Văn Việt (25-2-21)
http://vanviet.info/van/hau-bo-van-nghe-v-noi-buon-chien-tranh-ky-4/
HẬU BÁO “VĂN NGHỆ” VÀ “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” (KỲ 4) Nguyên Ngọc
Khi tôi về làm Đảng đoàn ở Hội Nhà văn, anh Trần Độ có gọi tôi đến hỏi
tôi định làm những gì ở đấy. Tôi đã nói đủ thứ kế hoạch, nhưng cuối cùng
chốt lại hai việc cụ thể quyết sẽ tập trung chủ yếu: khôi phục lại thật
đàng hoàng tạp chí Văn học nước ngoài để chấm dứt sự đứt đoạn gần
thế kỷ của ta với văn học thế giới, và làm Trường Viết văn Nguyễn Du.
Trước đây, Hội Nhà văn đã thường có những lớp viết văn ngắn hạn ba tháng
hoặc có khi sáu tháng cho nhà văn trẻ. Tôi không quan niệm đào tạo nhà
văn theo kiểu đó, đấy là những lớp “truyền nghề”. Theo tôi văn chương là
một thứ không thể truyền nghề, người đi trước có thể nói một số kinh
nghiệm gì đó cho người đi sau, song cũng chẳng ích lợi bao nhiêu. Người
viết văn trước hết phải là người có tài “do trời cho”, và mỗi người có
tài sẽ “biết” viết theo kiểu của mình, “tạng” của mình, không ai giống
ai, có lẽ cũng gần như vân tay của mỗi người, tuyệt đối khác biệt. Vả
chăng có hai nhà văn giống hệt nhau, thậm chí chỉ mại mại giống nhau,
thì vô ích. Có một ông Nguyễn Du là rất tuyệt, nhưng có hai ông Nguyễn
Du thì thừa một ông… Song tôi lại có một nhận xét, dường như ở ta tài
năng văn học đặc sắc thường bộc lộ rất sớm, Nguyên Hồng viết Bỉ vỏ năm
16 tuổi, Chế Lan Viên in Điêu tàn năm 17, nhưng rồi không ai đi
được thật xa, thường tự lặp lại mình, hay tàn lụi dần…
Vì sao? Có thể chăng ở mặt bằng văn hóa chung của xã hội không cao, và
đặc biệt một nền giáo dục nói chung, đặc biệt giáo dục đại học còn quá
lạc hậu, hoàn toàn không đủ sức tạo nền tảng cơ bản cho người cầm bút có
thể đi thật xa, sau khi đã tiêu tốn hết vốn tài năng bẩm sinh.
Chúng tôi nuôi tham vọng thay thế một trường đại học như cần phải có,
bằng cách làm Trường Viết văn Nguyễn Du.
Ngay từ đầu trường Đại học Viết văn Nguyễn Du đã không chủ trương mời
các nhà văn đến dạy nghề. Thỉnh thoảng các anh chị chỉ đến chơi với
người học, tâm sự đôi chút chuyện đời và công việc viết của mình. Cũng
là để người học làm quen dần với đời sống văn học…
Trường Viết văn Nguyễn Du có cái may lớn, nó được giao từ đầu cho hai
người chủ trì rất đặc sắc, thậm chí nghĩ lại không còn chọn lựa nào hơn:
Hoàng Ngọc Hiến và Phạm Vĩnh Cư.
Hoàng Ngọc Hiến từ Đại học Vinh đã quyết tìm mọi cách ra Hà Nội để thoát
khỏi tình trạng tỉnh lẻ. Anh có nền tảng tri thức toàn diện rất vững
chắc. Và lại rất độc đáo, thường đột ngột sáng chói bất ngờ, có phần gì
đó hơi giống Trần Quốc Vượng, người có “thính giác” đặc biệt về khảo cổ.
Tôi có mấy lần đi với anh Vượng, hai anh em cứ như lững thững dạo chơi.
Đột ngột anh dừng lại, đứng im một lúc, rồi bảo: Đào xuống đi, ngay dưới
chân tớ đây… Và khám phá ra cả một kho di vật thượng cổ cực kỳ quý hiếm.
Hẳn nhiều người còn nhớ Hoàng Ngọc Hiến là tác giả bài báo chấn động về
“Văn học phải đạo”, xuất hiện rất sớm, lúc anh Giang Nam còn phụ
trách tờ Văn nghệ. Một tiếng sấm giữa trời còn trong – hay đúng
hơn trời còn đục ngầu. Anh vừa tài tử, thường phá cách, lại vừa là một
nhà sư phạm nghiêm cẩn và tinh anh…
Cùng với Hoàng Ngọc Hiến là Phạm Vĩnh Cư.
