Dấu Chân (Của) Người Lính Nguyễn Minh Châu (Cung Đường Cuối Cùng) Ngô Thảo
Đã 30 năm, người lính cầm bút xuất sắc Nguyễn Minh Châu đã dừng bước
trên đường đời, khi chưa bước qua chu giáp đầu tiên. Những bạn bè, đồng
đội cùng trang lứa, ngày nào còn quây quần trong trung tâm văn bút Văn
nghệ quân đội - có thời được gọi là Văn đội quân Nghệ - và tác phẩm của
họ luôn nằm ở vùng trung tâm của dư luận văn chương nước nhà, giờ cũng
đã lần lượt khuất bóng. Vóc dáng thân hình cũng như tác phẩm
lừng lững của những Thanh Tịnh, Văn Phác, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng,
Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Hửu Mai, Xuân Thiều, Chính
Hửu, Nhị Ca, Nguyễn Trọng Oánh, Thu Bồn, Nam Hà, Xuân Sách, Hải Hồ, Mai
Ngữ, Phạm Ngọc Cảnh, Triệu Bôn, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Hồng Duệ,
Nguyễn Chí Trung…, như kết đọng tinh hoa của 30 năm chiến tranh,đang mờ
phai dần trong bức tranh văn học mới mẽ nhiều màu, lắm sắc đương đại.
Thuộc lớp hậu sinh, tôi coi là may
mắn,khi đã có ít nhiều
những năm tháng được sống trong
cùng một mái nhà – số 4 Lý Nam Đế - vào cái tuổi sung mãn và dồi dào sức
sáng tạo nhất của hầu hết các
Anh, từ những năm cuối của chiến tranh, từng đi sơ tán mấy lần lên Hương
Ngải - Thạch Thất - Hà Tây, từng đi chiến trường Quảng Trị 1973, theo
các cánh quân từ nhiều mũi, nhiều đơn vị lại hội tụ ở Huế rồi Đà Nẳng
tháng 3-1975, và ào ạt vào Sài Gòn ngày đầu ta làm chủ Thành phố, theo
các cánh quân tình nguyện sang Căm pu chia, lên biên giới
phía Bắc trước và sau chiến tranh biên giới với Trung Quốc, đi
họp cộng tác viên của Tạp chí VNQĐ nhiều tỉnh thành sau ngày đất nước
thống nhất, ở Huế, Đà Nẳng, tới tận An Giang, Cần Thơ, Cà Mau…
Nhưng, thật đau lòng, khi chứng kiến sự
tàn phá của thời gian lên mỗi con người tài hoa, tử tế, hiền lành, chân
chất, khiêm nhường như là nơi tụ hội phẩm chất tốt đẹp nhất của những
người lính mà số phận biến họ thành những người ghi chép chiến công của
đồng đội. Chỉ riêng điều đó thôi, họ đã xứng đáng với sứ mệnh của những
Người lính - Nhà văn. Không phải những ai từng cùng đồng đội chiến thắng
trong cuộc chiến ác liệt, không cân sức, đều đã có cuộc sống
yên lành trong thời bình.Tuổi tác, sức khỏe, bệnh tật do những
hậu quả khác nhau của chiến tranh và chiến trường, khó ai có thể vượt
qua. Lại còn hạn chế của trình độ, tài năng, nhận thức, và cách ứng xử
cùng hoàn cảnh gia đình mà xuất
hiện những số phận khác nhau. Sau những ngày đầu cuộc chiến tranh trường
kỳ kết thúc thắng lợi, sau những trang viết tràn đầy hào khí chiến
thắng, trên chặng đường mới của hiện trạng một đất nước hậu chiến không
hoàn toàn như đã từng tưởng tượng, với bao nhiêu vấn đề mới xuất hiện,
những nhà văn vẫn mặc áo lính, đã bước vào một chặng đường nhận thức và
sáng tác mới.
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu thực sự
đã khởi đầu cho bước dấn thân, từ
thời kỳ sáng tác
Của chúng ta làm ca ngợi chúng ta
(Thơ Chính Hửu ), sang một vùng đề tài thoáng rộng hơn. Nguyễn Khải
vẫn lối viết lý sự lấn át miêu tả, đã có những vở kịch, tiểu thuyết,
truyện ngắn mà hình ảnh anh bộ đội không còn là nhân vật chính:
Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm,Thời gian của người, Điều tra về một cái
chết, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí, Một người Hà Nội,
Sư già chùa Thắm và Ông già về hưu, Một thời gió bụi, Hà Nội trong mắt
tôi, Chút phấn của đời, Thượng đế thì cười, Vòng tròn trống rỗng,….
