Cùng với quá trình xây dựng nền Công nghiệp hiện đại, việc xây dựng NÔNG
THÔN MỚI ( NTM ) trên quy mô toàn quốc đã có những thành công lớn.Trên
đất nước hơn 97 triệu dân, gồm 54 dân tộc, trên 60% sống ở Nông thôn,
cho đến nay đã có trên 60% xã đạt Tiêu chuẩn NTM: Hầu hết các xã đều có
đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia,trường tiểu học và trung
học cơ sở, trạm y tế và bưu điện. ( Điện ,đường, trường, trạm ).Nhờ thế,
nước ta được xếp loại đi đầu trong thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ
của Liên hiệp quốc, chỉ số phát triển con người HDD, thuộc nhóm có HDI
cao của thế giới* ( Số liệu dẫn từ bài Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về CNXH và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam của TBT Nguyễn Phú
Trọng )
Phải khẳng định, chủ trương xây dựng NTM là rất họp lòng Dân, là đáp
ứng nguyện vọng thiêng liêng của nhiều thế hệ người cầm bút.Trong
những trang ghi chép của Nhà văn Liệt sĩ- Anh hùng Nguyễn Ngọc Tấn-
Nguyễn Thi, có đoạn ghi : “ Nhân dân đối xử tốt, đầm ấm tới mức anh
nghĩ mình có chết cũng không có gì đáng ngại. Một cử chỉ tốt làm con
người vui, sung sướng và bỗng nhiên cảm thấy mình cao lớn hơn, can
đảm hơn. Biết lấy gì đền đáp xương máu nhân dân đã hy sinh không
tính toán để bảo vệ cách mạng , những năm tháng này ? Mai này, đất
nước thống nhất,cách tưởng niệm xứng đáng nhất chưa phải là xây
những tượng đài to tát mà phải là tạo dựng đời sống no đủ, hạnh phúc
cho những con người còn sống .” (Trích Năm tháng chưa xa- Nxb VN HCM
-1985 ). Trong một dịp trò chuyện với nhà văn Nguyễn Đình Thi sau
ngày đất nước thống nhất, nhà văn Trang Thế Hy, một cây cổ thụ của
vườn văn Nam Bộ từng thổ lộ :”Phải thay đổi cách nhìn về người nông
dân Việt Nam, không thể hồn nhiên coi họ là người bạn mà phải xác
định cho đúng, họ là người ơn của Cách mạng, vì điều đó có nguồn đạo
lý sâu xa hơn tình bạn. Phải khẳng định như thế để khỏi trở thành
những kẻ bội bạc,vong ân,miệng nhai cơm mà lòng hờ hững với những
người làm ra hạt gạo. Văn học ta vẫn còn nợ họ nhiều lắm “
(Nhân dân hàng tháng 10-2012). Thuộc lớp nhà văn trực tiếp tham gia
đánh Mỹ,nhà văn Văn Lê cũng từng nghĩ : “ Có một thực tế đau buồn là
trong mười người hy sinh thì có tới chín người là con em nông
dân.Nhưng sau gần 40 năm chiến tranh đi qua,nông dân vẫn là người
khổ nhất.Gia đình nào có chồng con hy sinh đã khổ, có nhiều người hy
sinh cho đất nước, lại càng khổ hơn.Đó là một nghịch lý,lẽ ra không
nên tồn tại, không được tồn tại, nhưng nó vẫn đang tồn tại,Đó cũng
là nổi đau không chỉ với những người lính đã sống sót sau chiến
tranh, mà còn là nổi đau của tất cả nhũng ai có lòng tự trọng.”
(Nhân dân hàng tháng tháng 4-2013 ). Số phận người nông dân và nông
thôn có một vị trí đặc biệt thiêng liêng trong lòng trí của từng
người cũng như trong văn học nghệ thuật từ ngàn đời của người Việt.
