Vui Buồn Một Đời Văn
Ngô Thảo
Xuất phát điểm từ một nhà báo cơ sở ở địa
phương đã in đậm dấu ấn
trong văn nghiệp của Nguyễn Khải: Mọi trang viết từ báo đến văn đều bắt
đầu từ những sự kiện có
thật trong cuộc sống. Sau này, khi đã về tờ nội san
Sinh hoạt văn hóa , rồi ra
công khai là Tạp chí
Văn nghệ quân đội, thì thực chất suốt đời vẫn là một nhà báo.
Không phải vô cớ hay vì điệu đàng mà Ông muốn được gọi mình là Người
lính làm công tác văn nghệ. Và đó cũng là lý do, mà Ông thuộc số không
nhiều nhà văn viết nhiều, viết hầu hết các thể loại văn chương- báo chí
( trừ Thơ ) liên tục trong hơn 60 năm cầm bút.Bám sát các sự kiện đời
sống một đất nước trong tiến trình cách mạng và kháng chiến, trong vị
trí một người lính ở cơ quan Tuyên huấn thuộc Tổng cục Chính trị Quân
đội,hầu hết công việc luôn được phân công, từ đi đâu, viết gì, thậm chí
viết như thế nào. Trong kháng chiến chống Pháp, ở báo
Dân quân Hưng Yên của tỉnh
đội , phạm vi công tác hạn hẹp. Những chuyến đi tập huấn thì xa nhất là
tới Thanh Hóa. Tới khi về VNQĐ, thì bài vở do Tòa soạn phân công, từ tin
tức, bút ký , phóng sự, các bài phê bình, giới thiệu sách. Đặc biệt là
những bài tham gia cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học nghệ thuật thời
kỳ chống Nhân văn- Giai phẩm.
Từng đi tham gia sửa sai Cải cách ruộng đất, các phong trào hợp tác hóa
ở Vĩnh Phúc, Hải Dương, lên nông trường Điện Biên, về vùng Công giáo Nam
Định và nhiều đơn vị, địa phương khác, trong những năm xây dựng ở miền
Bắc sau Hòa bình 1954. Những tác phẩm ngày càng đặc sắc về nhiều địa
bàn, nhiều hiện thực đang xảy ra trong quá trình chuyển động của xã hội
những năm này làm nên tên tuổi một nhà văn Nguyễn Khải đứng ở hàng đầu
trong thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Nét đặc
biệt, là tác phẩm Nguyễn Khải luôn nằm trên chông gai của dư luận, và
luôn có sức hấp dẫn người đọc. Mấy mười năm sau, nhà văn sẽ gọi đây là
Cái thời lãng mạn ,
với nhiều niềm tự hào xen lẫn những hối hận, nuối tiếc, thậm chí có chút
xẩu hổ vì đã có lúc ngây thơ, nông nổi, bất cận nhân tình trong những
trang đã viết.Năm 1995, trong một dịp trả lời bạn đọc báo
Tuổi trẻ, nhà văn thẳng thắn
thừa nhận:
Lắm ngày ngồi đọc lại hay nghĩ
lại về những tác phẩm mình đã viết trong mấy chục năm qua, nhiều trang
viết vẫn còn làm tôi hãnh diện, và có nhiều trang viết đã làm tôi xấu hổ
và rất buồn. Những trang viết chủ quan, kiêu ngạo, chỉ khẳng định có một
niềm tin, một lẽ sống, rồi dạy dỗ, rồi lên án, rồi chế giễu tất cả những
gì khác biệt với mình, đọc lại thật đáng sợ. Thế giới như nhỏ lại, nhạt
đi,căng thẳng. Còn những trang viết đẹp cho đến nay đọc lại còn khiến
tôi xúc động, luôn luôn chan
chứa lòng thương yêu, sự đồng cảm, nó mở ra và tiếp nhận, sự sống hiện
lên rực rỡ, tươi tắn,chói lòa nhiều màu sắc. (Chuyện nghề - 1999).
