Kỷ niệm 100 sinh Nhà văn NGUYÊN HỒNG
NGƯỜI HIỆP SĨ CỦA DÂN
CHÚNG CẦN LAO Ngô Thảo Gs Đào Văn Tiến, chuyên gia hàng đầu của ngành Sinh học Việt Nam, bạn thời tiểu học của nhà văn Nguyên Hồng, người cùng quê Nam Định, trong Hồi ký của mình, có kể nhiều kỷ niệm về người bạn nhanh nhẹn, tháo vát, tốt bụng, luôn là chỗ dựa cho ông trong nhiều tình huống. Một hôm vào lớp, đột nhiên bị thầy giáo gọi lên, bắt nằm, dùng thước quất vào mông, vì hôm trước đi chơi về muộn, Bà phải lên mách Thầy. Đánh xong Thầy hỏi: Anh dự định sau này làm gì mà không chăm học, chỉ ham chơi?. Cậu học trò 12 tuổi trả lời: Thưa thầy, con dự định làm nghề viết văn ạ. Ngữ anh chỉ viết văn là giỏi, lời nhận xét đó của thầy đã thành sự thật, khi 17 tuổi, cái bút danh Nguyên Hồng đã xuất hiện trên Tiểu thuyết Thứ bảy với truyện ngắn Linh hồn. Và suốt 46 năm cầm bút liên tục tiếp theo, nhà văn xuất thân trong một gia đình nghèo khổ, ít học đó đã có số trang viết nhiều hàng đầu trong các nhà văn Việt Nam hiện đại. Ông từng viết: ”Cần thiết đối với tôi là tôi phải viết, viết ra thành chữ tất cả những gì chứa đựng, nung nấu, quằn quại, đau xót, và bay bổng và bát ngát của tâm hồn, của suy nghĩ… Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về những con người lầm than bị đày đọa, bị lăng nhục”. Cả đời Ông đã trung thành với lời nguyền ấy. thời Ông còn sống (đến 1982), in một cuốn sách không phải là điều dễ dàng.Mà riêng Ông đã có 30 cuốn sách được in. Với số lượng tác phẩm và trang viết đồ sộ như thế, nhưng có lẽ ít có nhà văn cùng thời nào sống một đời lam lũ, nghèo thiếu như Ông. Thuở bé, khi bố mất sớm, nhà nghèo, Nguyên Hồng bỏ quê ra Hải Phòng ở với Bà, sống và chứng kiến một thế giới những con người nghèo khổ, phần nhiều vì nghèo khó về vật chất mà làm khổ nhau vì muôn vàn những điều ngỡ to tát mà thực chất là tẹp nhẹp của kiếp người cùng khổ. Ông sớm tham gia cách mạng và nếm mùi tù đày. Cách mạng rồi 9 năm kháng chiến, mang cả gia đình lên khai phá ở đồn điền Ký Nhàn, sau này gọi là Ấp Cầu Đen, đời sống khó khăn, nghèo khổ nhưng vẫn có niềm vui của hy vọng về ngày chiến thắng. Và rồi ngày đó đã đến. Cùng bao người kháng chiến, gia đình rồng rắn về Thủ đô giải phóng. Ngỡ là ngày no ấm, bình yên đã đến. Nhưng chỉ được mấy năm, rồi cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ diễn ra quyết liệt. Là một nhà văn có nguồn cội cơ bản, Ông không bị quy kết vào Nhân Văn - Giai phẩm, nhưng khi là Tổng biên tập báo Văn, Ông đã để lọt nhiều bài bị phê phán. Vốn là người sống chân thành, thẳng thắn, bộc trực và đầy tự tin ở sự trung thực và bản lĩnh của mình, khi bị vây vo phê phán từ những đồng sự quen thân, Ông đã có một quyết định dứt khoát: Đưa cả gia đình trở lại Ấp Cầu Đen – vùng đồi Yên Thế, Nhã Nam, huyện Tân Yên - Bắc Giang, làng Văn nghệ những năm chống Pháp với gia đình Ngô Tất Tố, Kim Lân…. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất, Ông vẫn định cư trong căn nhà tranh, vách đất, thấp lè tẻ. Rất nhiều năm, bàn viết của Ông là một cái mươn chân thấp tè, làm bằng nan tre, một chân bị chắp vá. Hệt như chiếc bàn xưa, năm 1935, khi theo mẹ và bố dượng dọn ra Hải Phòng, đêm đêm cầm đèn cho cô em gái lần mò vào các động điếm vùng đất cảng, bán bánh dày, bánh giò, rồi khuya về ngồi vào chiếc bàn ọp ẹp, chân phải chắp vá như thế để viết nên những trang tự truyện về đời mình: Bỉ Vỏ, Những ngày thơ ấu. Ông có thói quen ngồi bệt, hai chân duỗi qua mươn, cắm đầu mà viết. Trong nhà quá nóng thì với manh chiếu rách,mang bàn ra nấp dưới bóng râm luôn di chuyển theo bóng nắng.Khi mệt quá, cứ ngã ra chiếu mà nghỉ Chính trên cái bàn viết không giống ai này, Ông đã hoàn thành hàng vạn trang sách, trong đó có bộ tiểu thuyết đồ sộ Cửa biển, gồm 4 tập: Sóng gầm ( 1961), Cơn bão đã đến ( 1963), Thời kỳ đen tối ( 1973), Khi đứa con ra đời ( 1976), viết về phong trào công nhân ở Hải Phòng trước Cách mạng, một địa bàn mà Ông thông thuộc đến từng gốc cây, viên gạch lát hè, từng địa danh ngõ nhỏ, xóm sâu. Bộ tiểu thuyết cuối cùng còn dang dở là Núi rừng Yên Thế, viết về cuộc khởi nghĩa của Cụ Đề Thám. Dự định ba tập, mới in tập 1: Thù nhà nợ nước, đang sửa chữa tập 2,( năm 1993 được in với tên Núi rừng Yên Thế )và phác thảo đề cương cho tập 3.