Nguyễn Minh Châu vẫn là viết về người
lính nhưng khi chiến trận đã dần
đi qua: Miền cháy (1977),Lửa từ
những ngôi nhà (1977),Những người đi từ trong rừng ra (1982), Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành (1983 ), Bến quê (1985), Mãnh đất tình yêu
(1987), Cỏ lau (1989), Mùa trái cóc ở Miền Nam
Sự chuyển dịch đề tài chỉ thực sự được
diễn ra trên chặng đường cuối của hành trình văn học với tập truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa (1997)
Khách ở quê ra, và truyện vừa được hoàn thành trên giường bệnh:
Phiên chợ Giát (1988).Rời
khỏi thế giới nhân vật quen thuộc, với cách thể hiện, mà nhà nghiên cứu
văn học Nga khá am tường về văn học Việt Nam, Nicolai Nikulin nhận xét:
Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã
được khúc xạ ở chỗ Anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ
giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng, nhà văn dấn
bước vào những góc khuất của đời thường, mà những năm chiến tranh ít
được văn chương để mắt đến. Cái nhìn tinh tế, lối thể hiện trực diện
nhiều nghịch lý tồn tại trong đời thường trong một loạt truyện ngắn của
cây bút xuất sắc viết về người lính đã gây nên những luồng dư luận khác
nhau, đến mức cơ quan chỉ đạo đã mượn báo Văn nghệ tổ chức một cuộc thảo
luận về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Trong cuộc thảo luận đó, người
khen cũng có, nhưng âm hưởng chủ đạo vẫn là phê phán cách thể hiện hiện
thực thiếu tươi sáng, không lạc quan của Nguyễn Minh Châu. Là người được
sống gần tác giả những ngày tháng đó, chúng tôi được chứng kiến những
biểu hiện khác nhau, với tâm trạng không thật tự tin,khác hẳn tâm thế
khi hoàn thành các tác phẩm viết về người lính thuở trước. Thuộc
bộ phận sáng tác, dù ở một cơ quan bộ đội, các Anh không phải đến cơ
quan hàng ngày. Khi xong một tác phẩm mới, hồi đó, tất cả đều viết
bằng bút mực, phải mang lên cơ quan đánh máy. Có những truyện,
khi đưa in, chính tác giả lại phân vân, xin rút lại, hay sửa chi tiết
này nọ. Nhà thơ Xuân Sách, tác giả tập thơ
Chân dung nhà văn, từng có
câu viết về Nguyễn Minh Châu: Dấu
chân người lính in mau/ Thằng này không trước thì sau cũng …tù.
(Nhưng khi in vào tập sách, nhà thơ có chữa lại:
Cửa
sông cất tiếng chào đời/Rồi đi ra Những vùng trời khác nhau/Dấu chân
người lính in mau/Qua Miền cháy với Cỏ lau bời bời/ Đọc Lời ai điếu một
thời/ Tan Phiên chợ Giát hồn người về đâu.)
Xuân Sách từng
kể: “Năm 1967, tôi cùng Nguyễn Minh Châu vào chiến trường miền Nam.
Chúng tôi có những kỷ niệm khó quên và chắc chắn nó ghi dấu ấn
trong những trang viết về sau, không chỉ những chuyện về sáng tác, văn
chương mà là những suy nghĩ về cuộc sống.. Một bửa, tôi đang ngồi trong
lán chỉ huy tại mặt trận, thấy Nguyễn Minh Châu từ ngoài cửa rừng đi
vào, anh ra trạm đón tiếp gặp một đồng chí Đại đội trưởng công binh vừa
chiến đấu và có nhiều thành tích, được về Bộ chỉ huy báo cáo. Tôi giật
mình vì thấy Nguyễn Minh Châu
người đầy máu me, cả mặt mũi, cả quần áo, tôi vội chạy ra, anh
trao cho tôi túi tài liệu: Ông cầm giúp tôi
cái này, rồi anh nhảy ùm xuống suối. Trước đó có máy bay địch, và
một phát rốc két nổ ngoài cửa rừng, ở mặt trận, việc như vậy được coi là
bình thường. Nhưng phát đạn đã bắn vào đúng chỗ Nguyễn Minh Châu đang
ngồi làm việc với đồng chí công binh. Cả hai người lao xuống cái hầm trú
ẩn. Một lát sau, Nguyễn Minh Châu thấy có người đè lên mình. Phát đạn đã
trúng vào đầu đồng chí Đại đội trưởng công binh,và máu thịt của anh đã
bám vào người của nhà văn. Không rõ do cố ý hay vô tình, nhưng dù sao,
Nguyễn Minh Châu cũng biết rằng, nhờ đồng chí ấy mà anh còn sống. Buổi
tối hôm đó, nằm cạnh tôi, Nguyễn Minh Châu trằn trọc mãi, anh dốt thuốc
liên tục, thỉnh thoảng anh quay sang tôi: Này, ông…rồi anh lại im bặt..
Tôi biết tính anh, anh thường khó diễn đạt những gì anh đang suy nghĩ,
nhưng dường như những lúc bất ngờ anh lại buột ra những
ý kiến sắc sảo,những nhận xét vô cùng độc đáo với những
hình tượng so sánh không chê vào đâu được… Mấy hôm sau, chúng tôi
lại chứng kiến một bi kịch hiếm có trong hoàn cảnh thời bấy giờ. Một cặp
trai gái trong đơn vị yêu nhau nhưng do một trò đùa vô ý thức, đã dẫn
đến sự hiểu lầm đến nỗi hai người dùng súng tự sát. Câu chuyện này tôi
đã có dịp viết ra trong một
truyện ngắn, nhân vật nhà văn trong truyện đó là Nguyễn Minh Châu, và
tôi vẫn nhớ câu anh nói trước nấm mồ của đôi trai gái: Cả tôi, cả ông
nữa, chúng ta đều có trách nhiệm trong cái chết này. Đó là món nợ với
anh, món nợ trả bằng trang viết, bằng lòng trung thực, không hỗ thẹn với
những người đã hy sinh”.