Khi cuộc chiến tranh lan ra cả
nước, các nhà văn quân đội lần lượt được phân công đi các địa bàn, các
vùng chiến sự ác liệt. Kết quả những chuyến đi ấy là những tác phẩm nóng
hổi tình thời sự, đầy năng lượng chiến đấu tiếp sức cho không chỉ ngưởi
mặt trận mà cả người hậu phương : Ra Cồn Cỏ những ngày nóng bỏng bom
đạn, có ký Họ sống và chiến đấu,
theo bộ đội làm đường Trường
Sơn, có tiểu thuyết
Đường trong mây, trở lại
tuyến lửa Vĩnh Linh có Ra Đảo,
tham gia Chiến dịch Đường 9- Nam Lào có ngay tiểu thuyết
Chiến sĩ, trở lại với đề tài
nông thôn với thay đổi về quản lý kinh tế, có
Chủ tịch huyện. Đầu 1975 lịch
sử, cả một đội hình đông đảo nhà văn được phân bám theo các đơn vị chủ
lực lớn chuẩn bị cho một trận đánh lớn, Nguyễn Khải đi theo một Quân
Đoàn, để khi cuộc chiến vừa kết thúc, có ngay
Tháng ba ở Tây Nguyên,
tác phẩm cuối cùng viết trong những năm cả nước có chiến tranh. Về nghệ
thuật, mỗi tác phẩm đều bộc lộ
những mạnh yếu thường thấy ở lối viết của tác giả, nhưng có thể thấy,
các tác phẩm được viết với tâm thế tự
tin, với niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất người chiến sĩ , và niềm tin
tất thắng. Thao tác để các nhà văn làm nên những sáng tác kịp thời trong
chiến tranh là một đặc điểm có tính chất lịch sử, được hình thành
trong quá trình điều hành và sử dụng văn nghệ cũng như văn nghệ sĩ như
một trong nhiều binh chủng
của quân đội. Ngoài các văn nghệ sĩ đi chiến trường miền Nam, số
còn lại ở Tạp chí VNQĐ, vào thời điểm chiến tranh phá hoại diễn ra ác
liệt, các chiến dịch lớn mở ra ở vùng giáp ranh Nam Bắc, liên tục được
phân công đi các địa bàn. Đã có những cân nhắc và phân vân nên sử dụng
các nhà văn đã có những tác phẩm được gọi là thành công như thế nào, vì
hòn tên mũi đạn vốn không có mắt. Mà tài năng là số không nhiều. Bản
thân các nhà văn qua kháng chiến chống Pháp, đến thời điểm này, hầu hết
đều đã có gia đình, với gánh nặng cơm áo, vợ con cần phải lo, chứ không
còn son rối, tự do như thuở nào.Cục trưởng Tuyên huấn, Tướng Hoàng Minh
Thi – vốn có phụ danh Hoàng Minh… Lửa - đã quyết liệt: Ai càng giỏi,
càng phải tới nơi ác liệt nhất. Sự có mặt của các văn nghệ sĩ ở những
nơi đó vừa cần thiết cho tinh
thần chiến đấu của chiến sĩ, vừa cần cho chính họ. Cùng các nhà văn đi
các chiến trường, Nguyễn Khải đã ra Cồn Cỏ, và các chiến trường khác
trong tinh thần đó. Và các Nhà văn quân đội, bằng các tác phẩm của mình,
đã vẽ nên chân dung một đội ngũ nhà văn mặc áo lính, mà nhân cách và tài
năng được xã hội công nhận.