Điều đó cắt nghĩa tại sao trong
những ngày dịch Covid đợt thứ tư, nhiều hoạt động bình thường bị
ngừng trệ, hàng vạn người từ các đô thị bằng mọi phương tiện,tìm
đường về lại quê hương. Vốn là một nước Nông nghiệp, cho đến cuối
thế kỷ XX, Nông thôn , cả miền xuôi và miền núi, là nơi sinh sản,
nuôi dưỡng, môi trường rèn dũa nên tính cách, phẩm chất và tinh thần
CON NGƯỜI VIỆT NAM.Nông thôn cũng là cái nôi sản sinh, nuôi dưỡng,
bảo vệ và bảo tồn nền VĂN HÓA DÂN TỘC. Nền VAN MINH
LÚA NƯỚC là một cách gọi
không đầy đủ về văn hóa nông nghiệp với nhiều phương thức canh tác
khác nhau ở một đất nước có
đến 54 Dân tộc. Ngay trong mỗi dân tộc, từng vùng miền, tùy thổ
nhưỡng, và cả những điều kiện địa lý, lịch sử, phong thủy,và cả
những lý do không dễ tìm lời đáp, mà có những nét khác biệt từ ngôn
ngữ, phong tục, tập quán, …rất riêng. Điều lạ, là trãi qua cả ngàn
năm Bắc thuộc, hàng trăm năm bị xâm lược, dù không được bảo quản
bằng luật pháp hay văn bản, những nét riêng đó vẫn hiển nhiên tồn
tại và tự lưu truyền. Cho đến nay, bản đồ sự khác biệt về văn hóa
trên nhiều phương diện của vùng, miền, dân tộc, thậm chí làng, xã,
thôn trên thôn dưới ở nước ta là vô cùng đa sắc.Một người chỉ cần
cất lên tiếng nói, í ơi một giọng hát là đủ tự giới thiệu quê gốc
của mình.Chính sự khác biệt này làm nên bản sắc từng vùng miền, từng
dân tộc, và cả từng con người. Sự khác biệt này được coi là Tài
nguyên của mỗi quốc gia. Và
chính xã hội Nông nghiệp VN qua ngàn đời đã sáng tạo, bảo tồn và lưu
giử được sự khác biệt cho đến nay.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến điều
đó khi theo dõi thành quả Xây dựng NTM trên toàn quốc. Chỉ cần mở
Google, với chữ NTM là thấy rất nhiều mô hình Nông thôn mới và Nông
thôn mới kiểu mẫu. Đây là một quá trình, chỉ có khởi đầu mà không có
kết thúc. Có trên 10 tiêu chí,từng thời kỳ, sẽ có kiểm tra, để xác
định số tiêu chí đã đạt. Với mục tiêu nâng cao mức sống cho người
dân, chỉnh trang khu dân cư,đảm bảo hạ tầng khang trang, hiện
đại,môi trường cảnh quan
SÁNG- XANH- SẠCH – ĐẸP.Trang Thanh Hóa Online có giới thiệu
Kinh nghiệm xây dựng NTM kiểu mẫu ở thôn Đồng Xuân xã Hòa Quỳ huyện
Như Xuân cho biết những thông tin cụ thể : Thôn có 101 hộ, 406 nhân
khẩu,thuộc 4 dân tộc : Thái, Thổ, Mường, Kinh. Sau gần một năm xây
dựng NTM kiểu mẫu bộ mặt của thôn thay đổi khác xưa với diện mạo từ
Nhà văn hóa, đường giao thông đi lại,các nhà đều có cổng sắt kiên
cố, không khí trong lành, môi trường, cảnh quan sạch đẹp. Xã hiện có
193 lao động làm việc ở ngoài, xuất khẩu lao động ở các thị trường
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn quốc, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho
các gia đình.
Nhìn từ mặt đời sống vật chất, đây là những thông tin đáng mừng.
Phải nhận rằng, chỉ 20 năm đầu thế kỷ XXI, bộ mặt đất nước ta đã có
những đổi thay về nhiều mặt, với một tốc độ chưa bao giờ có trong
lịch sử.Nhưng quá trình phát triển với tốc độ nhanh đã và đang phát
sinh nhiều vấn đề về xã hội và văn hóa cần được báo động.
Khu vực Đô thị, đặc biệt ở các thành phố lớn, nơi sự thay đổi
diễn ra từng ngày,bên cạnh những mặt thành công đáng tự hào, vẫn
ngổn ngang nhiều bất cập và lộn xộn, không dễ khắc phục. Một phần
bởi những thiếu khuyết có tính chất lịch sử. Nhiều thành phố chất
chồng những nhà cao tầng, lấy bê tông và cửa kính tạo những không
gian sống mất hẳn phong cách kiến trúc riêng,thiếu sự thân thiện,
mất hết mọi mối liên hệ giữa người với người.Không khí ô nhiễm, tai
nạn giao thông,tệ nạn xã hội, nguồn nước và thực phẩm không sạch…
Nguyễn Việt Hà, một nhà văn gốc Hà Nội,
trong tiểu thuyết
Ba ngôi của người
nhận xét : “ Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá nghèo nàn,
nhưng vô đạo và ít học .” Một khu vực không an toàn mới phát sinh
những năm gần đây và ngày càng phổ biến là tội phạm ngay trong hệ
thống quan chức các cấp. Chỉ mấy năm mà những người đứng đầu các
thành phố lớn, lãnh đạo cao cấp Đảng, tướng lĩnh
Quân dội, Công An, Bộ Trưởng ,…dính vòng lao lý. Một mặt nó
thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nhưng nó cũng gây sự nghi
ngờ, mất niềm tin vào thể chế, cơ chế, sự lựa chọn,tuyến chọn, và
khả năng kiểm soát của cả hệ thống tưởng là đã rất khoa học và chặt
chẽ.
