Kỷ niệm 100 sinh nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2022 )
Rực Sáng Chân Mây Một Điệu Đàn: Kịch Thơ Kiều Loan
Ngô Thảo
Lúc đương thời, trong một bài viết, nhà thơ kể , theo lời mẹ, rằng
Ông được sinh lúc gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất ( 1922 ), một lúc
trước ngày Hội Lim- Hội làng Quan họ. Mẹ Ông là một chị Hai quan họ có
giọng hát và nhan sắc nổi tiếng vùng Tiên Du- Thuận Thành:
“ Mẹ tôi xưa vốn là một cô gái Kinh Bắc
có
nhan sắc, óng ả,kiều diễm,có đôi mắt “ lúng liếng “thật tình tứ, đôi mắt
rất quan họ,có dáng đi đài các, uyển chuyển,thanh tao, và khi mẹ tôi mặc
chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy
buông chùng cửa võng xuống
đến mu bàn chân, ai trông thấy phía trước mặt đều tưởng như người con
gái này đang đi trên sóng rập rờn.”
Bà là con gái làng Bựu, cùng quê với mẹ Đại thi hào Nguyễn Du, nên được
kế thừa tinh hoa của nghệ thuật hát quan họ. “ Đó là nghệ thuật hát thơ,
những câu thơ trữ tình (
cốt lõi là thể thơ lục bát ) mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ
nhung,đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá. “. Có thể tạị
mê quan họ,
dù
lấy chồng năm 17 tuổi, mà mãi đến năm 31 tuổi, bà mới sinh ra nhà thơ.
Cha Ông là một nhà Nho khí tiết, từng tham gia nhiều hoạt động yêu nước.
Hai dòng máu say mê nghệ thuật và yêu nước, khí tiết như hòa quyện làm
nên cốt cách Bùi Tằng Việt ( Bởi ông sinh ở thôn Phúc Tằng huyện Việt
Yên – Bắc Giang ).
Hoàng Cầm, bút danh khi làm thơ là tên một vị thuốc bắc có vị đắng, liên
quan đến nghề bốc thuốc của người cha.
Một
người con gái nữa cũng để lại dấu ấn sâu đậm trong đời cũng như trong
thơ ông: “ Năm 12 tuổi, tôi say mê một người con gái láng giềng, hơn tôi
những 8 tuổi “. Thưc ra ông đã phát hiện ra cô láng giềng từ năm lên 8,
và sớm có thơ tặng nàng. Để rồi gần 30 năm sau, mối tình thơ dại đắm
đuối ấy ngỡ chìm khuất trong nấm mồ ký ức, một đêm đông, khi bị cách ly
khỏi môi trường văn nghệ sôi động sau vụ Nhân văn – Giai phẩm, bỗng trỗi
dậy thì thầm vào tai ông bài thơ
Lá Diêu bông. Việc của nhà thơ, chỉ là chép lại lời của ai đó mà
thôi. Có người gọi đó là Thần
thi.
Hoàn thành Về Kinh Bắc,tập
thơ mà ông coi là xương sống
của đời mình, Ông : ‘ “Ước nguyện
: Gửi Mẹ và Chị, cõi Âm,Bến Lú, bên kia sông Giác:
Ước Sao Sáng Mẹ bừng Công
chúa/Chớp mắt nghiêng buồn…kiếp ảo sinh/
Ước sao Soi Chị lim dim hát/ Tay gió đàn lơi,
yếm trắng tinh
/Ví chăng em cứ bơ vơ nhớ/Nắng hiện cồn mây/ Lá hiện hình…
Lần lại chút tiểu sử để chúng ta hiểu nguồn cội trong toàn bộ tác phẩm
thơ, văn, kịch của Người, nhân vật nữ chiếm giữ một vị trí thiêng liêng,
và nghiêng về bi kịch. Trong thơ thì đã nhiều người biết. Hình tượng nữ
càng nổi bật trong mấy tác phẩm kịch, chủ yếu là kịch thơ.Sơn Nữ, người
con gái miền sơn cước mê đắm Nguyễn Trãi trong
Hận Nam Quan, màn đầu viết
khi nhà thơ mới học năm thứ ba Thành chung ở Bắc Ninh, từ năm 1936-1937,
nghĩa là ở tuổi 14-15, 2 màn 2,3 viết thêm năm 1944, từng được diễn
nhiều nơi trước và sau Cách mạng tháng 8/1945. Đó còn là Cô Phương, con
gái cụ Đồ, vợ Lê Thái trong
Lên đường ( Viết 1943, nhưng
tháng 4-1946 mới được diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội ),là Tần Huyền Cơ
trong
Cô gái nước Tần ( viết
1947,được diễn lần đầu tháng 3-1947 ),là Mỵ Nương trong
Trương
Chi ( 1957 ), là Tâm,
nhân vật chính trong vở kịch nói
Đêm Lào Cai ( Viết
1951 ).