Sau 1975, Nguyễn Khải
thuộc trong số nhà văn có tác phẩm sớm nhất về những diễn biến mới của
lịch sử đất nước. Trong hơn 30 năm tiếp theo, vẫn với văn phong rất
Nguyễn Khải, nhưng chuyện đời, cách nhìn đời, nhìn người của nhà văn đã
có nhiều thay đổi. Lịch sử đã sang trang: Một cuộc kháng chiến trường kỳ
đã kết thúc như mơ ước. Nguyện vọng bao đời về một giang sơn Độc lập-
Thống nhất đã thành hiện thực. Nhà văn từng tự hào kể:
Đầu năm 1975 tôi vào Sài Gòn vừa
được giải phóng sau có mấy ngày. Ngay trong tuần đầu, nhờ một may mắn
rất tình cờ tôi đã tìm được nơi ở của bố mẹ già. Lúc từ biệt bố mẹ, tôi
chỉ là thằng trẻ con mới 15 tuổi, nay gặp lại , đã là một trung niên vừa
bằng tuổi ông già ngày tôi ra đi…. Là một nhà văn được sống, được chứng
kiến cái khoảnh khắc sáng chói nhất của lịch sử dân tộc trong gần hai
thế kỷ quả là một ân huệ vô song. Huống chi, trong cái chuyển đổi mênh
mông của lịch sử lại có đại gia đình mình trong đó, như cái lăng kính
hội tụ những yếu tố khó nắm bắt thành những tình huống, những con người,
những câu chuyện có tầm vóc nhỏ hơn nhưng cô đọng hơn;cái có thể hiểu
bằng lý trí, bằng phân tích thành những mối quan hệ gia đình, quan hệ
tình cảm,khiến mình dễ hòa tan trong những xúc động mới lạ, đột ngột. Và
chỉ những vui buồn riêng, cái tâm sự riêng với bao nhiêu nỗi niềm chất
chứa, dồn nén từ nhiều chục năm mới có cơ hội hóa thân thành Nghệ Thuật.
(Chuyện nghề ). Từ đó, bạn đọc được đọc hàng loạt những truyện, kịch
của tác giả viết:
Cách mạng, Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm,
Thời gian của người, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí….
Với bản tính
tỉnh táo, nhà văn tự nhận: Còn
bây giờ, cuộc sống đã mở ra thêm những chân trời mới, có những quan niệm
mới nên cái sự hiểu việc, hiểu người của tôi cũng khác trước. Nghĩ khác,
tất sẽ viết khác. Nhưng cái khác của tôi cũng chỉ được đến thế, không
gây sự ngạc nhiên nhiều,, không gây được sự hứng thú cho bạn đọc nhiều…
Làm sao được! Nói gì thì nói tôi vẫn thuộc lớp người đã qua rồi. Thời
nào có anh hùng của thời ấy, mình đâu có thể lấn sân được. (Chuyện nghề
). Nhưng trên văn đàn, những năm cuối thế kỷ XX, tác phẩm của Nguyễn
Khải vẫn nằm ở vùng trung tâm của dư luận.
Khi đã định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh, một mảng ký ức, mảng đời
sống, những con người thân gần, ruột thịt của Hà Nội xưa bỗng hiện về,
chiếm lại chỗ đứng của họ trong nhiều trang viết với một tâm thế pha
chút xót xa, ân hận của chính tác giả khi ngộ ra:
Nghĩ mà tiếc cho những năm tháng
đã qua, chỉ hiểu đời có một nửa,chỉ biết người có một nửa, cái nửa ai
cũng nhìn thấy, còn lại, bỏ hẳn cái nửa chỉ nhà văn mới nhìn thấy…. Sức
mạnh tinh thần của dân tộc Việt Nam vừa được giải phóng đã lập nên những
kỳ tích của thế kỷ. Nhưng sức mạnh tinh thần của cá nhân, của gia đình
và dòng họ mới có khả năng lưu giử lâu dài những tính cách đẹp đẽ của
dân tộc cho nhiều đời con cháu. Chính là tôi đang đi tìm những mẫu người
lúc tuổi già, lúc cô đơn, lúc túng thiếu và bị bạc đâĩ vẫn giử trọn niềm
tin và cốt cách sống buổi đầu. Chỉ có vinh quang và danh dự của các gia
đình và dòng họ mới có thể diệt trừ tận gốc những tính xấu của một thời
nhiễu nhương, một thời nô lệ.
(Chuyện nghề ). Cũng như với nhiều lập luận khác, tổng kết
khác của nhà văn, người đọc có thể tranh luận, thảo luận và tìm ra những
sơ hở, nhưng sau tất cả. bạn đọc nhận ra tâm huyêt và tinh thần luôn tìm
tòi, suy nghĩ, đổi mới bền bỉ và kiên trì cho đến cuối đời của một nhà
văn.