Dẫu
chọn một nơi sống cách biệt như thế, nhưng ngoài thời gian viết liên
tục, Ông luôn nhiệt tình tham gia các công tác của Hội. Nhiều năm, chỉ
với chiếc xe đạp con vịt - xe của thiếu nhi, Ông vẫn đi về giữa Yên Thế
và Hà Nội. Là nhà văn có ít
năm tới trường nhất, vậy mà trong chiến tranh, nhiều lần Ông có mặt
trong Ban phụ trách các lớp bồi dưỡng các nhà văn trẻ của Hội. Công việc
Ông vẫn làm từ khi có trường Văn nghệ nhân dân thời kháng chiến chống
Pháp. Nhiều nhà văn từ chiến trường trở về vẫn nhắc nhiều kỷ niệm đẹp
với người thầy thông thái, tận tụy, nghiêm khắc trong ý thức về nghề,
tinh tế trong thẩm định văn chương, và hết lòng yêu thương học trò. Vì
thế, các trại sáng tác, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nhiều tỉnh ở đồng
bằng phía Bắc luôn tha thiết mời cho được Thầy. Vốn hay nể nang nên Ông
luôn sẳn sàng ngừng các trang viết để tới đọc, thẩm định, chỉ dẫn, gợi ý
cho những người trẻ mới bước vào nghề. Ngỡ như một nghịch lý, nhà văn
chỉ học hết tiểu học này lại thuộc trong số có nhiều học trò trong giới
văn chương nhất. Bảo đảm cho uy tín đó, không chỉ là những tác phẩm Ông
đã viết, mà bằng chính cuộc đời, sự lựa chọn cách sống và cách viết, và
tình yêu nghề viết, mong muốn được truyền đạt tình yêu ấy cho những
người viết trẻ. Trong nhiều năm trường văn trận bút của nước nhà có
nhiều biến động, không ít nhà văn tên tuổi, từng để lại nhiều trang
viết, mà giờ đọc lại, chắc tác giả cũng phải ngượng ngùng, xấu hổ. Hình
như Nguyên Hồng không nằm trong số đó. Nghèo khổ không làm Ông xao lòng,
uy vũ không làm Ông khuất phục, Ông thuộc số hiếm nhà văn sống thanh
sạch vào một thời nhiễu nhương. Một đời, với một sự nghiệp sáng tác đồ
sộ, hầu Ông không nhận bất cứ một sự ưu ái đặc biệt nào cho riêng mình
như hầu hết các nhà văn cùng trang lứa. Tôi còn nhớ, năm 1979, trong Hội
nghị Nhà văn Đảng viên chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn, sau khi Bản đề dẫn
của nhà văn Nguyên Ngọc trình bày gây nên nhiều luồng ý kiến, một đồng
chí lãnh đạo cao cấp của Đảng xuống nói chuyện, công khai phê phán một
số luận điểm của Đề dẫn, bằng những dẫn chứng thực tế từ cuộc chiến
tranh Biên giới vừa diễn ra và chuyến đi sang các nước Phương Tây về,
Nguyên Hồng có vẻ không bằng lòng. Khi Nhà thơ đi lại gần Nguyên Hồng
chào hỏi, suồng sả cầm bộ râu đen của Nguyên Hồng giật giật, nói: Giả,
râu giả, đã già gì mà để râu. (Năm đó nhà văn mới qua tuổi 60), Nguyên
Hồng nghiêm sắc mặt: Phong lan của tôi đấy ông ạ. Hình như nhà thơ quan
chức thích chơi phong lan sững lại.
Dẫu là
một nhà văn, Ông còn có thói quen lao động chân tay không ngơi nghỉ.
