yên”
Chúng tôi lên đảo Sơn Ca vào buổi sáng biển trời thăm
thẳm một màu xanh thanh bình. Sau phút chào
đón xúc động những ánh mắt những bàn tay xiết chặt, những nghệ sĩ của
Trung tâm ca nhạc nhẹ thành phố bắt đầu chương trình
văn
nghệ phục vụ chiến sĩ. Cùng hát với các ca sĩ trẻ là những người lính
đảo. Thật bất ngờ, nói như nghệ sĩ ưu tú Tạ Minh Tâm, MC của chương trình,
lính
đảo hát hay không thua gì
ca sĩ chuyên nghiệp. Những tiết mục nối nhau tạo nên không khí khi sôi
nổi khi sâu lắng, trên gương
mặt những người lính đảo tràn đầy nét vui tươi hồn nhiên, tưởng như
không phải họ là những người đang ngày đêm đối mặt với muôn vàn khó khăn
nguy hiểm.
Khi ca sĩ Yến Nhi đang bay bổng lời ca
Từng vòng tay trao hơi
ấm, rộn rã,
đôi tim mừng vui gặp gỡ, trong ngày mới…
của ca khúcVÙNG TRỜI BÌNH YÊN thì bỗng một hồi kẻng dồn dập vang lên.
Báo
động! Những người khách còn
đang ngơ ngác thì
chủ nhà
đã
đâu vào đấy trong nháy mắt. Chưa dứt tiếng kẻng bộ đội đã
có mặt
đúng vị trí, mũ sắt buộc nghiêm chỉnh, vũ khí trong tư thế sẵn
sàng.
Một lúc sau khi kẻng báo yên, nhanh thoăn thoắt, những người lính lại ùa
về “sân khấu”, cả chủ và khách lại hồn nhiên tiếp tục
Nắm tay ta về vùng trời bình yên…
Đã
lâu lắm mới nghe thấy tiếng kẻng báo
động dồn dập căng thẳng, tôi chợt nhớ lại những phản xạ quen thuộc của
thời chiến: chạy nhanh, nhảy xuống hầm trú ẩn gọn, mũ rơm đội ngay lên
đầu. Nhìn
những người
lính còn
rất trẻ nhưng
đã
thuần thục các thao tác quân sự, ranh giới mong manh giữa thời chiến và
thời bình trên
đảo này, trên vùng biển
này hiển hiện rõ ràng hơn
bao giờ hết. Trong cái khoảnh khắc “thời chiến” vừa vụt qua, sự sống
bỗng quý
giá hơn
gấp ngàn lần, sự sống của mỗi con người, của mỗi chàng trai cô gái chỉ
như những đứa con của tôi.Bao thế hệ đã
làm tất cả
để tuổi trẻ được sống
trong hòa bình,
để không bao giờ họ phải làm quen và thuần thục với thứ phản xạ mà nếu
chậm trễ chỉ giây lát sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Cuộc chiến tranh nào rồi cũng qua đi, nhưng hòa
bình chỉ thật sự
đến khi những “phản xạ thời
chiến” không
còn có cơ
hội “di truyền” cho thế hệ sau.
Màu xanh Trường Sa
Chuyến hành trình ra Trường Sa của tôi có thể coi là một “hành trình
xanh”, bởi từ đầu đến cuối chuyến đi nhìn đâu cũng thấy một màu xanh bất
tận.
Ngày lên đường tòan đòan trong màu áo xanh của lính.Trong màu áo xanh lá
quen thuộc ngày nào những cựu chiến binh bồi hồi nhớ lại một thời thanh
xuân, thế hệ chúng tôi nhớ lại nỗi vui mừng khi thấy bóng áo xanh của
cha của anh ngày về phép. Khóac lên mình chiếc áo màu xanh là tự có ý
trách nhiệm chia sẻ cùng Trường Sa thân yêu tất cả những khó khăn vất vả
của nơi tiền tiêu đầu sóng ngọn gió.