Nguyễn
Khải luôn ý thức, những tác phẩm kịp thời của mình, rồi sẽ bị thời gian
bỏ
qua, còn lại, may ra có một vài tác
phẩm, trong đó có tiểu thuyết
Một cõi nhân gian bé tí
hoàn thành tháng 9-1988, được Nxb Văn Nghệ
TP Hồ Chí Minh in 1989. Cũng cần lưu ý, đây là thời gian nhà văn
Nguyễn Minh Châu chống chọi với bệnh ung thư máu, và không qua khỏi. Năm
đó cả hai chưa tới tuổi 60. Những phút tỉnh táo trên giường bệnh, Nguyễn
Minh Châu vẫn quan tâm đến tâm thế phân vân của Nguyễn Khải. Nhà văn
Thái Bá Lợi kể: Buổi sáng hôm đó, ông kể cho tôi nghe chặng đường thăng
trầm của người bạn thân ông, nhà văn Nguyễn Khải được người ta hứa hẹn
cho chút ít quyền lực mà không biết cách nắm lấy quyền lực về mình, cứ
loay hoay để vừa có quyền lực vừa được lòng mọi người: “ Tôi biết thằng
này nó lười lắm, mà từ trong Nam ra phaỉ tự nấu lấy ăn, một ngày tiếp
không biết bao nhiêu người đến bàn mưu tính kế, phải sống một mình, giữa
những ngày giá lạnh Hà Nội, đi đâu chỉ một chiếc xe đạp lênh khênh. Tôi
thương quá mang cho cái chăn bông và nói với nó: Thế làm lãnh đạo cũng
tốn nhiều công phu nhỉ? “ . Và ông cười,
cái cười sảng khoái tưởng như có thể làm mờ đi những vết xuất huyết trên
da mặt ông.
Đó là thời gian Nguyễn Khải làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn. Nhưng một
thời gian, va chạm với những rối rắm nội bộ, nhà văn lại đi lấy tài liệu
rồi về Nam ngồi viết. Một cõi
nhân gian bé tí chỉ như một truyện vừa, nhưng là chuyện về cuộc đời
của nhiều nhân vật rất đặc biệt. Một cán bộ Viện kiểm sát áp giải
một một nhân vật lịch sử đặc biệt bị đưa về quê, một làng ở Vĩnh Phúc
chịu quản chế những năm cuối đời. Ông xa quê đã 50 năm, ngày về đã gần
90. Hai người lại là đồng hương: ”Ông là một người làng khác thường, một
người làng nổi tiếng, nói gì thì nói cũng là một nhân vật của lịch sử,
đứng cạnh, đứng sau, đứng trong bóng tối, nhưng là một chỗ đứng của lịch
sử….Vóc dáng của ông cũng khác thường, khuôn mặt rộng, râu tóc bạc
trắng,, vai rộng, lưng thẳng, bàn tay vắtlên lưng ghế xe phải to gấp
rưỡi bàn tay của một ông già bình thường, ngón dài và khỏe. Như người
của thời thái cổ, người của hang động, của rừng rú”. Ông già họ Vũ vồn
là một yếu nhân của Quốc dân Đảng đồng thời
với Nguyễn Thái Học, Xứ
Nhu. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại ông sang tá túc bên Tàu. Ngày Cách mạng
tháng 8-1945, được Cụ Hồ mời về tham gia Chính phủ Lâm thời, từng được
Cụ Hồ trao việc ký Tạm ước với Pháp. Nhưng trong những khúc quanh của
Lịch sử, ông đã chạy đi nhiều nơi. Thời Ngô Đình Diệm, từng được vời ra
tranh cử Tổng thống, nhưng thất bại, bị Diệm bỏ tù.. Sau 1975, lại phải
đi cải tạo vì những chức danh hờ trong quá khứ. Cuối đời được đưa về quê
quản chế, vì nơi đó ông còn một người con gái. Bồ đoàn thê tử
con gái một đời không biết ông là ai, nhưng họ khốn khổ vì là hậu
duệ của một nhân vật nổi tiếng phản động. Ông lạc lỏng và hối hận vì còn
