Góp ý Dự thảo Chiến
lược văn hóa 2021-2030 :
NGHĨ VỀ CÁI KHÁC
CỦA VĂN HÓA- THỂ THẢO- DU LỊCH
Ngô Thảo
Nước Việt Nam mình có một thể chế khác với nhiều nước trên thế giới, nên
trong tổ chức hành chính cũng có những nét khác biệt. Có một bộ mang tên
Văn hóa- Thể thao và Du lịch, là một trong những nét khác biệt đó. Mà ở
nước mình, bất cứ ai, dù vốn thuộc chuyên môn nào, hể cứ trúng cử vào
một vị trí trong BCH TW, là được phân công phụ trách một lĩnh vực quan
trọng, bởi đương nhiên đó là một nhà bách khoa.
Chúng tôi, chỉ là một anh cán bộ quèn, được đi học không đến nơi đến
chốn, nhưng có một số năm từng làm việc trong ngành văn hóa, một ngày
kia, đọc tập họp ngôn từ này trong một cơ quan hành chính, bỗng nhận ra
những khác biệt của từng chuyên ngành, mà lâu nay hình như
còn ít được đề cập, nên trong thực tiễn điều hành công việc, đã
phát sinh những điều đáng suy nghĩ. Tất nhiên, chúng tôi biết các nhà
chiến lược, khi tổ chức bộ máy hành chính đã tính toán chu đáo, rồi được
Quốc Hội, gồm những trí tuệ siêu việt nhất của cả nước thông qua. Nhưng
trong quá trình thực hiện, việc điều chuyển cán bộ liên tục, không biết
nhiều cán bộ ở các địa phương, các ngành nghề khác được bổ sung về có
liên tục được cập nhật những kiến thức này không.
Mấy thiển kiến dưới đây, mong được trao đổi, để hầu nhắc nhỡ một hiện
trạng đáng lo lắng cho văn hóa nước nhà.
Trước hết, phải thấy, ngay trong bản chất, ba hoạt động này đã khác nhau
về mục đích, biện pháp tiến hành, và quan trọng là tư duy chiến lược.
Mọi văn kiện của Đảng và Nhà nước đều xác định:
Văn hóa
là mục tiêu và nền tảng tinh thần
của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Văn hóa soi đường cho
Quốc dân đi. Có ai thử đem TT
và DL thay vào đây để thấy vị trí khác nhau trong đời sống xã hội hiện
đại? Chúng tôi không muốn nói văn hóa quan trọng hơn hai ngành TT và DL.
Mỗi hoạt động đều có vai trò quan trọng của nó. Cái chính là trong hoạt
động, mỗi ngành đều cần những cách thức thực hiện, liên quan đến đó là
Tư duy chiến lược rất khác nhau.
Trước hết hãy nói đến Du lịch. Phải xác định, đây là một dịch vụ nhằm
mục đích kiếm lợi. Nó sử dụng những lợi thế và đặc
sắc của tự nhiên và nhân tạo của
mỗi vùng miền, để chiêu dụ du khách. Bản thân ngành du lịch không có
nghĩa vụ xây dựng hay sáng tạo nên các công trình đó. Việc tạo nên cảnh
quan, đường sá đi lại, cơ sở nghỉ dưỡng hay lễ hội, nơi ăn chốn ở, tiện
nghi sinh hoạt các đẳng cấp là của các địa phương, các ngành khác. Là
một đất nước có địa hình kỳ thú, có lịch sử dựng và giữ nước lâu đời,
mấy cuộc chiến tranh lớn vừa đi qua, việc xây dựng một đất nước hiện đại
chỉ mới bắt đầu, dấu tích địa hình nguyên sơ còn phong phú là những lợi
thế cho sự phát triển của ngành du lịch. Nhưng sau mấy năm phát triển,
ngành này đang đứng trước những đòi hỏi mới từ cách thức tổ chức, chất
lượng nhân lực, đến triết lý cơ bản của một hoạt động mang bản chất văn
hóa. Nhân danh quảng bá hình ảnh đất nước, nhưng sau nhiều năm, số du
khách chỉ một đi không trở
lại chiếm số đông, thì không thể coi việc quảng bá đã thành công. Hầu
hết họ chỉ đi một lần cho biết, chứ chưa có ấn tượng, đừng nói là cảm
tình sâu nặng với xứ sở này. Để chiều khách, không ít nơi, đã biến những
nơi vốn để thờ tự thiêng liêng, các lễ hội vốn chỉ cho một cộng đồng