Những ngày tháng tư âm lịch vẫn còn trong thời gian thuận lợi cho những
chuyến đi biển dài ngày, gió nhẹ, nắng nóng.Ra khỏi cửa Cần Giờ là biển
hiện ra một màu xanh hiền hòa.Cứ vậy suốt gần ba ngày đầu của hành trình
xung quanh là sắc biến xanh biến đổi khôn lường. Mỗi sáng mỗi chiều,
nhìn gần nhìn xa… biển xanh nhạt xanh thẫm xanh tím xanh đen… Mỗi ngày
vào lúc bình minh và hòang hôn mặt trời đỏ rực phía chân trời, biển
chuyển màu vàng cam nhưng chỉ thóang chốc biễn lại trở về với sắc xanh
bất tận của mình.
Hành trình miệt mài trên biển cứ ngong ngóng khi một chấm, rồi một dải
xanh mờ hiện lên, rõ dần, mọi người lại nôn nao… Đảo của ta đấy, những
tên đảo đã thân quen tự khi nào mà bây giờ mới được tận mắt nhìn thấy:
Song Tử Tây, Đá Nam, Đá Thị, Sơn Ca, Sinh Tồn, Len Đao, Đá Lát, Đá Tây,
Trường Sa lớn… Đảo nổi đảo chìm xanh màu lá trên nền xanh của biển của
trời. Ca nô cặp sát tàu đưa từng nhóm vào đảo. Những cái bắt tay siết
chặt, những nụ cười những ánh mắt thân thương, và màu áo của những người
lính hòa cùng màu áo xanh biển của chúng tôi.
Đảo xanh, có thể gọi tất cả những hòn đảo của Trường Sa như vậy bởi màu
xanh của cây lá có mặt khắp
nơi. Trên những đảo nổi có hai lọai cây phổ biến là bàng trái vuông và
phong ba. Đặc điểm chung là đều có lá đan nhau rậm rạp, từng chiếc lá to
dày che chắn cho nhau dưới ánh nắng như nung. Mùa này bàng trái vuông
chưa có nhiều trái, thấp thóang trong đám lá
chùm nụ hoa xinh xắn chờ đêm tối nở bung nhụy lấp lánh như đèn
lồng, vài trái non xanh đong đưa trong gió. Mấy anh lính trẻ luyến tiếc
vì chưa có trái bàng để tặng cho người từ đất liền vì ai cũng muốn có
được một trái bàng vuông mang về làm kỷ niệm. Nhưng thôi, mọi người bằng
lòng chụp hình và mang những tấm hình trái bàng vuông về đất liền khoe
với bạn bè, để trái bàng kia trên cây cho chúng già đi, hạt lại mọc mầm
nảy lên cây mới, mang lại làn gió mát mang lại màu xanh mà sau này ai ra
thăm đảo cũng được nhìn thấy cây bàng trái vuông độc đáo.
Trên mấy đảo nổi còn có lớp cát san hô mỏng trên mặt còn các đảo chìm
thì chỉ có nhà xây nổi trên mặt nước, nhưng đảo nào cũng xanh trong từng
mét vuông mặt đất trong từng mét vuông lấn ra biển cả. Đó là những vuông
đất, khay nhỏ đổ đất trồng rau xanh.
Rau trồng bằng hạt theo từng luống nhỏ xíu, chăm sóc từng cây:
rau muống, rau cải, mồng tơi là 3 lọai rau được trồng hầu hết trên các
đảo. Lính ta nói đùa “rau muống còn thì đảo ta còn, đảo ta còn thì biển
trời ta còn”. Trên Song Tử
Tây còn trồng được chuối, ớt, lá lốt, rau ngót… Trên đảo chìm có cả dàn
bầu trái sai lúc lỉu, có nơi trồng cả sả, riềng và lá mơ – lọai rau đặc
sản chỉ dành cho mấy chú cẩu.Có nơi phải đóng dàn rồi dùng nilon quấn
xung quanh vườn rau nhỏ để tránh gió mang hơi nước mặn làm cháy hết lá.