sống đến tuổi nầy: “Ở quê, tôi cô độc quá, chả ai hiểu tôi, mà tôi cũng
không thật hiểu một ai. Con cháu tôi cũng khó hiểu. Chúng thương tôi hay
ghét tôi. Chắc là chúng oán lắm, chúng ghét lắm.” Người con gái dù tuổi
cao, bệnh tật vẫn một lòng tận tụy săn sóc cha. Người con trai của bà
lại ngày đêm chăm sóc mẹ . Đạo hiếu cổ vẫn được họ giử gìn. Nhưng không
chỉ cái tuổi già thất bại buồn. Chinh là cán bộ Viện kiểm sát, vì áp
giải ông già mà có dịp về thăm bà cô nuôi mình từ bé, sau thời gian vào
Nam với các cháu, giờ nhất quyết về quê, dẫu ở một mình. Sắp đến tuổi về
hưu, một đời chỉ tiếp xúc với tội phạm, và cái ác có muôn mặt, Chính
cũng thấy mình sắp bị bật ra khỏi cuộc sống gia đình, vì mấy đồng lương
không đủ tiêu vặt, nói gì giúp đỡ vợ con.´” Nhiều lúc Chính đã tự hỏi
tại sao anh lại chọn một cái nghề quỷ quái, dành cả một đời cúi mặt
xuống từng chồng hồ sơ ghi chép không biết bao nhiêu tội ác của thế giới
nhân gian. Những tội ác mỗi năm thêm quái đản, thêm rùng rợn vì tính thú
vật của nó. Chính đã quen thuộc với thế giới tội ác trong nhiều năm
nhưng anh vẫn không thể dửng dưng như người bác sỉ ở trong nghề lâu năm
với các con bệnh. Với anh, tội ác luôn luôn mới mẻ với những bàng hoàng,
những hãi sợ như cái thuở anh mới bước vào nghề. Cũng là một cách tự vệ
rất hồn nhiên của riêng anh.
Trong thực tế, tội ác gần gũi và quen thuộc hơn ta nghĩ về nó nhiều. Con
người đã từng có ý nghĩ đó, đã từng có hành động đó, trong những trường
hợp có thể xảy ra. Đã có rất nhiều người lương thiện phạm tội trong
những hoàn cảnh chẳng có gì là kỳ quái. Tốt nhất là không nên biết tới
tội ác, cũng không nên bình luận và thuật kể về tội ác. Nó có khả năng
thâm nhiễm và tiềm phục tận trong đáy sâu của tiềm thức. Khi có cơ hội,
một cơ hội rất khó ngờ…” ( Tr 92- Tôi gạch dưới ). Trước thực trạng
nghệ thuật, đặc biệt trên kênh đại chúng nhất là truyền hình, cả Trung
ương và địa phương tràn ngập phim về âm mưu và bạo lực như hiện nay, đây
là một ý kiến rất đáng để những người quản lý và sản xuất phim ảnh suy
nghĩ.
Chính có người bạn khá đặc biệt là
Tiến, khi anh về Hà Nội ghé Bệnh viện thăm, vì vừa bị thương khá nặng
lúc theo đơn vị lính tình nguyện truy kích bọn Khơ me đỏ. Đã ngoài 50
tuổi, không gia đình, chỉ quen ở nơi mũi tên hòn đạn. Nằm viện mà không
được mấy người tới thăm, người thân ruột thịt không có, đồng đội thì xa.
“Là người của quốc gia, quốc tế, không có gì phải quan tâm riêng, chỉ có
cái chung thôi,… Hình như Tiến rất vui, luôn luôn vui những niềm vui
người bình thường không thể thông cảm nổi.” Đó là nhân vật có nguyên mẫu
là nhà văn Nguyễn Chí Trung, người lãnh đạo trực tiếp, mà Thu Bồn gọi là
người Chạy trốn ra phía trước. “Nhưng lần này thì buồn, cái nhìn buồn,nụ
cười buồn,gương mặt cứ gượng gạo thế nào ấy, như che dấu cái gì ấy: “Mọi
sự bắt đầu đối với mình đều muộn. Chỉ có một nghề đi chiến trường thôi.
Nay mai không còn chiến trường thì đi đâu nhỉ?”