giới hạn thành một sàn diễn sân khấu cho đông đảo người xem. Sự giải
thiêng do mở cửa tự do cho du khách đồng nghĩa với việc hạ thấp các giá
trị của văn hóa tâm linh, vốn là một nét đặc sắc trong tâm thế người
Việt. Nương theo tâm thế đó, khá nhiều cơ sở thờ tự hoành tráng, đặc
biệt là chùa chiền mới được dựng lên ở khá nhiều nơi, mà thực chất là
những cỗ máy kiếm tiền, kinh doanh không che dấu dựa trên sự mê tín mới,
không chỉ của người dân. Khai thác, sử dụng, tận dụng các giá trị văn
hóa vốn có mà không có phương sách bảo tồn, gìn giữ, và xây dựng những
giá trị văn hóa của NGÀY HÔM NAY thì tính tích cực về mặt lịch sử của
ngành du lịch là điều cần được đặt ra trong quá trình phát triển. Nhất
là hiện nay, một số địa phương, đang tách Du lịch thành một tổ chức độc
lập. Những hòn đảo đẹp và giàu giá trị lịch sử như Côn Đảo, Phú Quốc,
nơi nổi tiếng vì đã lưu đày nhiều thế hệ người tù yêu nước và Cộng Sản,
thì khi người Cộng sản đã lên cầm quyền, đang tích cực đầu tư xây dựng
thành thiên đường nghỉ dưỡng cho các tỉ phú và người giàu có trên thế
giới, như lời tuyên bố của một vị Phó Chủ tịch Tỉnh ở đó. Diện tích mỗi
đảo xấp xỉ quốc đảo Singapor, lại có nhiều thuận lợi hơn về môi trường
địa lý, sao không nghĩ đến
phương án xây dựng một xứ sở tuyệt vời theo lý tưởng mà vì nó
hàng triệu người Cộng sản đã không tiếc xương máu, vượt qua mọi cực
hình, tra tấn, khổ nhục hy sinh để có ngày thắng lợi? Nếu xây dựng được
hai hòn đảo đó theo mô hình Cộng sản, hay gần hơn là chủ nghĩa xã hội
hiện thực- vì, tất yếu, mô hình xã hội tương lai, trước hết phải được
xây dựng ở một xứ sở nào đó- nơi người yêu người sống để yêu nhau thì
chắc cả thế giới sẽ đổ về đó đi du lịch, tìm hiểu, học tập, chứ
không phải chỉ nghỉ dưỡng và vào các Casino đánh bài, điều mà ở đất liền
nghiêm cấm. Một khi lấy lợi nhuận và đồng tiền làm mục đích tối thượng,
làm mọi cách vừa lòng người có tiền thì những giá trị căn bản về thuần
phong mỹ tục, về đạo lý và văn học dân tộc làm sao không bị xói mòn? Mà
lúc đó liệu yêu cầu quảng bá văn hóa dân tộc và hình ảnh đất nước như là
một mục đích của du lịch có đạt được? Điều đau lòng hơn cả là tốn bao
nhiêu xương máu giành Độc lập chỉ để làm những việc này thôi sao?.Cơn
dịch Covid hai năm qua, một khi không có khách ngoại, mà trong nước cũng
khó đi lại,toàn bộ ngành Du lịch định hướng làm kinh tế bằng túi tiền
của khách ngoại, có thể rút ra những bài học gì cho chiến lược lâu và
bền vững là nên đặt ra.
Hoạt động thể thao những năm qua của nước ta phát triển sôi nổi, phong
phú và đạt nhiều thành tích nổi bật. Cứ nhìn vào số lượng báo chí về thể
thao phát triển thì thấy tính quần chúng của hoạt động này. Không rành
và không theo dõi mảng này, nên phát biểu của cá nhân tôi có thể không
chuẩn. Tôi chỉ dám nêu mấy nhận xét trên phương diện báo chí. Cứ như các
báo đưa tin và quan tâm, thì chủ yếu là thể thao đỉnh cao, và quần chúng
tham gia với tư cách người xem, chứ chưa phải người trực tiếp tham gia
hoạt động. Tất cả các cơ sở vật chất được xây dựng với một nguồn kinh
phí cực lớn ở khắp mọi miền đất nước, chủ yếu là để phục vụ các hoạt
động thi đấu, chứ không phải là nơi ngày thường người dân có thể vào đó
luyện tập. Sự lãng phí cơ sở vật chất thể thao chắc không ai không thấy.