Ngoài những công việc nhà nông mà mấy mươi năm Ông cùng vợ con bươn chải
khai hoang để tự túc từ những ngày kháng chiến chống Pháp cho đến cuối
đời, việc chăm nom vườn tược, dựng nhà, sửa sang nhà cửa với Ông như là
giải lao cho đầu óc. Trong khu vườn tạp có mấy gốc bưởi, gốc mận, gốc
na,gốc mit, gốc nhãn…, mấy người con cứ buồn cười thấy Ông buổi sáng xếp
mấy đống củi dưới gốc mít, chiều đã thấy Ông chuyển sang gốc đào. Mà
ngày nào Ông cũng làm như một động tác tập thể dục.
Buổi
chiều 2-5-1982 ấy, sau đợt đi giúp Trại sáng tác ở Hải Phòng về, Ông
cùng cô con gái nhào đất đắp lại bức tường đất bị chuột đào. Xong việc,
Ông bảo cô con gái đi làm một việc gì đó. Khi Cô trở về, thì thấy Ông đã
nằm trong nhà ngừng thở. Nhận tin Ông mất, Văn Nghệ Quân đội cử một đoàn
lên viếng. Tôi được cùng đi với nhà
văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Thị Như Trang… Tiếp
chúng tôi, cùng nhiều đoàn khác, nhà văn Kim Lân, người bạn thân thiết,
gần gũi của gia đình mới cho biết: ngày Ông mất, trong nhà không còn một
hạt gạo, một đồng tiền nào. Khâm liệm cho Ông cũng không có lấy một bộ
áo quần cho tử tế. Chính quyền, đoàn thể đã kịp thời chi viện để có vật
chất cho tang lễ. Đêm đó, đoàn nhà văn quân đội ngủ lại để sáng mai đưa
tang sớm.Các nhà văn đàn anh và mấy học trò trực tiếp của Ông kể lại
biết bao nhiêu mẫu chuyện thật đã thành giai thoại thể hiện nhân cách và
tấm lòng thơm thảo của người vừa nằm xuống. Dẫu khi còn sống, Ông không
muốn, nhưng tang lễ vẫn có kèn trống của phường bát âm của làng, gồm
phần nhiều những người không lành lặn. Chiếc xe tang cũ kỷ, rã nát, lấm
đầy bùn đất đưa Ông ra nghĩa trang phải ghì níu lại trên con đường gập
ghềnh xuống dốc. Bảy người đàn bà khăn mỏ quạ đen, răng den hạt nhãn,
cầm cờ phướn dẫn đường. Mộ Ông được đặt trong khu nghĩa trang của hợp
tác xã trong một chân ruộng thấp. Thấy ái ngại, tôi nói với Đỗ Chu, sao
không đặt mộ Nhà văn trên triền đồi, một vị trí thoáng đẹp. Đỗ Chu vặc
lại: Vậy cái huyệt đã đào sẳn kia,ai sẽ nằm thế vào? Chủ trì lễ tang cho
Nhà văn lớn hạng nhất của đất nước là một cán bộ của Hợp tác xã Ấp Cầu
Đen. Trong các tác phẩm của mình, nhà văn của những người nghèo khổ đã
tả về nhiều cái chết, nhiều đám tang. Nhưng chưa có một đám tang nào như
đã, với Nguyên Hồng. 36 năm
đã qua, tôi như còn nghe văng vẳng lời khóc hời và kể lễ của cô con gái
là cô giáo làng: ”Cha lừa con, cha dối con. Cha xua con đi để ở nhà cha
chết một mình”. Không di chúc, không trăn trối, Nhà văn Nguyên Hồng đã
nhẹ nhàng rời khỏi trần gian mà Ông nặng lòng yêu mến.Phải mấy năm sau,
mộ Ông mới được đưa về một góc đồi gần ngôi nhà xưa của gia đình.
Kỷ niệm
100 sinh của Nhà văn, khá nhiều nhà văn tiễn Ông ngày ấy cũng đã về theo
Ông. Ôn lại chút ký ức về tang lễ của Nhà văn - Người Hiệp sĩ một đời
dùng văn chương để viết về những kiếp ngườì nghèo khổ, để bảo vệ những
người nghèo khổ bị thua thiệt, tôi nghĩ chính là dịp để chúng ta đánh
thức trong đội ngũ người cầm bút hôm nay, ý thức về vai trò Nhà văn và
trách nhiệm của ngòi bút. Một trong những lời đó là: ”Nguyên nhân của
nạn hửu sinh vô dưỡng trong sự sáng tạo của những tác phẩm, căn nguyên
là tiên thiên bất túc, là vốn sống nghèo cỗi, nhưng cũng còn cả vì viết
quá dễ dàng và lười biếng.”
23-10-2018
NGÔ THẢO
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 9-11-18 |