(tr 102-103). Viết vào năm 1988, Nguyễn Khải đã không hình dung
được sức sống phi thường của Nguyên mẫu Nguyễn Chí Trung. Sau đận bị
thương, khi sức khỏe được khôi phục, nhà văn Nguyễn Chí Trung còn có dịp
trở lại Chiến trường Căm pu chia, là một trong ba nhà văn ở VNQĐ được
phong cấp tướng, có tiểu thuyết
Tiếng khóc của nàng Út được Giải thưởng Hội Nhà văn VN năm 2006, và
Giải thưởng văn học Đông nam Á, có thời gian làm Trợ lý Tổng bí thư,
cùng TBT đi thăm nhiều nước, trực
tiếp xông vào điểm nóng ở nông thôn Thái Bình, hòa nhập để nghe người
dân nói thật về nguyên nhân của mọi lộn xộn: Cán bộ, Đảng viên quá hư
hỏng để Tổng bí thư có quyết định đúng, làm yên lòng
Dân. Ông mất sau nhà văn
Nguyễn Khải hơn chục năm
(2016 ).
Lối viết dựa nhiều vào nguyên mẫu này
làm nên hầu hết sáng tác của Nguyễn Khải, một thời gọi là “Già ký- non
truyện” từng mang lại cho nhà văn nhiều hệ lụy ngoài ý muốn. Nguyễn Chí
Trung đương thời cũng đã có phản ứng, nhưng cùng là nhà văn, cùng một cơ
quan, hiểu nhau qua nhiều chặng đường, nên cách phản ứng hay nhất là
bằng thực tế công việc và
sáng tác, chứng minh cho Nguyễn Khải thấy đã nhìn sai về một mẫu người
như Nguyễn Chí Trung. Là một người cầu thị, sau
Xung đột, viết về Công giáo
với nhiều định kiến, sau 1975, tác giả trở lại đề tài này trong
Cha và con và, Thời gian của
người để cập nhật những nhận thức mới về tôn giáo. Nhưng những bậc
chức sắc thuở Xung đột vẫn có
mối hận khi bị xúc phạm. Trong
Cái thời lãng mạn, tác giả đã kể lại phản ứng của nguyên mẫu Tuy
Kiền. Ông Lê Huy Ngọ, một thời là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, người yêu văn nghệ và rất chịu khó đọc sách văn nghệ, có kể
khá nhiều kỷ niệm với nhà van Nguyễn Khải. Thuở ông còn làm cán bộ
Thủy lợi ở Vĩnh Phúc, đã mời được nhà văn về thâm nhập thực tế, để có
Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa.
Hai mươi năm sau, khi làm Bí thư Tỉnh sau thời ông Nguyễn Kim Ngọc,
ông mời nhà văn trở lại để có Cái
thời lãng mạn. Mấy năm sau, khi được điều về Thanh Hóa làm Bí thư
Tỉnh ủy, ông lại muốn mời Nhà văn về thực tế, để
bằng kinh nghiệm viết về nông thôn của mình giúp ông phân tích
tình hình những nguyên cớ nào làm nên sự không ổn định của tỉnh nhà lúc
bấy giờ. Bút ký Hào kiệt tỉnh
Thanh khi đăng báo lại gây nên những sóng gió cho nhà văn, vì nhiều
nguyên mẫu thấy bị điểm huyệt, tuy đã thay tên đổi họ so với đời thực.
Tháng 5 -1997, báo Văn nghệ đăng truyện ngắn
Sức vượt
viết về một anh hùng biệt động Sài Gòn vê cuối đời lo tập họp tư
liệu những năm hoạt động chiến đấu xuất quỷ nhập thần, lập nên bao chiến
công lừng lẫy của đơn vị Biệt động do ông chỉ huy trong cuốn Hồi ký của
mình. Trong đó có mẫu chuyện, buổi đầu đời, từ 1946, trong một lần ném
lựu đạn, bị truy đuổi, chàng trai trẻ, chạy vào trong ngõ hẽm, né vào
một ngôi nhà nhỏ, ông già sau phút bất ngờ, nhận ra là anh chiến sĩ đang
tìm nơi ẩn nấp , liền kéo vào gian phòng nhỏ, kéo màn , đẩy anh ta vào.
Bên cạnh là cô con gái đang ngủ. Khi bọn truy đuổi vào xét nhà, “Cô gái
nhoài người, kéo Năm nằm xuống, xoay mặt anh về phía cô rồi kéo chăn phủ
trùm cả hai người”. Khi bị tra hỏi, ông nói chỉ có đôi vợ chồng
con trai đang ngủ. Nhờ mưu trí ông già mà lần đó anh chiến sĩ quân báo
non nớt 18 tuổi thoát hiểm. Dù vãn tiếp tục hoạt đông ở thành phố, nhưng
mãi đến năm 1976, ông mới có dịp về ngõ nhỏ thăm lại người xưa.