Nhờ có một đường hướng đào tạo rõ ràng, nên thể thao VN tham gia thi đấu
các đấu trường quốc tế thường xuyên, và thành tích ngày càng cao. Điều
đó đã khuyến khích sự lựa chọn của đông đảo tuổi trẻ nhiều lứa tuổi tham
gia luyện tập. Những thành tích và vinh quang thể thao đỉnh cao mang lại
được trả bằng giá nào, liệu có ai tính toán không? Tiền bạc là thứ rất
khó nói. Nhưng tôi muốn nói đến khía cạnh NHÂN VĂN của thể thao đỉnh
cao. Về nguyên tắc, đây là lĩnh vực của những sự PHI THƯỜNG.
Nhanh hơn, cao hơn, xa hơn, ở
đây chỉ có chỗ cho sự hơn người.
Tính cạnh tranh quyết liệt tạo nên tâm lý thi đấu thường xuyên sẽ ảnh
hưởng đến cuộc sống của họ khi trở lại đời thường. Không phải vận động
viên nào cũng dễ hòa nhập sau thời gian tham gia thi đấu. Những năm thi
đấu đỉnh cao thường là rất có hạn, nhưng lấy đi rất nhiều thể lực và ý
chí của người tham gia thi đấu. Sức khỏe là vấn đề phổ biến phải lo
lắng. Không biết có con số thống kê nào về thương tật và di hại chấn
thương và tuổi thọ của các vận động viên từng đoạt các huy chương ở các
cuộc thi đấu lớn, những di chấn ảnh hưởng đến cả cuộc đời? Một chế độ
lương thưởng cho người đang luyện tập, và hệ thống bảo hiểm suốt đời cho
họ luôn là vấn đề nóng ở mọi bộ môn và ở nhiều địa phương. Lại còn nghề
nghiệp để ổn định cuộc sống lâu dài cho các vận động viên khi kết thúc
thời gian thi đấu. Nếu không làm tốt các chế độ chính sách cho những
người tham gia thi đấu thể thao đỉnh cao, mà không phải ai cũng đều đạt
đến đỉnh, tính nhân văn của hoạt động thể thao đã không đạt được, mà mặt
trái của nó sẽ ảnh hưởng đến tính cách của cả một lớp người đông đảo ít
nhiều đều có tài năng về một mặt nào đó: Thói đố kỵ, vụ lợi, chụp giật,
cạnh tranh không lành mạnh, vắt chanh bỏ võ…Nhìn nền bóng đá nước nhà,
với bao nhiêu tiền của, công sức đầu tư và sự cổ vũ nhiệt tình của đông
đảo công chúng, mà luôn vướng phải những lùm xùm không đáng có của các
lớp cầu thủ, chất lượng thi đấu phập phù, điều có thể thấy, ngoài thể
lực và trình độ kỹ thuật chuyên môn, vẫn nổi bật vấn đề căn bản văn hóa
và đạo đức của cả vận động viên
và đội ngũ huấn luyện viên. Về kinh phí,dù rất tốn kém, nhưng các
nhà quản lý luôn tìm ra nguồn để đầu tư, và thực tế đã đầu tư rất hào
phóng. Nhưng đầu tư về lực, huấn luyện chuyên về một bộ môn, làm méo mó
sự phát triển bình thường, sử dụng và khai thác trong một thời gian
ngắn, mọi kỷ lục luôn bị vượt qua, tai nạn nghề nghiệp càng đỉnh cao mật
độ càng lớn, không được đào tạo văn hóa cơ bản ngay khi con trẻ tuổi,
liệu đội ngũ này khi trở lại tham gia đời sống bình thường, mấy người có
thể trở thành những công dân có cuộc sống tốt đẹp?
Thể thao, một hoạt động mang tính nhân văn, nhằm đào luyện con người
toàn diện, và mang lại niềm vui, hạnh phúc cho con người, nếu tổ chức
không tốt, chạy theo thành tích nhất thời, luôn có nguy cơ mang lại
những hậu quả trái ngược. Không ít vận động viên có thể lấy cuộc đời họ
chứng minh cho nhận định này.Thể thao phong trào, để nâng cao thể
lực,tính kỷ luật và cả tầm vóc cho toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nên
là một định hướng lâu dài và thường xuyên.