Nên không lạ, là những
truyện sau đó càng quyết liệt, đáo để hơn. Những ngày chuẩn bị Đại hội
Nhà văn, sau 1986, như là cái mốc thời gian mở đầu thời kỳ Đổi mới,
những suy nghĩ về văn chương được tác giả thể hiện trong một số bài
viết, mà gây chú ý nhất là Lời ai
điếu cho một thời kỳ văn học minh họa. Nằm trên giường bênh ở Viện
108, Nhà văn vẫn trực tiếp viết trả lời Phỏng vấn của chị Thiếu Mai ở
báo Văn nghệ. Tác giả viết xong ngày 22-11-1988, báo đăng số ra ngày
3-12-1988, gần 2 tháng trước ngày tác giả mất.Trả lời câu hỏi về thời
điểm xuất hiện khái niệm cởi trói,
nhà văn cho rằng: Đủ hay chưa là
ở nội lực cá nhân từng nhà văn chúng ta.Từng nhà văn chúng ta mới là kẻ
quyết định… Anh mang cái vòng dây trói ấy trong mọi thói quen
và quan niệm sáng tác lâu ngày đến mức trở thành một thứ thuộc
tính…. Đến ngày nay chúng tôi đã có sau lưng đôi chút tác phẩm được làm
nên bởi mồ hôi, nước mắt và cả tâm huyết của một thời đầy nghiêm trọng
của số phận đất nước. Chưa nói chuyện những tác phẩm ấy bây giờ nhìn lại
hay dở ra sao mà hãy nói
cái lằn dây mình tự trói mình lâu ngày nó đã ăn lún sâu vào da thịt,
biến thành da thịt,có khi cởi ra còn đau đớn hơn cái lúc trói vào.
Nói về những trăn trở của nhà văn những
năm trước sau đổi mới, Nhà văn tự nhận:
Đó là những năm các nhà văn nghĩ
rất nhiều và băn khoăn day dứt rất nhiều về mối quan hệ giữa văn học và
đời sống thực đang mỗi ngày một xa nhau, cách biệt
đến mức
như một trò khôi hài…. Tôi là người viết trong bộ đội, những năm chống
Mỹ ác liệt, có lúc ở chiến trường sống bên cạnh cái chết nhưng khi ngồi
viết thì thanh thản, còn về sau này, nhất là vào những năm 1983,1984, có
đôi khi mình cầm bút mà cảm giác y như đứng giữa trận tiền, viết ra một
cái gì đưa đi in, trở về nhà ngồi nghĩ lại, lại đâm sợ cái vừa được làm
ra.
PV; (Cười ) Rồi lại vội vã chạy
đi lấy về?
NMC: Tính tôi vốn dát mà chị! Tóm
lại đó là những ngày tháng giống như một thứ máy kiểm nghiệm từng nhà
văn cả về tài năng và nhân cách: Có những cái viết về chủ nghĩa xã hội,
lúc anh viết ra được báo chí hoan nghênh nhiệt liệt, về sau ngó nhìn lại
thấy nó cứ bạc phếch như mặt vai nịnh trên sân khấu Tuồng.
PV: Cái nghề giấy mực đôi khi nó
cũng độc thật, anh Châu nhỉ?
NMC: Không phải độc, mà nó công
bằng, nó sòng phẳng
PV: Bức tranh - Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành- Hai con nhóc- Dấu vết nghề nghiệp- Chiếc thuyền
ngoài xa- Khách ở quê ra… có phải được in ra trong những năm ấy phải
không?
NMC (Cười ): Tôi đã khoác lác làm
xôm trò cho tờ tuần báo của chị một thời gian khá lâu, kể cả cái trò rất
xôm: Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau đó.
PV: Anh nghí gì về công việc của
các nhà văn?
NMC:Tôi nghĩ rằng thời nào và ở
đâu cũng vậy, các nhà văn chỉ có
một công việc chính và duy nhất là viết cho hay, ngoài ra bằng uy tín
của mình anh phải tham gia tiếng nói vào những vấn đề của con
người:trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng,
thây kệ khi con người bị đầy đọa và chà đạp, và công việc đó nó phải là
phản ứng tự nhiên của các nhà văn. Nhưng với các nhà văn nước ta, có lẽ
hình như vì mang tư tưởng tự ty do tiếng nói bé bỏng, đôi khi chúng ta y
như những kẻ bàng quan trước những vấn đề cấp bách của con người.…. Là
những nhà văn hiền lành, vô sự,chỉ biết ca ngợi, cả đời chúng ta không
làm hại ai, không làm điều ác với ai. Nhưng cái lỗi lớn nhất của mỗi
người chúng ta là đã khiếp hãi trước cái xấu và cái ác, nhất lá khi cái
xấu và cái ác đã nắm quyền lực. Và lâu dần, dường như không làm gì được
thì chúng ta coi như không có nó, cuộc đời không có cái xấu và cái ác
đang hoành hành, đang chi phối số phận con người, coi như cuộc đời không
có oan khiên, oan khuất…
Và ao ước cuối cùng của nhà văn là:
Làm sao biến Hội ta thành Hôi của
những Tài năng và Nhân cách văn học chứ không phải Hội của những Viên
chức văn học.
Tôi nhớ, cuối năm 1974, khi còn chiến
tranh, nhà văn từng nói:
Con người bây giờ sống trơ tráo:
Xấu một cách trơ tráo, không che dấu, không úp mở, Đó là một điều đáng
sợ. Cuộc sống hiện nay đưa con người ra thử thách một cách toàn diện,
tận cùng. Bởi nó thử thách chỗ yếu nhất của mỗi người. Chẳng hạn như
tôi, vốn lớ ngớ, thì lại thành anh không nhà, phải tự đi tìm nhà cho một
vợ ba đứa con gái. Ông Nguyễn Khải thông minh, khôn ngoan, thử thách
ngay ở chỗ viết lách, không tránh khỏi sai, để người ta nắn gân cho. (Ý
nói một loạt bài trên báo Nhân Dân của Nguyễn Khải ).
Những suy nghĩ, trăn trở về khoảng cách
của văn chương với hiện thực cuộc sống là câu chuyện diễn ra thường
xuyên giữa các nhà văn vẫn mặc áo lính, khi đất nước đã vào thời bình.