Nhân vật cũng đã đổi tên. Nhưng
bao nhiêu chiến công và
tính cách là của Ông Tư Chu, người chỉ huy biệt động Sai Gòn. Sẽ chẳng
có chuyện gì đặc biệt xảy ra, nếu trong truyện ngắn này, Nguyễn Khải,
theo lối viết quen thuộc của mình, ghép nối nhiều mảnh đời thực vào một
nhân vật hư cấu, ấy là khi đọc tập bản thảo, các con thì có vẻ thờ ơ,
nhưng bà vợ đặc biệt chú ý đến chi tiết này. Và phản ứng ghen tuông của
bà khá nghiêm trọng. Từ tình quân dân, bà nhìn thấy, đó là mối tình đầu
của ông. Từ lòng biết ơn với người xưa, bà nhìn thấy, một đời ông chỉ
yêu có người con gái ấy, bà chỉ là người đẻ một đàn con cho ông. Truyên
có đề từ bằng ngạn ngữ : Bảy mươi
chưa què/ Đừngkhoe rằng tài. Và kết thúc bằng câu “Vào tuổi 70,
người anh hùng bách chiến đành ngậm ngùi tự nhận là mình đã thua.” Số
báo Văn nghệ kỷ niệm 30-4 năm 1997 vừa phát hành, chưa kịp vui, Nhà văn
đã bị phản ứng gay gắt từ phía bà vợ và các con ông Tư Chu, dù tên nhân
vật trong truyện là ông Năm. Mặc dầu không vui, nhưng ông Tư Chu hiểu
đây là truyện hư cấu. Cũng như trước đây, Nguyễn Khải đã mượn nguyên mẫu
là ông trong tiểu thuyết Sư già
chùa Thắm và ông Đại tá về hưu. Nhưng
vợ con ông đã gửi thư phản đối tời khá nhiều địa chỉ quan trọng,
với lý do: Khiếu nại về bài viết của nhà văn Nguyễn Khải.
Tự giới thiệu mình là một cán bộ quân đội về hưu, vợ ông
Nguyễn Đức Hùng tức Tư Chu, sau khi được nhà văn tặng số báo có
bài viết, bà thấy “Với nội dung thiếu xây dựng, bôi bác cuộc sống của
gia đình tôi. … Thực ra, lúc đầu, mới đọc qua tập hồi ký tôi có hơi bị
sốc vì hơn 30 năm chung sống chưa bao giờ nghe ông nói về chuyện tình
cảm riêng tư này cả. Sau đó tôi có tìm hiểu thì được biết nhân vật tên
Lan (tên thật là Thường) kia hiện còn sống ở Bình Thạnh chỉ là chỗ quen
biết sơ giao lúc ban đầu với chồng tôi. Tôi đã mời chị ấy về nhà chơi và
gia đình tôi đã gặp gỡ nói chuyện với chị ấy rất là vui vẻ. Vậy mà trong
bài viết ông Nguyễn Khải đã dựng hình ảnh một bà vợ
(là tôi) đã làm khổ ông chồng
trong lúc đau yếu… không được yên thân với bà vợ quá ghen
tuông “. Sau khi trích đoạn cuối khá dài của truyện, bà viết: “Chỉ với
đoạn văn trên, dùng để ám chỉ mối quan hệ của gia đình tôi - một gia
đình đang sống hòa thuận, ấm êm - thì thật là cay độc. Tôi thiết nghĩ
một nhà văn chân chính phải có lòng nhân ái, họ dùng ngòi viết của mình
để góp phần tạo nên cuộc sống gia đình, cuộc sống xã hội ngày càng tốt
đẹp thêm. Chớ không phải đứng bên lề xã hội mà bới móc, mà chửi rủa vô
tội vạ. Tôi đã từng tôn trọng ông nhà văn Nguyễn Khải và cũng mong rằng
ông nên tôn trọng hạnh phúc gia đình tôi - Người đàn bà khổ tâm.“
Bốn người con của ông Tư Chu cũng ký
tên dưới một bức thư gửi Bác Nguyến Khải với lời lẻ trách cứ khá nặng nề
“Cháu không biết và không hiểu được bác viết bài báo trên với mục đích
gì. Tuy nhiên cháu đã thấy một kết quả là gia đình cháu đã bị rạn nứt và