NTM là một khu vực ngỡ là chịu nhiều áp lực của quá khứ, lại
là nơi đang diễn ra sự thay đổi rộng khắp và dễ dàng. Chỉ cần một dự
án khu công nghiệp, một công trình thủy điện, khu sinh thái, đường
dây 500kw, đường cao tốc, khu chung cư, gần đây là điện gió,…là
nhiều làng xưa, xóm cũ bị di dời, không chỉ nhà cửa, mà các di tích,
mồ mả tổ tiên cũng phải chuyển dịch.Nhiều nơi là do thiên tai, bão
lụt, chuyển đổi phương thức kiếm sống,những gia đình còn lại
thường được hỗ trợ về chỗ ở
mới với những ngôi nhà tạm bợ đồng loạt mái tôn. Nhiều khu nhìn
không khác gì những Ấp chiến lược, Khu tập trung ở Miền Nam trong
thời chiến.Bao nhiêu sự đa dạng của hệ sinh thái, của đặc sắc nơi cư
trú, kiến trúc nhà cửa, quy hoạch dân cư gần như bị xóa sạch bởi
những Dự án định cư được các địa phương giao khoán cho những hợp tác
xã xây dựng có trình độ rất …địa phương! Không có số liệu thống kê,
nhưng trong số những xã và cả huyện đạt tiêu chuẩn NTM,tỉ lệ những
có sở giống Vùng Kinh tế mới không hề thấp.
Trong vở kịch
Vòng tròn trống rỗng,
nhà văn Nguyễn Khải khi về
quê đã có nhận xét : “Một vùng quê đã nhiều thời oanh liệt, mà nay
không còn một di tích gì,cứ như vùng kinh tế mới… Phong hóa đã suy
đồi thì làm việc lớn
thế nào được.Càng đầy đủ, sống càng tệ”. Đầu thế kỷ trước, nhà văn
Geoge Orwell (1903-1950)
cũng từng cảnh báo :” Cách hửu hiệu nhất để hủy diệt một dân tộc,
một cộng đồng là phủ nhận và phá hủy sự thấu hiểu của họ về lịch sử
của chính họ.”Chẳng phải dấu tích nào của quá khứ cũng quý và nên
gìn giữ.Nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta xây dựng hiện tại từ
một mặt bằng trống trơn. Không kể những quốc gia có diện tích rộng
lớn như Trung Quốc, Nga ,Mỹ, Canada …dù có thừa khả năng về kinh tế
và kỹ thuật, người ta vẫn để lại rất nhiều vùng đất hoang . Có nơi
là những bảo tàng sinh thái tự nhiên, bất khả xâm phạm. Nhiều vùng
là những xứ sở hoang sơ, như là để giành cho sự phát triển của các
thế hệ tương lai. Nước ta, diện tích không rộng. Dù liên tục chiến
tranh, và thiên tai, dịch bệnh, trong thế kỷ XX, dân số đã tăng gấp
gần 5 lần. Hiện nay, thuộc trong những nước có mật độ dân số cao
hàng đầu. Sang thế kỷ mới, những vùng gọi là bảo tồn thiên nhiên
không còn nhiều. Nhiều vùng trong đó đã bị rút lõi vì khai thác hợp
pháp và bất hợp pháp. Các cuộc di dân có tổ chức, và tự phát cũng đẻ
ra tình trạng biến động dân số khó kiểm soát. Các đợt di dân ồ ạt
của các tỉnh miền Bắc và miền Trung lên Tây Nguyên, trong đó có một
bộ phận lớn dân tộc thiểu số. Hàng chục vạn phụ nữ , không chỉ của
các tỉnh Miền Tây Nam Bộ lấy chồng ngoại- mà phải nhận một sự thật
là hầu hết những ông chồng đều thuộc lớp dân nghèo và văn hóa thấp,
ở các vùng quê của nước họ. Do khó khăn về kinh tế, lớp trẻ con
ngoại quốc đó lại được gửi về sinh sống ở VN. Số đó cũng không phải