Ngay trên nhà dàn DK 1 trong cái vuông đất nhỏ xíu cao hàng chục mét
chênh vênh trên mặt biển còn trồng cả hành và thìa là nữa (món cá biển
làm sao thiếu rau thìa là?). Nước tiết kiệm qua nhiều lần dùng và lần
cuối để tưới rau.Mà cũng
đâu được tưới thỏai mái. Rau cũng như người, chắt chiu từng giọt nước
ngọt hứng từ cơn mưa đỏng đảnh thất thường ở Trường Sa hay dành dụm từ
những thùng nước ngọt theo tàu từ đất liền ra đảo. Ở nơi đảo xa này mới
thấy quý từng giọt nước từng nắm đất, mới càng hiểu hơn hai chữ
ĐẤT NƯỚC thiêng
liêng!
Màu xanh Trường Sa của biển cả, của ngọn rau quê nhà, là gương mặt tỉnh
táo người lính đảo dõi canh biển trời, là ánh mắt vời vợi người mẹ người
em gửi thương gửi nhớ… Hành trình của chúng tôi đi theo màu xanh Trường
Sa đầy sức sống mãnh liệt mà bình dị, bỗng nhớ câu thơ trong bài Văn tế
Nghĩa sĩ Cần Giuộc của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu:
“Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài
bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”.Hàng
ngàn năm qua mỗi tấc đất mỗi tấc biển đảo là mồ hôi nước mắt, là xương
máu tiền nhân.
Màu xanh Trường Sa nhắc nhớ không để ai có thể quên điều đó.
Trên biển và trên đảo
Đêm trên biển. Khi hai ngọn đèn pha của tàu tắt hẳn chỉ còn quầng sáng
mờ mờ trên đài chỉ huy, một mình trên boong bỗng thấy cả con tàu to lớn
là vậy như tan vào không trung, tan vào gió tan vào sóng. Rất lâu, một
chấm sáng nhỏ nhoi trên mặt sóng. Có khi chấm sáng lung linh rồi biến
mất. Có khi chấm sáng ấy lớn dần lớn dần. Một chiếc tàu đánh cá nho nhỏ
chập chờn lướt qua. Cũng có
khi chấm sáng biến thành quầng sáng chiếu thẳng vào đêm đen, một tiếng
còi rúc lên, chiếc tàu chở hàng to lớn chầm chậm đi qua. Rồi tất cả lại
chìm vào đêm. Vẫn biết tàu đi theo hải trình đã định vậy mà không tránh
khỏi cảm giác lo sợ khi xung quanh là màn đêm đen quánh chỉ có tiếng
sóng lướt nhẹ dưới thân tàu. Biển mênh mông thế, tưởng như những con tàu
luôn cô đơn trên biển… Nhưng không, đồng hành với những con tàu là những
ngọn hải đăng.
Vùng biển Trường Sa có nhiều ngọn hải đăng: Song Tử Tây, An Bang, Sơn
Ca, Đá Lát, Đá Tây, Trường Sa lớn, Tiên Nữ, Huyền Trân, Phúc Tân, Quế
Đường… Có ngọn hải đăng xây trên đảo nổi, có ngọn xây trên đảo chìm,
cũng có ngọn
chỉ là đèn biển lắp
trên các nhà dàn. Độ cao thấp khác nhau, tầm hiệu lực ánh sáng khác nhau
nhưng đều có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
là
giúp tàu bè họat động trong vùng biển định hướng và xác định vị trí của
mình, đồng thời canh giữ vùng biển trọng yếu của Việt Nam. Trong chuyến
hành trình đi qua nơi nào có hải đăng tôi đều cố gắng leo lên tận nơi để
từ đó được ngắm nhìn vùng biển vùng trời bao la đẹp hơn tranh vẽ.
Đi trong mênh mông trời biển, khi nào nghe thấy tiếng còi tàu rúc lên
hồi dài
là biết đã gần tới đảo.Hồi còi báo hiệu tràn ngập niềm vui. Mọi người đổ
ra boong ngóng về phía xa để được nhìn thấy một chấm nhỏ hay một vệt mờ
hiện ra, rõ dần lớn dần… Kìa ngọn đèn biển vươn cao vững chãi, kìa những
cánh quạt gió như những cánh chim chấp chới, kìa màu xanh của cây bàng
trái vuông, của cây bão táp, phi lao… Có đi biển dài ngày mới hiểu nỗi
bồi hồi khi thấy đảo như thấy đất liền.