đổ vỡ từ chính bài báo của Bác.”. Ít lâu sau, Nguyễn Khải đã phải
lần lượt viết thư thanh minh với bà vợ và các con của ông Tư Chu. Hậu
quả của Sức vượt là không chỉ
nội bộ gia đình nguyên mẫu, mà tình bạn lâu năm của nhà văn với gia đình
nguyên mẫu cũng bị sứt mẻ. (Kèm theo đây là hai bức thư của nhà văn
Nguyễn Khải mà nhà giáo Nguyễn Đức Ân, đồng hương của ông Tư Chu, người
giới thiệu hai người gặp nhau, đã cung cấp). Trước đó, khi tiểu thuyết
Thời gian của người được in,
nhà văn cũng từng bực mình vì
“Ông Cục 2 bảo rằng
tôi viết làm lộ người của các ông ấy. Khốn nạn chuyện bịa từ đầu đến
cuối, mà chuyện về cái anh tình báo chỉ chiếm có ¼ cuốn sách, làm sao mà
lộ được. Khổ một nổi, chính cái anh Quân (tên nhân vật) cũng lại lấy
chuyện bịa của tôi làm chuyện thực của anh ấy mới khó nói chứ! (Thư
riêng )
Những chuyện ngoài đời đó quan trọng
hơn là đã bộc lộ một điểm yếu trong bút pháp, mà cũng là trong tài năng
sáng tác của nhà văn: Khả năng tưởng tượng. Thật ra, đây là điều mà nhà
văn luôn tự biết. luôn tự nhận trong nhiều dịp có thể. Đây là những lời
rất thật: Tôi
sống như một nhà giáo, như một cán bộ tuyên huấn, hay như bạn bè thường
nói, tôi sống như một tu sĩ. Mọi thứ ở tôi đều có chừng mực. Đó là nhược
điểm chết người của một nghệ sĩ. Người
sáng tạo phải mê say, phải cuồng nhiệt, phải triệt để trong mọi
niềm tin và mọi yêu ghét. Có vậy anh ta mới tạo nên những tác phẩm nghệ
thuật có sức truyền cảm mãnh liệt…. Nói gọn một câu, đời riêng của tôi
rất nhạt, nhạt như đời một anh cạo giấy từ cổ chí kim….. Tôi rất biết
tôi, nên không bao giờ tôi đi tìm sự nổi tiếng bằng cái nhạt của mình
(Chuyện nghề).
Nhà báo - nhà
văn mặc áo lính Nguyễn Khải, 60 năm cầm bút đã để lại một sự nghiệp văn
học đồ sộ, nhiều tác phẩm đã từng được bạn đọc rộng rãi đón nhận trong
nhiều thời điểm lịch sử khác nhau, đã đan dệt nên một bức tranh xã hội
rộng lớn, với nhiều lớp người, loại người là sản phẩm của những thời
khắc đã mãi mãi thuộc về lịch sử. Và chính những tác phẩm đó đã tạc nên
chân dung một trong những nhà văn tiêu biểu của thệ hệ nhà văn trưởng
thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, có sức viết bền và luôn theo kịp
những biến chuyển của đất nước. Năm 2005, khi đã nhận Giải thưởng Hồ Chí
Minh, trong thư chúc tết gửi tới ông Văn Phác, người Tổng biên tập đầu
tiên của Tạp chí VNQĐ sau này làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Nguyễn Khải chân
thành: “Em nhớ lại những ngày về làm lính của anh, được sống ở
Tạp chí VNQĐ, được anh và bạn bè chăm lo, chỉ bảo trong lòng lại
bồi hồi bao nhiêu nhớ tiếc. Đó là những năm sống trong sáng nhất, lý
tưởng nhất, đẹp nhất của một đời người. Em mãi mãi biết ơn anh, biết ơn
bạn bè, không có một môi trường sống thuận lợi ấy, làm sao có thể trở
thành một người viết văn được.”
20-6-2020
(Từ sách
BỐN NHÀ VĂN NHÀ SỐ BỐN)
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-2-21
|