chỉ ở hàng ngàn.. Chúng ta đều biết, không lâu trước khi chiến tranh
chống Mỹ kết thúc, trong câu chuyện trao đổi với Tổng Bí thư Lê
Duẩn, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói rõ ý định sẽ gửi 500 triệu Nông
dân Trung Quốc xuống các nước Đông Nam Á.Xem ra,những năm vừa qua,
các nhà lãnh đạo kế tiếp của Trung Quốc vẫn thực hiện đường hướng
đó, mà không chỉ về Đông Nam Á. Với việc mở cửa, mở rộng đầu tư,
bằng nhiều con đường, cư dân quốc tịch Trung Quốc hiện sinh sống,
làm việc và đi học trên đất nước ta, dưới nhiều danh nghĩa chắc chắn
là con số không nhỏ. Nếu hàng ngàn năm trước, do điều kiện cư trú
biệt lập, giao lưu khó khăn, quan niệm kỳ thị về dân tộc,sự khác
biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập tục, nên các dân tộc lấy việc bảo
tồn nòi giống như một nghĩa vụ tự nhiên thiêng liêng. Chuyện kết hôn
dị tộc thường bị dư luận lên án. Ngoài mọi lẽ, về mặt khoa học, vẫn
có những lý do để cảnh báo. Bảo tồn Gien gốc cho mọi loài để đề
phòng những tai họa tự nhiên, Liên hiệp quốc có một khu ở Bắc cực đề
lưu giữ những giống gốc.Thực vật còn thế, nói chi giống người. Ngày
nay, giao lưu rộng mở, sự lựa chọn của cá nhân được tôn trọng, có
khi tuyệt đối, hôn phối giữa các cá nhân thuộc nhiều sắc tộc khác
nhau gần như không còn bị giới hạn. Hãy hình dung đến cuối thế kỷ
này, bản đồ dân tộc ở nước ta sẽ thế nào ? Liệu có còn duy trì được
54 dân tộc, hay sẽ nhiều biến dị hơn ? Ngay cả tộc đông người là
người Kinh sẽ còn bao nhiêu ? Nhiều khả năng, âm mưu đồng hóa, việc
mà mấy ngàn năm quốc gia phương Bắc dùng nhiều biện pháp cưỡng bức
không thực hiện được, thì nay với sự cởi mở bởi lợi ích kinh tế và
buông lỏng của pháp luật, người ta sẽ tự nguyện chấp nhận sự pha tạp
huyết thống, dẫn đến triệt tiêu các nền tảng văn hóa gốc của các sắc
tộc. Sẽ không có gì đáng nói, nếu đó là những cá thể sống, mà không
phải CON NGƯỜI. Mà cái làm nên sự KHÁC BIỆT giữa các cá thể, cũng
như các tộc người, các quốc gia là VĂN HÓA. Trong cuốn tiểu thuyết
mới nhất của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ
Chuyện tình Khâu Vai,
tác giả từng suy nghĩ về vấn đề này : “Người Giáy, người
Mông, người Dao, hay người Nùng cũng vậy. Nếu cứ thương nhau là lấy
nhau rồi pha tạp dòng máu bao đời. Thì mai này làm gì còn giống
Giáy,hay Nùng. Cây trên rừng, đinh, lim, sến ,táu muôn đời nay vẫn
vậy. Công quạ chẳng thể phối hôn. Con ma trong nhà, mỗi sắc tộc
riêng.Từ ngàn đời nay, vạn vật vẫn như thế mà trường tồn. Nay làm
trái lệ ắt là khởi đầu cho thảm họa”. Không biết ở vùng quê như Đồng
Xuân thuộc huyện Như Xuân, một thôn nhỏ, lại là nơi cư trú của mấy
dân tộc, từ cấu trúc nhà cửa, vườn tược, trang phục,tập tục lễ
hội,dân ca, ngôn ngữ, thờ cúng…có duy trì được sự khác biệt không ?
Rồi vấn đề hôn nhân có thoải mái pha tạp , hay có những quy chuẩn
nào để bảo vệ giống nòi , mà không bị cận huyết ?