Nhưng mỗi người đã có những lựa
chọn khác nhau. Trong chiến tranh, Nhà văn đứng ở một Binh chủng, trong
một mặt trận nhất định, tác phẩm phải góp phần cổ vũ sĩ khí chiến đấu
của Đồng đội. Nay, đất nước Hòa bình, giang sơn thu về một mối, Nhà văn
phải nói tiếng nói của cả dân tộc đang khát vọng vươn lên một cuộc sống
Tự do và Hạnh phúc. Nguyễn Minh Châu như đã bứt lên hàng đầu, bằng
hàng loạt tác phẩm được dư luận chú ý và hy vọng.
Nhưng như một trớ trêu của Định mệnh.
Sức khỏe nhà văn có vấn đề, chỉ
nghĩ là do làm việc quá sức. Như nhiều bệnh nhân mắc căn bệnh này, sau
một thời gian theo dõi, khi xác định được thì đã quá muộn: Ung thư máu.
Tháng 3-1988, khi mà Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 đã bất lực, thì rộ lên tin tức, một Nhà sư ở Chùa Pháp
Hoa trong Vũng Tàu có khả năng chữa trị bách bệnh, trong đó có bệnh
Nguyễn Minh Châu đang mắc phải. Có bệnh thì vái tứ phương, nhân Nhà Sư
ra Bắc dự một sự kiện nào đó, biết tin, đã tới tận nhà áp tải Nhà văn.
Anh bạn cùng học Nguyễn Trung Thu, tác giả bài thơ
Đêm Trường Sơn nhớ Bác được
Trần Chung phổ nhạc, là chuyên viên ở Ban Tuyên Giáo TƯ, nhà ở cạnh,
trong Khu Tập thể số 3 Phố Ích Khiêm, thông báo, nên tôi tới kịp trong
buổi tiễn nhà văn hành phương Nam. Khi rơi vào tình trạng này, thì bất
cứ niềm hy vọng nào cũng phải gắng nắm bắt. Ngày đó đi lại còn khó khăn,
càng khó hơn với một người mang trọng bệnh. Tháng sau, có dịp vào Nam,
tôi đã cùng mấy người bạn tới tận Chùa Pháp Hoa. Khác với không khí tĩnh
lặng quen thuộc, Chùa Pháp Hoa trong một khuôn viên rộng rãi đang là một
đại công trường, nơi có mấy trăm người đang rộn ràng, cần mẫn chặt cành,
hái lá, bóc rễ, phơi phóng sàng sảy, xay giã các loại lá cành để làm
thuốc cho người thân ở giai đoạn nguy nan, giành giật với tử thần từng
khoảnh khắc sống. Trong hàng ngàn người đã lần lượt qua đây, hẳn cũng đã
có những người may mắn, rời Chùa với niềm vui và hy vọng.Trong vùng đất
dạy con người loại bỏ Tham- Sân
–Si, những kiếp người còn nặng lòng trần, hình như ở khắp mọi miền
đất nước,vào đây, cầu mong một phép màu cho riêng họ, và cho người thân,
có muôn vàn cách thể hiện, hàng ngày diễn ra trước đôi mắt vốn quen quan
sát và đôi tai còn có khả năng lắng nghe của Nhà văn, dù lúc này,thân
thể hầu chỉ còn da bọc xương. Ngồi bên nhau, Anh ít nói đến bệnh của
mình, mà nói nhiều đến những gì Anh quan sát và trải nghiệm trong mấy
tháng ở đây, khi hòa nhập vào giữa cộng đồng những con người quyết đi
tìm lại sự sống cho những người thân yêu, bằng mọi giá. Đó là một hành
trình vừa trần thế, vừa tâm linh, vừa hy vọng vừa tuyệt vọng, vừa tin
vào thể lực,tâm đức người thân, vừa cầu xin những điều kỳ diệu đến từ
cao xanh. Đó chẳng phải là một vùng đất mới của văn chương?
Khi sắp ra về, Anh níu lại, nói với
tôi: Cậu quen làm Tư liệu, nên giành thời gian, qua thăm Trại Cải tạo
bên cạnh. Những ngày ở đây, mình có sang bên đó, nơi giam giử nhiều đối
tượng phạm pháp, từ trộm cắp, lưu manh, vượt biên, đĩ điếm.. chưa thành
án. Mấy tay Phụ trách bên đó, biết mình là nhà văn, nên có đưa cho mình
xem một số bản tự khai, mình đọc mà…choáng! Ngày đầu giải phóng, bọn
mình vào Miền Nam, vào Sài Gòn với tâm thế tự hào, sung sướng, vì cuối
cùng cuộc chiến đã kết thúc thắng lợi, giang sơn đã quy về một mối, toàn
dân bắt tay xây dựng một cuộc sống mới trong hòa bình. Nhưng hơn 10 năm
qua rồi (bấy giờ là nửa cuối 1988 ), nhìn đám trẻ bị bắt, bị cải tạo,
rồi đọc những điều bọn nó kể về con đường dẫn chúng vào những con đường
lầm lạc, bế tắc, khốn cùng, từng đi kinh tế mới, từng trồn tránh để về
thành phố vì không quen nơi rừng xa, đất lạ, nhiều lần vượt biên có đóng
tiền và không còn tiền, phải nhắm mắt bán cái duy nhất con gái tự có, …
vì là con binh lính viên chức chế độ vừa bị đánh bại. Mà đối tượng mua
dâm là ai?Không ít người là cán binh bên thắng cuộc. Nếu ngày trước,
điều đó, dù bị phê phán, vẫn diễn ra khá công khai. Với quân nhân mà sự
sống chết treo trên đầu sợi tóc, nó còn được tạo điều kiện. Thì giờ phải
làm lén lút, vụng trộm. Một cái nhìn lên, từ dưới đáy, về những người mà
bao năm ta vẫn đinh ninh là Thép
đã tôi, không bao giờ bị han rỉ, như buộc mỗi chúng ta phải sờ lên
mặt. Hơn 10 năm, là dài hơn mỗi cuộc chiến, là những người chiến thắng,
chúng ta đã làm gì cho từng người dân trên đất nước này? Với những người
thuộc bên thua cuộc, ta có làm gì khác hơn cô Tấm khi đã lên làm bà
Hoàng đối xử với mẹ con nhà Cám hay không? Chỉ cần biên tập chút ít,
những trang đời tự kể ấy được công bố, sẽ có sức thức tỉnh nhiều người.