Ba hồi còi tàu rúc lên, đã nhìn thấy áo trắng áo xanh của lính đảo nơi
cầu tàu.
Lên đảo, việc đầu tiên là đứng trước cột mốc chủ quyền chụp hình kỷ
niệm, lại còn “tranh nhau” đứng cạnh người lính đang bồng súng đứng
nghiêm bên cột mốc chủ quyền. Đôi lúc quên mất là anh lính đang làm
nhiệm vụ, xúm lại hỏi thăm anh, em, cháu, con tên gì quê đâu ra đảo lâu
chưa?
Vẫn trong tư thế đứng nghiêm, có người trả lời dõng dạc như quân lệnh,
cũng có chú lính ngượng ngùng “xin lỗi, con đang làm nhiệm vụ ạ”.Nhưng
chỉ ít phút sau được thay ca, và chú lính ào vào náo nức ngắm nhìn người
từ đất liền ra.
Trên đảo Song Tử
Tây,
phía sau doanh trại có mấy cái chuồng gà toàn gà trống, khi được thả ra
chúng đập cánh đua nhau gáy ầm ĩ làm lũ vịt đang nằm tránh nắng dưới
bóng cây nhao nhao đứng dậy. Hỏi một người lính: sao toàn là gà trống
thế hả cháu?
Chú lính trẻ vui vẻ trả lời:
-
Gà mái đi tàu ra đảo bị say sóng chả sống được cô ạ. Tôi đùa:
-
Khổ thân bọn gà trống.
Lỡ lời rồi tôi ân hận ngay khi nghe chú lính nửa đùa nửa thật:
-
Sao cô chả khổ thân bọn cháu, cả năm có nhìn thấy bóng dáng con gái đâu
hả cô?
Nhưng cũng cậu lính ấy tếu táo: không sao cô ạ, bọn gà trống ghê lắm,
chúng nó toàn đi “yêu” bọn vịt đấy. Không tin cô chờ tí nữa mà xem.
Thế là mấy cô cháu cười vui vẻ.
Để vào được mấy mấy đảo chìm tàu phải neo đậu xa hơn.
Ca nô lướt trên mặt biển trong veo nhìn thấy bãi ngầm san hô lô nhô dưới
nước. Có khi ca nô gần cập bến thì các chú chó nuôi trên đảo liền phóng
xuống nước ra đón khách, chúng ì oạp bơi ra bơi vào, lao lên bờ rũ lông
bắn nước tung tóe, dụi cái đầu ướt nhẹp vào bất cứ ai đi gần, hệt như lũ
trẻ con mừng mẹ về chợ. Bước lên bờ là bước vào “nhà” cũng đủ nhà bếp
phòng ngủ phòng khách. Đứng bên mấy cô ca sĩ trẻ trên ban công đón gió
biển, bàn tay anh lính vụng về mà trìu mến đội cho cô gái chiếc mũ hải
quân rồi bối rối khi cô đứng gần chụp hình lưu niệm. Mắt tôi nhòe đi…
bao giờ bàn tay kia được cài vòng hoa cô dâu lên đầu một người con gái?
Và lính hát, hát cùng nhau và hát cùng ca sĩ.Vừa rối rít nhận đồng hương
đấy nhưng khi cất tiếng hát tất cả đều là đồng đội. Không phân biệt đâu
là lính đâu là ca sĩ, đâu già đâu trẻ, không phân biệt đâu người Hà Tĩnh
Nghệ An với người Sài Gòn An Giang, không phân biệt đâu người Nam Định
Bắc Giang đâu người Bình Dương Bình Thuận… Những bản hành khúc một thủa
cha anh và những bàn tình ca hôm nay của họ. Có người lính trẻ đứng
trong công sự mắt dõi ngoài kia, biển trời vẫn xanh, và bàn chân anh vô
tình vẫn nhịp theo bài tình ca quen thuộc.
Thời gian trên đảo qua nhanh lắm, chưa kịp ấm bàn tay đã nghe còi nhắc
trở về tàu. Ca nô quay mũi, những bàn tay vẫy. Sẽ còn gặp lại sẽ còn gặp
lại. Lời chào chung cũng là niềm hy vọng của mỗi người.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-10-18 |