Hoạt động du lịch và thể thao, do thế, nếu không lấy văn hóa- nhân văn
làm căn bản sẽ luôn có khả năng đi chệch hướng. Làm tiền bằng mọi giá,
hay chạy theo thành tích, bất chấp số phận con người đã luôn được dư
luận báo động, nhưng để tránh khỏi nguy cơ đó, thì phải thường xuyên trở
lại định hướng: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Trong thực tế, đã có
hiện tượng, tư duy của du lịch và thể thao có nơi có lúc chi phối cả các
hoạt động văn hóa.
Bản thân văn hóa đang có khá nhiều vấn đề cần được làm rõ. Có thể kể
nhiều thành tựu của văn hóa bằng những con số thống kê về cơ sở vật
chất, số gia đình văn hóa và cở sở văn hóa, cùng nhiều tác phẩm và văn
nghệ sĩ được tặng thưởng và các danh hiệu vinh dự. Nhưng ngay trong các
văn kiện của Đảng cũng báo động về những nguy cơ suy thoái đạo đức xã
hội, sự khủng hoảng trên diện rộng những chuẩn mực về lối sống không chỉ
của lớp trẻ. Tất nhiên để dẫn đến thực trạng đó có rất nhiều lý do.
Nhưng đội ngũ những người làm văn hóa không thể thoái thác trách nhiệm
chính của mình.
Có một thực tế, hình như việc đầu tư cơ sở vất chất kỹ thuật cho văn hóa
kém xa đầu tư cho thể thao. Như trên đã nói, các nhà thi đấu các loại
hình thể thao được xây dựng hoành tráng và rộng khắp ở nhiều tỉnh thành
trên cả nước. Mấy chục năm qua, ngay ở các thành phố lớn, việc xây một
vài cơ sở biểu diễn và hoạt động cho nghệ thuật vẫn là của hiếm. Chưa
nói đến hiệu quả hoạt động của các cơ sở đó.
Song điều đáng nói hơn chính là nhân lực trong các ngành văn hóa, trong
đó có văn học nghệ thuật. Đây là lĩnh vực của những người có tài năng và
năng khiếu, nên cần một chiến lược phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và tạo
điều kiện cho họ hoạt động có hiệu quả. Về khâu này, như trên đã nói,
thể thao đỉnh cao đã và đang làm việc này khá thành công. Các tài năng
được phát hiện và đào tạo từ khi còn nhỏ tuổi. Việc học tập và tập huấn
ở các trường và trung tâm tốt nhất của quốc tế là bình thường. Trong văn
hóa điều này hình như không có ai quan tâm. Một số tài năng trẻ đó đây
đều đi du học bằng con đường tự túc. Các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ
thuật ở trong nước phải nói thẳng là còn lâu mới sánh được với các nước
trong khu vực, chớ nói quốc tế. Trong xã hội hòa bình, văn hóa- văn nghệ
phải trút bỏ bộ trang phục mang nét thiêng liêng của nhà truyền giáo, để
hòa mình vào cuộc đời đa sắc, đáp ứng nhu cầu giải trí khá khác nhau của
số đông nhân quân. Đất nước mở rộng giao lưu, các phương tiện kỷ thuật
truyền thông phổ cập, làm cho văn hóa mất hẳn hàng rào biên giới. Cuộc
xâm lăng về văn hóa được các cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông tiếp sức đã nhanh chóng đè bẹp các hoạt động mang bản sắc
văn hóa truyền thống. Mặc dầu Nhà nước và các nghệ sĩ đã rất cố gắng,
nghệ thuật truyền thống dân tộc đang bị co cụm lại, với một nhóm khán
giả ngày càng thưa vắng. Đặc biệt là sân khấu. Có lẽ, đã đến lúc phải
xác định một số loại hình sân khấu, thuộc diện phải bảo tồn, tập trung ở
một số đơn vị, ở những địa bàn cụ thể, với một chế độ hoạt động đặc biệt
và được nuôi dưỡng thích đáng. Để họ tự bơi trải kiếm sống với cân bằng
thu chi thì làm sao lại được với các ngành giải trí đang mọc như nấm sau
mưa hiện nay!