Nhưng là nhân vật nữ chính thì phải kể tới vở
Kiều
Loan , lấy tên nhân vật. Theo lời tác giả, kịch bản khởi thảo cuối
xuân 1942- tác giả tuổi 20- đến giữa năm 1943 đã tạm hoàn thành. Dự định
đưa lên sân khấu, ở thị xã Bắc Giang đã tìm được vai khó nhất là nữ
chính, chuẩn bị cùng bạn bè dàn dựng, kịch bản phải đưa lên Chánh công
sứ Pháp Luciani, một người khá am hiểu tiếng Việt, kiểm duyệt, thì y xóa
hết kịch bản. Đến cuối 1943, bạn bè ở Hà Nội, do Chu Ngọc đứng đầu lại
định đưa vở kịch thơ lên sân khấu. Nhưng lần này, Phòng kiểm duyệt do
Cousseau, chủ nhiệm Phòng Thông tin- tuyên truyền- báo chí của Phủ Thống
sứ Bắc kỳ cầm đầu lại xóa sạch cả 4 màn của
Kiều Loan.Rõ ràng hệ thống
kiểm duyệt thực dân rất nhạy bén với mọi biểu hiện của lòng yêu nước, và
lên án sự đàn áp tàn bạo đối với người dân. Kịch thơ
Kiều Loan là chuyện một người
phụ nữ nhan sắc bị điên- hay giả điên –từ phương nam về kinh thành Phú
Xuân – Huế- tìm chồng. Kịch xảy ra khoảng tháng 9-1802, Gia Long vừa lên
ngôi ở Phú Xuân, triều đình nhà Tây Sơn, sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn
Quang Toản nối nghiệp đang suy yếu.Chuyện kịch diễn ra từ tối hôm trước
đến sáng hôm sau.Một ngã ba đường ngoại thành,Xa xa mấy nếp nhà Hoàng
cung đang chìm trong sương. Bên đường, một vài túp lều ủ rũ, vài thân
cây khẳng khiu giơ lên nền trời úa đỏ những ngón tay tuyệt vọng. Tiếng
trống thu không, chuông chùa rền rỉ. Mấy tốp lính dẫn những xâu người bị
trói diễu qua. Đoàn người tù tội bị buộc cúi đầu, áo quần tả tơi, mặt
xám ngoét. Tiếng roi bọn linh vụt nghe vun vút. Bọn trẻ bên đường sợ
hãi. Dằng dặc những đoàn tù diễu qua. Trầm trầm ,lơ lớ tiếng hát của bọn
lính bắt người. Trên cái nền ấy,Kiều Loan từ mé trái chạy ra, xiêm áo
xốc xếch, dính nhiều sợi cỏ,cánh hoa, bùn đất- gợi nhớ một Súy Vân trong
vở chèo cổ- Bị bọn trẻ trêu đùa, Nàng cất tiếng hát thơ.Nhờ thế, người
xem biết nàng điên , năm đó 28 tuổi, đang đi tìm người chồng nàng đã bảo
bọc, đỡ đần thuở hàn vi, mười năm nay, mãi theo đường binh nghiệp ,
không tin tức. Ngỡ là chàng đi phò nhà Tây Sơn, Đâu ngờ Vua Quang Trung
đột ngột qua đời, thấy Nguyễn Quang Toản không nối được chí cha, chàng
đã chạy theo giúp Gia Long. Giờ là Vũ Tướng quân, chức Chưởng vệ, võ
quan thân tín của Gia Long. Để tỏ lòng trung thành và được Gia Long tin
cậy, Y đã dốc lòng dẹp mọi sự phản kháng, dìm họ trong biển máu. Đêm
nay, biết là người vợ giả điên đang đi tìm, lại gặp lại người Thầy dạy
học xưa, Y cũng tìm cách lẫn tránh. Phần vì sợ bọn quan lại của tân
triều theo dõi, phát hiện ra tung tích xưa. Cả một lũ hình quan cạnh
tranh nhau thể hiện lòng trung thành, giết nhau, để rồi cùng bị chúa
giết. Trước lúc dẫn quân lên đường đi dẹp những người nổi loạn, Vũ Tướng
quân vào ngục gặp người vợ ân nghĩa ngày xưa. Không thuyết phục được
chồng , buông gươm, về quê xưa sinh sống, Kiều Loan đã tự tay đâm chết
Vũ Tướng quân bằng lưỡi gươm xưa nàng đã tặng chồng , rồi cùng tự sát.