Văn họ viết, nhiều người có học hẳn hoi, có cái hay đặc biệt của những
người biết mình ở vị trí dưới đáy xã hội mà không cam phận, khác hẳn
giọng tin tưởng tự hào đắc thắng của chúng ta.
Thật tiếc, là tôi không có dịp trở lại,
để thực hiện lời dặn cuối cùng của nhà văn. Mấy
năm trước, Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, khi về dạy ở Đại học Sư phạm
Huế, có chuyển cho tôi xem bức thư rất dài của một nữ sinh viên gửi
riêng cho Thầy, sau khi nghe thầy giảng về Văn học. Như
nuốt lấy từng lời khi Thầy vẽ ra bức tranh đời sống tương lai, em
thành thật kể lại, cảnh cả gia đình em đã bỏ chạy về Nam, khi Quân miền
Bắc tiến vào Huế, những ngày đêm
đói rét, lo lắng lê la ở sân bay Phú Bài, vì lo sợ. Nhưng rồi đi không
kịp, phải trở về, rồi vào học, nghe những điều Thầy dạy, một chân trời
hy vọng đã mở…Lá thư tới tay Thầy khi cả nhà em đã tìm đường vượt biên.
Một nỗi đau có địa chỉ gửi cho người Thầy mình yêu quý.
Sau đợt điều trị không có phép màu, Nhà
văn về lại Viện 108. 8 tháng sau
khi phát bệnh, đã có những ngày tiếp máu mà cơ thể không tiếp nhận. Các
tĩnh mạch như vỡ ra, không còn tải máu về tim. Phải mở tĩnh mạch ở ngực
để truyền trực tiếp. Đã ngỡ không thể còn nói gì với nhau. Nhưng thật lạ
lùng, là sức sống của Người lính già. Chiều đó, khi chúng tôi vào, Anh
Châu đã tỉnh táo trở lại. Mặc dầu Bác sĩ bắt buộc bất động, và cấm nói
chuyện- bốn ngày qua đã tiếp hơn một lít máu tươi, Anh Châu vẫn ra hiệu
cho tôi lại gần, thì thầm: Đối với mình, viết lách đã là chuyện xa xôi,
nhưng các cậu còn sức, còn nói được, còn viết được, thì phải lên tiếng
đi. Đừng cho họ thay nhân sự lúc này…. Không nên quên là chúng ta sẽ
đứng trước sự phán xét của lịch sử. Lịch sử sẽ lên án những kẻ có quyết
định sai lầm, nhưng đừng nghĩ là những người đương thời vô can. Hèn nhát
trong chiến tranh rồi cũng có cách để bào chữa, và thực tế, mười mấy năm
qua, biết bao kẻ hèn nhát, trốn tránh trong chiến tranh đã rũ sạch tội
lỗi, để tranh nhau quyền, chức. Nhưng ngày hôm nay, khi đã có không khí
dân chủ, khi làn gió đổi mới đã thổi mạnh, mọi sự sớm muộn sẽ được công
khai, thì hèn nhát là tự đào huyệt chôn sống mình, cả uy tín xã hội bây
giờ, và chút nào là tài năng thể hiện trong những tác phẩm đã có.
Sổ tay tôi còn ghi: Chiều 10-11-1988,
tỉnh táo sau một tuần tiếp máu, Anh dặn:
Tôi có vài chục cuốn sổ, trong đó
có những ghi chép văn học. Khác với Nguyễn Thi, trong Năm tháng chưa xa
mà Thảo đã cất công làm, tôi thường ghi những ý nghĩ chợt đến, những ý
đồ sáng tác, phác thảo truyện,..Hôm trước đọc lại, tôi tự
thấy mình có những ý tưởng không
tầm thường. Tôi nhớ có một cốt truyện, ý là: Có một người suốt đời đặt
mục đích đi tìm một người để giết, đến cuối đời mới ngộ ra là chính mình
đã giết chết đời mình.