Từ bao đời nay, nông thôn với
những khác biệt tự nhiên và sinh hoạt đã tạo ra một đất nước Việt
Nam có một nền văn hóa, với nhiều loại hình và tác phẩm văn học nghệ
thuật khác nhau. Mỗi vùng quê, dân tộc đều có thể tự hào về những gì
tiền nhân đã sáng tạo. Cũng trong bài trả lời trên báo Nhân dân hàng
tháng số tháng 4-2013, nhà văn Văn Lê từng nói : “Với mấy ngàn năm
sáng tạo để tồn tại, các thế hệ tiền phong đã để lại cho chúng ta
không biết bao nhiêu những giá trị văn hoá tinh thần.Một trong những
nét đặc sắc của các giá trị
ấy là văn hóa tâm linh. Và các làn điệu dân ca chính là con thuyền
chuyên chở cái TINH và cái THẦN của văn hóa tâm linh ấy.Việc các
Xá điệu, Văn điệu, Tử thần
điệu, Xẩm điệu, hoặc
Lý điệu còn tồn tại đến ngày nay chứng tỏ sức sống bất diệt
của nó. Nó chính là bùa,
ngãi làm ngẩn ngơ cả
người và
thần,là cầu nối
giữa người và
thần. Đưa được cái
TINH, cái THẦN của văn hóa tâm linh vào nghệ thuật là cần thiết,
thậm chí rất cần thiết. Nó không chỉ là cái riêng, là hồn cốt của Tổ
tiên mà còn là hồn vía của nghệ thuật”.
Sẽ
là một tội lỗi không thể nào khắc phục, nếu trong xây dựng NTM hiện
nay, chỉ chú ý đến những chỉ
tiêu vật chất, đồng phục hóa, đồng loạt hóa, với cùng một mô hình
cấu trúc, nghiêng về xu hướng đô thị hóa, mà không bảo tồn được sự
sự khác biệt của từng sắc tộc, từng vùng miền như đã từng tồn tại
trong quá khứ. Tất nhiên, đây là một việc hoàn tòan mới, và phải
khác với quá khứ, khi nông thôn và nông nghiệp đang hiện đại hóa.
Còn nhớ, sau kháng chiến chống Pháp, bộ phim
Cây tre Việt Nam
với lời thuyết minh của nhà báo Thép Mới, đã tìm thấy ở Cây tre, một
biểu tượng cho nông thôn và tính cách con người Việt Nam. Đến kháng
chiến chống Mỹ, những bài thơ hay của Thu Bồn, Nguyễn Duy,và nhiều
nhà thơ khác vẫn là dùng biểu tượng Cây Tre. Nhưng ngày nay, về
nhiều vùng quê, tìm bóng dáng cây tre, không còn dễ. Nói chi đến cây
đa, giếng nước, sân đình…Việc chuyên canh, chuyển đổi vật nuôi, cây
trồng,nghề nghiệp, rồi cánh đồng lớn, sản xuất lớn
đòi hỏi một cách tổ chức dân
cư ở NTM phải thay đổi theo. Các thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ tạo
cho người dân có một cách sống, nếp sống khác với hiện nay.. Trong
hoàn cảnh sống mới ấy, việc bảo lưu,gìn giữ và sáng tạo văn hóa mới
với từng sắc tộc, từng vùng miền như thế nào là một câu hỏi, không
thể có chỉ một đáp số chung mà giải quyết được.Nếu chủ trương lớn về
xây dựng NTM là từ trên xuống, thì việc xây dựng mô hình cụ thể ở
từng cơ sở nên phát huy sáng tạo và trách nhiệm của chính người dân
địa bàn, tất nhiên đầu tàu vẫn phải là cán bộ cơ sở. Tránh mọi sự
rập khuôn, vay mượn mô hình nơi khác.Sự đa dạng,đa sắc, phù hợp với
thói quen, tập tính, sự đa dạng sinh học và địa thế, mới làm nên sự
giàu có và khác biệt của hình ảnh NTM. Ngoài nhu cầu nâng cao mức
sống vật chất, những sự phong phú của
các hoạt động tinh thần mới
đem lại cảm giác HẠNH PHÚC.Chính chỉ số HẠNH PHÚC, phù hợp với điều
kiện vật chất mỗi thời kỳ mới là điều cần được những người có trách
nhiệm chính trong tổ chức xây dựng NTM chú ý.
Để
chương trình xây dựng NTM tiếp tục phát triển, chúng tôi nghĩ, trước
mắt cần huy động trí tuệ, tâm huyết, hiểu biết của nhiều thành phần
trong xã hội nhằm xây dựng những mô hình KHÁC BIỆT tùy sắc tộc, vùng
miền,thổ nhưỡng,vùng sinh thái,…trên những NGUYÊN TẮC CHUNG, nhưng
vẫn tiếp tục gìn giữ, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống,
xây dựng và sáng tạo những giá trị văn hóa mới, phù hợp với môi
trường sinh sống mới.
Và đây mới là nơi mở đầu một
cuộc vận động, huy động sáng kiến của chính những người bản địa và
những ai yêu mến, gắn bó với quê hương, xứ sở của mình.
Tháng 8-2021
NGÔ THẢO