Không thể chấp nhận kẻ đã hai lần bội bạc: Với chủ tướng xưa, và với
người vợ thưở hàn vi. Nhưng như thế là Kiều Loan cũng tự kết liễu cuộc
đời của mình.Có những điều nhân vật
Người quê đáp lời
Ông
già ,người mong đất nước sẽ thanh bình, khi Gia Long thành công, như
một lời tiên tri: Cụ nhầm rồi,
thì giặc lại như ong/Vì sắc đẹp bắt gươm quay mũi lại/Thì hai bên đã
biết ai thắng bại/Giang sơn này lại sông máu, núi xương/Lại bồng bế nhau
nghìn vạn nẻo đường/Lại đói rét lầm than, chúi đầu, gảy cổ/….Cuộc phân
chia lại diễn ra lần nữa/ Nơi kinh thành chưa khỏi vết thương xưa/Tôi
lại đứng đây xem một ván cờ/ Kẻ sắp được lại lâm vào nước hết/
Kịch viết xong rồi,tác giả cùng bạn bè đi tìm các nhân vật có thể vào
vai cho vở diễn. Khá nhiều văn nghệ sĩ đã chon các vai diễn cho mình.
Đồng hương Kim Lân nhận vai ÔNG GIÀ SAY, Trần Hoạt- Ngọc Đỉnh thay nhau
làm NGƯỜI QUÊ, Lộng Chương- Trúc Lâm làm nhị vị THAM TRI, THỊ
LANG,Nguyễn Thân cao to, đẹp mã, đài từ tốt nhận vai VŨ TƯỚNG QUÂN. Vai
HIỆU ÚY, Tùy tướng của Vũ Tướng quân,người đắm đuối và mê say Cô gái
điên- KIỀU LOAN-tác giả xin đảm nhận.Mọi chuyện chỉ có thể tiến hành khi
tìm được người nữ sẽ sắm vai Cô gái điên có sắc đẹp ma mị, giọng ca hay,
vũ điệu quyến rũ. Đã tìm hàng chục người mà vẫn chưa vừa ý.Phải chờ đến
Cách mạng tháng 8-1954. Nhưng để dựng Kiều Loan, lúc này không còn hàng
rào kiểm duyệt cũ, vẫn không dễ dàng. Từ đầu tháng 9-1945, dưới sự chủ
trì của Hoàng Tích Chủ, ban kịch Đông Phương đã được thành lập. Đồng
thời với họ, và trước đó đã có ban kịch Tinh Hoa của Thế Lữ- Song Kim,
ban kịch Tháng Tám của nhóm Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính bước
đầu chuẩn bị, …Trong khi chờ đợi tìm Kiều Loan, ban kịch Đông Phương với
Hoàng Cầm, Kim Lân và hai nhà hoạt động sân khấu tận tụy là Trần Hoạt và
Hoàng Tích Linh, ban đã dựng các vở
Bóng giai nhân, Lên đường.Vốn
hay giao du rộng, chính nhà văn Kim Lân đã phát hiện ra một nữ diễn
viên của ban kịch Tháng Tám là ngườì có vẻ đẹp sắc sảo, lại hát hay,
ngâm thơ thì … rất mê. Vậy là cả nhóm kịch kéo nhau tới phố Huế để tìm
gặp, mời chị Tuyết Khanh vào vai Kiều Loan.. Qua trò chuyện, Tuyết Khanh
đã tìm thấy sự đồng cảm. Sau một tuần nghiên cứu kịch bản, chị đã vui vẻ
nhận lời, và tình nguyện xuống ở cùng ban kịch trong một ngõ hẻm cuối
phố Nguyễn Khuyến bây giờ, để tập cho thuận lợi . Để thấy vị trí của vở
kịch thơ có sức hấp dẫn đến mức nào, chỉ nên nhắc đến sự ủng hộ nồng
nhiệt của các nghệ sĩ tài danh, thưở ấy mới trong ngoài tuổi 20 : Các
họa sĩ Hoàng Tích Chủ , Nguyễn Tiến Chung( Lo hóa trang và trang phúc
sân khấu), Nguyễn Sĩ Ngọc lo trang trí sân khấu,Nguyễn Đình Hàm lo các
đạo cụ và nội thất sân khấu, Hoàng
Lập Ngôn đã tạo ra 15 bộ mặt những người tham gia vở diễn băng lối vẽ
Tinh
tướng độc đáo của mình. Đặc biệt : “Họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ bìa cho
một tờ chương trình 12 trang , dự định sẽ kèm theo mỗi vé bán,mỗi giấy
mời trong 5 đêm diễn đã được Ủy ban Thành phố cho phép. Quên sao được,
dẫu hôm nay tôi không thể tìm đâu ra một tờ, hình ảnh một cô gái điên,
tóc bay chênh chếch trên đôi mắt lúng liếng,ngây dại,xiêm áo như sóng
xô, gió cuốn,dưới bóng một cổ thụ thân to quằn quại, có ba nhánh trăn
trở hướng nghiêng về một phía với ước chừng 15 chiếc lá rất to, mà… các
bạn hãy tưởng tượng xem, mỗi cái lá đúng là một con mắt mở to đang nhìn
thẳng vào cuộc sống nhân gian, có mắt đờ đẫn trầm tư,có mắt đăm chiêu,có
mắt buồn,mắt đau đớn,có mắt quắc lên như hỏi tội ai đây, có mắt mòng
mọng như sắp khóc trước một nổi đời oan trái.”