Mấy năm cuối, trong trò chuyện với
những người gần gũi anh từng nói, mặc dầu đã có đến 4/7 cuốn tiểu thuyết
viết về vùng đất Quảng Trị, (Dấu
chân người lính, Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra,Mãnh đất
tình yêu. Truyện vừa Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau cũng vậy) anh vẫn có ý định
viết một tiểu thuyết về
những gì diễn ra ở chiến trường này trước và trong các chiến dịch 1972,
đặc biệt là trận chiến ở Thành cổ, nơi anh từng đi lại nhiều lần. Tên dự
kiến là Chân trời võ đạn.Tất
nhiên giờ nhìn lại chiến trận ở một tầm nhìn bao quát cả hai bên. Nhà
văn Nam Hà cung cấp cho anh những tư liệu về phía bên kia mà anh khai
thác trong lưu trữ quân sử VNCH, cả những ảnh không lưu, để có cài nhìn
bao quát. Nhà thơ Nguyễn Trung Thu, tác giả bài thơ ngắn
Đêm Trường Sơn nhớ Bác,được
Trần Chung phổ nhạc, làm ở chuyên viên ở Ban Tư tưởng-Văn hóa, người
thân gần ở ngay nhà đối diện trong khu tập thể số 3 Ông Ích Khiêm có
viết: “Những ngày bám sát mãnh đất Quảng Trị đã giúp Nguyễn Minh Châu
viết nên nhiều tác phẩm giá trị chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác của anh, nhưng anh vẫn chưa viết được cuốn sách mà anh nghĩ là
quan trọng nhất trong đời viết của mình. Giữa những bản thảo dở dang anh
để lại, tôi đã thấy những trang anh phác thảo đề cương cuốn tiểu thuyết
này, và đã có vài lần anh đã viết đi viết lại những trang đầu cuốn sách
mà anh lấy tên là Chân trời võ
đạn. Cho đến khi gần qua đời, anh Châu vẫn nghĩ về cuốn sách và nói
rằng:"Riêng đối với tôi, viết về cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta, về cuộc chiến tranh kéo dài mấy
chục năm nay ở Việt Nam, không thể không viết về cuộc chiến tranh ở
Thành Cổ Quảng Trị. Rất là tiếc, tôi không kịp làm”. Cùng với đề cương
và những trang phác thảo đầu tiên
của cuốn tiểu thuyết về Thành cổ Quảng Trị ấy là không ít đề cương, cốt
truyện khác (truyện ngắn và truyện vừa) anh dự định viết về vùng đất
này. Những cuốn sổ tay ghi chép của anh đậm đặc những sự kiện, khung
cảnh và hình ảnh con người Quảng Trị. Đây là mấy dòng trong hàng trăm
trang ghi chép.
Về Đông Hà- Quảng Trị- 27-5-1973.Làng xóm vắng tanh vắng ngắt, không
nghe chó kêu gà gáy hàng chục cây số, đồng vắng, làng vắng, đường trong
làng, đường ngoài đồng vắng, chỉ thoi thóp bóng du kích và bộ đội trú
quân đi lại. Tre làng, cây cối,chỗ cháy, chỗ đổ ngả nghiêng,chỗ đất bùn
đắp lên tận ngọn… Tử sĩ được đặt trên tấm tôn, kéo sát sàn sạt bằng giây
võng, chó chạy theo xua không đi. Hố chôn đào nông choèn choèn, một cơn
mưa, xác tử sĩ đã nổi bềnh lên, địch bắn một quả pháo, lật lên một xác,
địch ném một quả bom, lật lên và xẻ ra vài ba xác, một loạt B52, thì lật
lên cả một chục. Một bãi tha ma bị lãng quên là thường, phần mộ vô danh
là thường, nếu có cắm thẻ người này vào người kia thì sự chính xác chỉ
là tương đối bởi vì lúc đó địch đánh gắt gao vô cùng. Đánh răng còn phải
múc ca nước chui vào ngồi trong hầm, đào một cái hố chôn người cũng chỉ
làm 15, 20 phút, ai dám làm kỹ
hơn.
Nhiều lần anh Nguyễn Minh Châu đã thổ lộ với tôi rằng chính anh cũng
không thể hiểu niềm đam mê đến mức kỳ lạ của anh với cái mảnh đất nghèo
xác, nghéo xơ và bị chiến tranh chà xát đến không còn sót lại một cái
đọt tre, mỗi nhà chết 5,7 người là thường, người chết đông, người chết
tây, người chết trên rừng, người chết dưới biển. Con người ở đây đã lỳ
ra, chỉ còn biết đói khi cái dạ dày thắt
lại,không còn biết đau khổ là gì nữa. Thực ra là rất rõ anh muốn mượn
mảnh đất nhọc nhằn của miền Trung ấy để
thể hiện những vấn đề da diết nhất của số phận dân tộc mình. Trong
một bức thư anh đã tâm sự: Cái
mảnh đất Quảng Trị gần như tôi
si mê nó, hình như trong con
người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm
đến đấy thì cả con người tôi rung lên. Tôi đã gắn
bó với nó - cái vùng quê hương của chiến tranh và khổ ải ấy - hơn
cả với quê mình. Bây giờ nhìn lại, không những cái mớ tiểu thuyết mà cho
đến cả cái đám truyện ngắn đông đúc có mấy cái là không phải chuyện ở
đây đâu - kể cả cái Cỏ lau gần đây nhất hay cái Mảnh đất tình yêu cũng
vậy. Có lẻ tôi nhìn thấy từ lâu ở đấy cái chỗ biểu đạt rõ nhất đời sống
con người của đất này chăng.
Khi nhà văn vào Bệnh viện, truyện vừa
Phiên chợ Giát mới
phác thảo được vài mươi trang. Những ngày trong Bệnh viện, nói
chung Bác sĩ cấm Anh làm việc, nhưng từ khi ở Chùa Pháp Hoa về, tập bản
thảo đã được 60 trang, và điều kỳ diệu, là Anh đã kịp hoàn thành trước
khi rơi vào hôn mê, sau đó ít lâu. Có lẽ đây là tiểu thuyết duy nhất,
như là phần tiếp theo của Khách ở
quê ra, Nhà văn viết về những nhân vật ở ngay quê hương mình, huyện
Quỳnh Lưu, như một món nợ ân tình.. Chống chọi với bệnh hiểm nghèo, mà
Người lính viết văn ngay trong những ngày cuối cùng vẫn đau đáu nghĩ đến
những nợ nần với bao nhiêu phát hiện mới, lúc mà sức đã tàn, lực đã
kiệt.
Tháng 1-1989, gần tết, những cành đào
đã bán rong trên phố. Buổi chiều vào thăm, thay vì mua hoa quả, tôi mang
một cành đào, cắm vào chai nước, như để báo với Anh, Tết đang về gần.
Mấy cánh đào thỉnh thoảng rời cành như đếm nhịp thời gian, báo một mùa
xuân mới sắp về. Nhưng Nguyễn Minh Châu đã không thể cố hơn được. Anh
mất ngày 23-1-1989, nhằm ngày 16-12 năm Mậu
Thìn, lúc mới sang tuổi 59.