Hòa nhập với thế giới, nước ta đang có một hệ thống truyền hình Nhà nước
khổng lồ, không mấy nước phát triển theo kịp. Hơn 65 Đài truyền hình các
địa phương, gần chục Đài các tổ chức Nhà nước, với hơn 300 kênh đồng
thời phát sóng, có hơn 1.000 phòng chiếu phim , lại có 384 cơ sở được
cấp phép sản xuất phim( Theo công bố của Cục Điện ảnh cuối 2015). Ngoài
phần thông tin, thì nội dung chính của các đơn vị là sản xuất và phổ
biến các sản phẩm văn hóa. Phải nói thẳng, năng lực sản xuất của văn hóa
nội địa dù đã có nhiều thành tựu vẫn còn lâu mới đáp ứng cái dạ dày
khổng lồ của cả hệ thống chuyển tải hiện đại và rộng khắp đó. Mở bất cứ
một kênh nào, cũng tràn ngập phim truyện nhiều tập của các nước. Thậm
chí có mấy diễn viên Hàn quốc, Trung Quốc xuất hiện với mật độ còn dày
đặc hơn cả các ngôi sao Việt.Qua phim truyền hình, dân ta hiểu rõ lịch
sử, văn hóa nước họ hơn hẳn lịch
sử, văn hóa nước ta Các rạp chiếu phim cũng quanh năm phải chiếu phim
ngoại, vì năm nhiều VN chỉ sản xuất được một lượng phim rất có hạn, nấy
năm gần đây, khá hơn cũng chỉ được hơn 40 phim, mà không phải phim nào
ra rạp cũng đông người xem. Hiện tượng tràn ngập lãnh thổ của văn hóa
ngoại, được sự tiếp sức của các phương tiện chuyển tải hiện đại ngay
trong đất nước của mình, ai cũng nhìn thấy,
ai cũng nóng mặt, nhưng hình như các nhà chiến lược về văn hóa
vẫn dửng dưng, nếu không nói, đó đây còn tiếp tay, bằng nhiều cách thức
để thu lợi riêng. Các đài TH để tồn tại, đang ngốn một nguồn kinh phí
rất lớn. Đua nhau lên sóng, nhưng liệu có ai kiểm đếm được số lượng
người xem? . Mà một khi người ta đã không xem, thì liệu bao nhiêu tâm
huyết của người làm ra các chương trình với ý định phổ biến kiến thức,
giáo dục chính trị- tư tưởng, thì ngoài chính người làm, liệu có bao
nhiêu công chúng biết đến? Mục đích phục vụ đã khó nhìn thấy kết quả, mà
nguồn thu từ người xem không có, thì dẫu Nhà nước Trung ương và địa
phương, cũng như các cơ quan chủ quản có hào phóng sử dụng ngân sách đến
đâu, rồi có lúc cũng kiệt sức. Một
sự lãng phí tiền của, công sức lớn hình như khôngcó ai đứng ra chịu
trách nhiệm. Món nợ đầm đìa mà ngay cả các Đài các thành phố lớn đang
phải ghi sổ, không biết sẽ tìm ra nguồn nào để bù đắp?Tình trạng lương
bổng, biên chê, cơ chế hoạt động của các Đài truyền hình hiện nay ra
sao, liệu có cơ quan nào kiểm tra để biết thực trạng lạc quan hay bi đát
thế nào không? Mức độ hoàn thành nhiệm vụ có tương xứng với nguồn tiền
khổng lồ phải bỏ ra để giữ sự tồn tại của các cơ sơ TH?
Trong khi về kinh tế, nước ta đang tiến nhanh
vào thời kỳ công nghiệp hóa. Ngay cả nông nghiệp cũng đang thời kỳ hiện
đại, với quy mô lớn. Nhưng cái được gọi là nền tảng tinh thần của xã hội
thì vẫn làm ăn nhỏ lẻ, cò con, mang thân phận của kẻ ăn theo kinh tế.