Khi tác giả đưa vở kịch đến Hội Văn hóa Cứu quốc,yêu cầu sự giúp đỡ để
có thể diễn, các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng,Nam Cao,
Nguyên Hồng, và nhà học giả Đăng Thai Mai đều tỏ ý hoan nghênh và khuyến
khích dàn dựng sớm. Nhưng như đã nói, chỉ đến khi tìm được chị Tuyết
Khanh cho vai Kiều Loan mà
tác giả coi là “ Chúng tôi mừng hơn bắt được viên kim cương đắt giá nhất
trần gian “ thì đầu tháng 8-1946 mới khởi công dàn dựng. Sáng chủ nhật
cuối tháng 11-1946, đúng dịp có Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất,
vở kịch mới được tổng duyệt.Trong quá trình
tập, vở kịch đã nhận được sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình của nhiều văn nghệ
sĩ nổi tiếng. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ao ước Tuyết Khanh mà vào vai Đan
Thiềm trong
Vũ Như Tô thì thật yên tâm.
Nam Cao thích ý tưởng vở kịch và đề nghị Văn hóa Cứu quốc ủng hộ về tài
chính. Nguyên Hồng theo dõi, xúc động theo từng cảnh kịch và không ít
lần sụt sùi lau nước mắt.Nhà thơ Vũ Hoàng Chương thì không biết vì mê
Kiều Loan trên sân khấu, hay Tuyết Khanh ngoài đời, mà không chỉ bám
đoàn khi tập, mà sau này còn theo đoàn đi diễn mấy làng ở Bắc Ninh. Hai
Kịch tác gia Lưu Quang Thuận, Trúc Đường theo dõi đoàn tập, phỏng vấn,
viết bài,và đăng màn đầu
Kiều Loan lên tạp chí SÂN
KHẤU do nhà xuất bản Hoa Lư của Lưu Quang Thuận xuất bản hàng tháng, và
chuẩn bị in trọn vẹn vở kịch trong năm 1946. Tác giả còn nhớ được bảng
phân vai với những diễn viên mà tên tuổi còn in đậm dấu trong nền văn
nghệ cách mạng và kháng chiến. Ngoài các nhân vật tự nhận như đã kể, còn
có Thạch Can vai Nội quan,Duy Lễ đóng Ngục quan, Nguyễn Như Tiếp,Ngô Cừ-
Người qua đường, Tạ Vũ, Chu Xuân Hoan vai Thư sinh.với một số bạn và
cháu nhỏ các vai Thư lại, lính tráng và trẻ con.Đạo diễn : Hoàng Tích
Linh.
Nhưng sau đêm diễn hoành tráng chào mừng thành công của Hội nghị văn hóa
toàn quốc và được chào đón nhiệt liệt, những tràng pháo tay dường như
không ngớt, trong Nhà hát lớn,đêm khuya, lúc đã qua ngày mới,thì nhận
được lời mời của Ông Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng
Thành phố Hà Nội mời Trưởng đoàn
Hoàng Tích Chù, Đạo diễn Hoàng Tich Linh, và tác giả Hoang Cầm lên tru
sở Ủy ban.Bằng giọng ái ngại, cảm thông, Ông nói : Hoãn đi , các anh ạ!
Tôi biết các anh đã mất nhiều công lắm mới có được cái thành tựu hôm
nay. Nhưng tình hình nghiêm trọng lắm rồi, giả dụ như đang lúc khán giả
ùn ùn kéo vào Nhà hát, nó mà choang vài quả lựu đạn vào đấy thì phiền
lắm lắm. Tôi làm Chủ tịch Thành phố, không thể để việc đó xảy ra.