Ngay sau khi Nhà văn mất, một số bạn bè
văn nghệ tự nguyện cùng Gia đình lập Nhóm bảo trợ Di sản Nhà văn, gồm:
Lại Nguyên Ân, - Thu Bồn- Nguyễn Thị Doanh (bà quả phụ NMC ), Nguyễn Duy
- Hoàng Lại Giang - Dương Thu Hương - Phạm Thị Hoài -Thái Bá Lợi - Dạ
Ngân - Vương Trí Nhàn - Võ Trần Nhã -
Ý Nhi - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ngô Thảo - Nguyễn Quang Thân
-Nguyễn Trung Thu. Dự định là cùng với Gia đình thu thập, bảo quản toàn
bộ di sản của Nhà văn, Tổ chức khai thác các di cảo. Xuất bản các
tác phẩm và ghi chép có giá trị. Nhưng trong thực tế, nhóm này, với sự
tài trợ của một Việt kiều ở Pháp chỉ tổ chức in được
tập
Nguyễn Minh Châu- Con người và
tác phẩm (Nxb Hội Nhà Văn -1991), do Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân
biên soạn, tập họp một số bài viết về tác giả và tác phẩm Nguyễn Minh
Châu. Cả những người có ý kiến phê bình một số tác phẩm giai đoạn cuối,
nhưng đều khẳng định vị trí và những đóng góp đặc sắc của Nhà văn với
văn học nước nhà.
Tết 1991, sau khi Nhà văn mất, trên Tạp
chí Cửa Việt, có bài phỏng vấn nhà văn Tô Hoài về giải thưởng văn học
năm 1988-1989 của Hội Nhà văn VN, trong đó có tập truyện
Cỏ lau. Nguyên văn câu hỏi và
trả lời giúp chúng ta hiểu thêm một cách lý giải về tâm thế các nhà văn
với sáng tác của mình:
Hỏi:
Cỏ lau,tác phẩm mới nhất của NguyễnMinh Châu vừa được trao giải thưởng
văn xuôi 1988-1989, trong đó người đọc thấynguyễn Minh Châu đã không
quên nổi điều gì cả, về con người, đất nước,và những tháng năm. Thế
nhưng trước đó, bài Ai điếu… lại bị nhiều nhà phê bình kết án là phát
ngôn của xu hướng “Phủ nhận quá khứ”. Thật là oái oăm! Thưa anh Tô Hoài,
vậy thì lý giải thế nào cho sòng phẳng với nhà văn quá cố của chúng ta:
là nghịch lý trong tâm lý sáng tạo của nhà văn, hay phải hiểu ý thức”
phủ nhận” theo một cách nào khác?
Tô
Hoài:
Ý kiến của tôi về tập truyện ngắn
Cỏ lau: Trong
Cỏ lau
truyện ngắn Phiên chợ
Giát hay cực, và chỉ
một truyện ngắn đó, ngoài ra, những truyện khác cũng thườngthường. Đã
lâu tôi mới được đọc một truyện hay
của Nguyễn Minh Châu, kể từ cái truyện rất ngắn
Mảnh trăng cuối rừng- truyện này hồi ấy cũng bị hai bài báo chê.Khi
anh Nguyễn Minh Châu còn khỏe, có đôi lần tôi được nghe anh kể những
truyện dự định viết về vùng quê thắm thiết quen thuộc của anh, nhiều
truyện thật dữ dội và xúc động mà tôi tưởng
Phiên chợ Giát
là một trong những
truyện ấy. Rất tiếc.
Từ dự định đến lúc cầm bút viết không
phải dễ khớp làm một như trường hợp thành công của Nguyễn Minh Châu..
Lắm khi nghí thì tuyệt vời, đến khi viết ra vẫn thế nào ấy.Ai viết cũng
gặp những trái ngược khó
khăn này, không chỉ ở sáng tác mà cả ở phê
bình.
Từ những
suy nghĩ dự định, và từ nhận xét, phê bình đến đánh giá cụ thể
một sáng tác bao giờ cũng khó khăn. Chẳng đã bao lâu chúng ta bảo
tự do sáng tác đã hoàn hảo. Rồi lại nổ ra những tranh luận thế ào là tự
do sáng tác,tự do sáng tác khác tự do lung tung.Đến khi đem đối chiếu
với tác phẩm, cuộc thảo luận lại gay go hơn.Ví dụ với một số truyện
ngắn, kịch ngắn của Ngg=uyễn Huy Thiệp, ngườinày rủa là độc ác, bậy bạ,
người ki khen là giỏi, giỏi nhất.
Trên con đường dân chủ thảo luận một tác phẩm
có thể dẫn đến những đánh giá
giống nhau hoặc không giống nhau, cũng như với người sáng tác, nói và
viết có thể gặp nhau, có thể xa nhau. Như trường hợp Nguyễn Minh Châu.
Không phải là lạ lùng và không bình thường, trái lại còn dễ hiểu và cần
thiết, nếu giử không khí thảo luận được thân ái, đoàn kết vì lẻ phải.
Nguyễn Minh Châu đã viết bài
“Ai điêu…”, những suy nghĩ và
bình luận văn học
đang ở phút hào hứng, sôi nổi trong giai đoạn đầu văn xuôi bước
vào đổi mới. Bài này ra đời trước
Phiên chợ Giát nhiều. Tôi đọc Nguyễn Minh Châu từ
Mảnh trăng cuối rừng đến các
tiểu thuyết, cả những tác phẩm viết cho thiếu nhi, và truyện ngắn cuối
cùng Phiên chợ Giát, tôi chưa
nhận ra được sáng tác nào cần phải
“Ai điếu” cả. Mà chỉ thấy các
tác phẩm của Nguyễn Minh Châu càng ngày càng khẳng định hình thành phong
cách nhà văn nhiều công phu tự đổi mới, và cho đến truyện ngắn
Phiên chợ Giát thì thật là
tài tình. “Ai điếu” là một
khát vọng về sự sáng tạo, và sự tự trọng cũng như tấm lòng thiết tha
mong ước đã luôn luôn thúc đẫy nhà văn chuyển mình.