Chắc chắn ở đây, đang thiếu một chiến lược văn hóa cơ bản để xây dựng
nền Công nghiệp văn hóa. Hình như Hà Nội, vừa thức tỉnh khi có mấy cuộc
hội thảo về làm kinh tế trong văn hóa và xây dựng công nghiệp văn hóa
của một Thủ đô có hơn nghìn năm
văn hiến! Nói đến chiến lược, là phải nói đến con người. Tầm vóc,
trình độ, sự am hiểu về các lĩnh vực sâu rộng của văn hóa của các nhà
hoạch định chiến lược và quản lý văn hóa nhà nước hiện nay quả thật rất
đáng lo lắng. Vẫn phố biến tình trạng các cán bộ hành chính và chính trị
chay, trúng vào một cấp ủy nào đó mà không có chuyên môn sắc sảo được cử
sang quản lý văn hóa, văn nghệ. Sứ mệnh của một Nhà nước là tạo hành
lang thông thoáng, điều kiện thuận lợi, chính sách khuyến khích để những
người có năng khiếu sáng tạo trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật, cũng
như văn hóa được tự do phát triển tài năng, tạo nên những tác phẩm và
sản phẩm phục vụ tốt nhất cho nhu cầu xã hội. Số người này không có
nhiều, mà cũng không phải tự nhiên mà có. Nên cần có quy chế phát hiện,
bồi dưỡng, đào tạo, tổ chức cho họ làm ra sản phẩm mà xã hội cần. Nhân
lực này hiện nay vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa được tổ chức tốt để phát
huy sức sáng tạo của họ. Một điểm cần chú ý, là nếu một vận động viên,
chỉ phải đào tạo và huấn luyện trong một thời gian dài lắm là mươi năm,
và họ hoạt động cũng chỉ trong khoảng thời gian như thế. Nhưng đào tạo
nên một người hoạt động văn hóa hay văn học nghệ thuật cần một thời gian
dài và trừ một vài ngành đặc thù, còn thì họ đều hoạt động gần suốt cuộc
đời. Nếu ngành thể thao còn chăm lo đào tạo, bồi dưỡng những con người
cụ thể, làm những việc chuyên môn cụ thể, thì trong văn hóa, Nhà nước
tham gia thì ít, mà tập trung nhiều hơn cho khâu quản lý, với ý nghĩa,
nếu thiếu họ, thì mọi người sẽ đi sai đường! Cái khác nhau rõ nhất của
thể thao và văn hóa là: Thể thao luôn luyện tập những điều Giống mọi
người trong cùng bộ môn, chỉ cần vào một giây phút nào đó anh nhanh hơn,
cao hơn, xa hơn hay vượt người khác một khoảng cách nào đó, một kỷ lục
nào đã có người lập trước đó. Kỷ lục và chiến thắng chỉ có một lần và là
trong khoảnh khắc. Còn sáng tạo văn hóa, văn học nghệ thuật là phải luôn
làm ra những thứ trước đó chưa hề có, không được lặp lại của người khác.
Không phải vô cớ hay tự do chủ nghĩa, khi ngay trong những năm chiến
tranh, nhà văn Vũ Cao, Chủ nhiệm Tạp chí Văn Nghệ Quân đội, nơi tập
trung những nhà văn sắc sảo của cả nước, nói một câu xanh rờn: Lãnh đạo
văn nghệ, có nghĩa là không lãnh đạo gì cả. Đơn giản vì ông biết, mỗi
nhà văn, tự họ đã là một nhà lãnh đạo của chính mình, Và nhờ thế, họ có
được khoảng trời tự do nào đó để viết nên những tác phẩm gây xúc động
một thời. Những người quản lý văn hóa ngày nay có vẻ thông minh hơn, nên
họ luôn muốn là người cầm tay chỉ đường cho văn nghệ sĩ sáng tạo. Cái gì
khác, lạ, mới là họ sẵn sàng thổi còi và nêu ngay được giá phạt bằng
tiền!
Mấy suy nghĩ sơ sài về những điểm khác nhau của văn hóa- thể thao- du
lịch rất mong được trao đổi, để trong những năm tới, văn hóa VN có thêm
sức tự vệ, thêm những tác phẩm và sản phẩm có thể là niềm tự hào của
thời chúng ta đang sống, chứ không phải sống dựa vào vốn liếng của quá
khứ, quyết không làm những kẻ ăn mày dĩ vãng.Giai điệu tự hào, không chỉ
là chương trình chỉ hát lại những bài ra đời trong chiến tranh và cách
mạng, bới chưa tìm ra được những giai điệu mới của những năm đất nước
đang đổi mới từng ngày hơn một nửa thế kỷ xây dựng trong hòa bình, thống
nhất,
16-7-2021
NGÔ
THẢO |