Được cấp phép và dự định diễn 5 đêm, mà chỉ mới đêm đầu , đã…Mà tình
hình lúc bấy giờ căng thẳng thật. Nam Bộ đã nổ súng kháng chiến từ
Mùa thu rồi, ngày 23 ( tháng
9-1946 ), Ở Hải Phòng bọn Pháp đã bắn giết nhiều người dân, ngoài các
phố Hà Nội xe quân sự và binh linh Pháp đã nghênh ngang đi lại.Những
ngày sau, đoàn tản cư về diễn ở Phù Lưu quê Hoàng Tích Chù, Hoàng Tích
Linh, Kim Lân, về Đình Bảng, quê Trần Hoạt, về Lạc Thổ, Đông Hồ , nơi
màu dân tộc sáng bừng trang giấy
điệp, quê của tác giả.Đường đi đành đột ngột dừng bước, vì đêm
19-12-1946, nổ ra toàn quốc kháng chiến.Ban kịch phải giải tán, nhưng
còn một tốp nhỏ vẫn tiếp tục đi diễn nhiều làng quê mấy huyện Tiên Du,Từ
Sơn, Thuận Thành.
Cặp đôi Hoàng Cầm – Tuyết Khanh còn cùng diễn trong mấy vở ngắn :
Lên đường, Tuyết Khanh vai Cô
Phương, Hoàng Cầm : Lê Thái, Trần Hoạt : Cụ Đồ, Trúc Lâm: Ông Tú;Vở
Hận Nam quan : Hoàng Cầm vai
Nguyễn Trãi, Tuyết Khanh vai Sơn Nữ, người yêu Nguyễn Trãi; diễn trong
năm 1946;Vở Cô gái nước Tần
ra mắt lần đầu vào tháng 3-1947 ở Thị trấn Thắng – Hiệp Hòa- Bắc Giang
với bảng phân vai: Tuyết Khanh: Huyền Cơ, Hoàng Cầm : Tần Vũ, Chu Đình
Uy: Thái Bá. Cả mấy vở đều do Hoàng Tích Linh đạo diễn.Nhưng đến vở
Đêm Lào Cai diễn cuối 1951,
tác giả vẫn vào vai một viên sĩ quan Việt gian si tình, thì cô Tâm vai
nữ xinh đẹp, hấp dẫn, đã liều thân xông vào hang cọp để quyết diệt cọp
lại do Thùy Chi sắm vai. Bởi trên đường cùng đoàn kịch đi lưu
diễn, vượt bao nhiêu gian khó và hoạn nạn họ đã ghép thành đôi.Tháng
1-1948, giữa rừng Việt Bắc, tình yêu của họ đã đơm hoa kết nụ, và hai
người chọn tên nhân vật Kiều Loan đặt cho con gái. Rồi chiến tranh đã
chia lìa họ mãi mãi. Sau nhiều biến động, thiên di, mẹ con Kiều Loan đã
cư trú ở Mỹ. Mấy năm sau ngày Thống nhất, Kiều Loan đã về gặp lại người
cha, lúc này đã là một cụ già ngoài 80, vóc hạc, mình mai , nhưng tình
yêu đời, yêu thơ ca thì không hề vơi cạn.
Sống bền bỉ với cuộc đời, hơn 60 năm sau ngày ra đời, năm 2005,
Kiều Loan
lại có dịp xuất hiện trên sân
khấu Nhà hát Tuổi trẻ, vai Kiều Loan do nghệ sĩ Quách Thu Phương, một
gương mặt sắc sảo, đôi mắt đầy sức hút đảm nhận. Kịch do
NSUT Anh Tú làm Đạo diễn. Lúc này, tác giả đã phải ngồi trên xe
lăn tới dự buổi tổng duyệt. Được vây bọc bởi một thế hệ hệ sĩ trẻ trung,
xinh tươi, góp sức làm sống lại những nhân vật mình sáng tạo từ thưở đôi
mươi, có lẽ là niềm hạnh phúc mà không phải một kịch tác gia nào cùng có
được.
NGÔ THẢO
(
Các trích dẫn và Tư liệu trong bài lấy từ các tập :
-
KIỀU LOAN- Nxb Văn học-1992
-
VỀ KINH BẮC – Nxb Văn học
-1994
-
HOÀNG CẦM –TÁC PHẨM-Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hóa Đông Tây – 2002
)
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-2-22 |