Khi làm cuốn Tư liệu này, qua
tác phẩm và các bài viết về các tác giả, bạn đọc biết khá kỹ về
tiểu sử và gia thế các nhà văn Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Thu Bồn. Nhưng
với riêng Nguyễn Minh Châu thì hình như còn nhiều khoảng trống. Khi biết
tôi còn phân vân, tháng 6-2020, nhân có dịp ra Hà Nội, nhà văn Thái Bá
Lợi lâu nay vẫn ở Đà Nẳng, có gửi cho tôi một bài viết, với vài tư liệu
còn ít được biết đến: "Nhà tôi chỉ cách nhà ông vài chục thước. Khi tôi
lớn lên, ông đã rời quê đi bộ đội. Chúng tôi sinh ra ở cái làng Thơi có
tên chữ là Văn Thai, một làng biển với những người
bạn giã nổi tiếng quanh vùng
vì những hành động khác thường…Ông có gợi cho bạn đọc đôi điều về làng
mình trong các tác phẩm Phiên chợ
Giát, Khách ở quê ra,
nhưng ông chưa viết hết về nó. Những ngày cuối, ở Bệnh viện 108, Nguyễn
Minh Châu nói với tôi: Tôi đã yếu rồi, không còn sức viết nữa, nếu ông
còn theo đuổi nghiệp văn, ông phải viết một cuốn sách về cái ngõ của
mình, về cái làng Thơi của mình... Cái làng mình lạ lắm. Đến như Ông
Mackét cũng không thể nào tưởng tượng ra được. Ông có biết ông...
không? Ông ta đi biển, thuyền đắm ngoài khơi, năm ngày sau xác mới trôi
về qua cửa Lạch Thơi, theo thủy triều qua cống Bà Nhiên mà thời bé đứa
nào chẳng một đôi lần chui qua, vào đến tận cổng nhà mới nổi lên, để cả
làng phải bàng hoàng, tổ chức đám ma thật to. Hay như anh... uống rượ
say, tự tay mổ bụng mình, lôi cả đống ruột ra, ai cũng nghĩ anh ta sẽ
chết. Có một bà đi bán cá về, lấy cái rỗ đựng cá úp đống ruột lại, đưa
lên bệnh viện huyện. Anh ta sống đến tận bây giờ. Ông phải viết về những
điều đó.”
Nhưng có chuyện riêng gia đình nầy, thì
chỉ Thái Bá Lợi nói chúng ta mới biết: "Nhớ thời cải cách ruộng đất, lúc
đó tôi chỉ trên 10 tuổi, trên đường đi học, qua bãi đấu tố địa chủ, đọc
được câu khẩu hiệu: “Đã đảo tên đại địa chủ, cường hào ác bá, thống trị
ngư dân Nguyễn Huy Phiên”. Nguyễn Huy Phiên là bố anh Châu. Nhà anh giàu
nhất làng, có khoảng 20 mẫu ruộng, mười chiếc thuyền đánh cá, và ông cụ
có làm Lý trưởng. Đặc biệt gia đình anh Châu
có một tòa nhà lớn gồm hai dãy nhà và một cái sân rộng, bọn con
nít chúng tôi thường vào đó vui đùa mà không bị người nhà xua đuổi.
Trước chiến dịch Điện Biên Phủ, ông cụ đã khao một Tiểu đoàn nhiều bữa
tiệc trong cái sân này để chiến sĩ lên đường
chiến đấu. Có một nhạc sĩ nghiệp
dư của Tiểu đoàn đã sáng tác bài hát ca ngợi cụ, mở đầu là câu: Làng ta
có ông Lý Bích… (Chị Bích là con đầu trong gia đình ). Năm 1949, Pháp đổ
bộ lên Quỳnh Lưu, đốt hêt thuyền đánh cá của dân, trong đó có nhà tôi,
mẹ tôi phải vay tiền Cụ Lý để đóng thuyền đi biển, tất nhiên là có tính
lãi. Trong Cải cách ruộng đất, mẹ tôi bị ép lên đấu tố, bà lần lựa không
lên, lúc thì lấy cớ đau đầu, lúc thì lên chợ Giát thăm cậu tôi đang ốm.
Bà nói: Người ta cho vay tiền giúp đỡ làm ăn, sao lại đấu tố họ. Sau mấy
ngày đấu tố, Tòa tuyên án: Tên Nguyễn Huy Phiên đáng bị tử hình, nhưng
vì có 5 người con đi bộ đội, nên hạ xuống chung thân. Anh Châu là em út,
trong năm người con bộ đội ấy. Ông cụ chết trong tù.”
Chuyện đau lòng đó, trong cà ngàn trang
truyện, chưa thấy nhà văn động đến bao giờ.
Người viết bài này đang
vào tuổi 80, mới thấy tiếc biết bao. Giá mà Nhà văn còn có thêm 20 năm
sống, thì không biết, văn học chúng ta, bước khỏi không gian chiến trận,
đã có thêm những trang viết mới mẻ về con người Việt Nam trên hành trình
hòa hợp, hòa hiếu, khoan dung cùng
nhau xây dựng một cuộc sống xứng với những hy sinh vô lượng để có một
đất nước Độc lập- Tự do- Hạnh phúc.
Viết
2-11-2019.
|