Phạm Vĩnh Cư được đào tạo ở Nga từ mẫu giáo cho đến trên đại học, và ở
Đại học Lomonossov, một kiểu Harvard của Moskva. Những nhà văn Nga tôi
từng quen thân đều bảo Cư còn am hiểu văn hóa và văn học Nga giỏi và sâu
hơn cả họ. Thấu hiểu tường tận và say mê. Tôi biết có những hôm Cư ra
ngồi suốt ngày cạnh mộ Gogol, nhà văn kinh điển đậm đặc tâm hồn Nga.
Phạm Vĩnh Cư uyên bác, và theo tôi so với Hoàng Ngọc Hiến, anh có phần
ít nhiều bài bản, chỉn chu hơn bên cạnh một anh Hiến hơi nghệ sĩ hơn.
Bây giờ nhìn lại, hóa ra ở Nguyễn Du các anh đã thực sự thực hiện cái mà
mấy chục năm sau ta sẽ gọi là giáo dục khai phóng, sớm và sâu sắc một
cách khác thường. Đến với sinh viên ở đây hằng ngày suốt ba năm không
phải là các nhà văn đi trước hay giảng viên ở các trường đại học khác,
mà là các chuyên gia hàng đầu ở hầu hết các lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn, đôi khi cả khoa học tự nhiên. Và họ nói về những nghiên cứu,
tìm tòi, trải nghiệm, suy nghĩ tâm huyết nhất của họ ở lĩnh vực mà họ
cống hiến cả cuộc đời. Đặc biệt những điều chính họ bằng trực cảm nhận
ra còn mơ hồ. Họ tâm sự và mong muốn người học thử cùng nghĩ, cùng họ đi
tìm. Có người trình bày cả một công trình cứu công phu lớp lang hoàn
chỉnh, có người ngược lại hầu như chỉ kể chuyện lang bang rất tài tử,
thỉnh thoảng đột ngột lóe sáng một ánh chớp… Cũng có khi hai chuyên gia
cùng một lĩnh vực, nói cùng một chủ đề, mà ý kiến, thậm chí cả quan điểm
hoàn toàn ngược nhau. Và ở đây, các thầy tâm sự với người học những điều
họ không nói ở bất cứ nơi nào khác.
Tôi còn nhớ một “sự cố”: không hiểu vì sao mà người đầu tiên đến nói
ngay đầu khóa một (1979) là anh Hồ Ngọc Đại. Anh Đại thì ta biết rồi,
anh ăn nói sắc sảo mà ngang tàng, chẳng nể ai, chẳng kiêng bất cứ điều
gì. Đang giữa câu chuyện thao thao, anh đột nhiên dừng lại và hỏi: Các
bạn có biết vì sao mà Cách mạng tháng 8 năm 45 thành công không? Ấy là
vì dân ta bấy giờ còn ngu quá! Chứ như hôm nay ấy à, còn lâu!… Tôi gọi
cậu bảo vệ: Ra đóng ngay cổng trường ngoài kia lại, kẻo công an vào tóm
đầu tất cả thầy trò chúng ta bây giờ. Nghĩ lại cho kỹ, cho thật, Hồ Ngọc
Đại đã không nói sai. Hai triệu người đang chết đói, Việt Minh đã khôn
khéo phá kho thóc, cả nước bỗng rùng rùng đứng dậy như thác lũ, không gì
ngăn nổi. Tất nhiên Cách mạng tháng 8 không chỉ có thế, nhân dân tích tụ
uất ức vì nô lệ cả trăm năm, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ để bùng cháy,
nhưng kỳ thực lúc ấy đã có mấy ai gọi là giác ngộ cách mạng gì đâu. Hiện
tượng đám đông mà Gustave Le Bon từng nói là có thật. Hồ Ngọc Đại vốn có
tiếng nói bạo, nói ngược, cũng có phần ỷ thế con rể Tổng bí thư Lê Duẩn.
Tuy nhiên việc một “sự cố” như vậy diễn ra đúng từ ngày đầu tiên của
khóa một, nói theo cách nào đó, không hoàn toàn là ngẫu nhiên. Chúng tôi
thật sự muốn gây hoang mang cho người học vừa bước chân vào trường,
khiến họ mất hết lòng tin vào tất cả những gì vẫn đinh ninh trước khi
đến đây. Họ nghi ngờ tất cả, và thậm chí nghi ngờ cả những điều các
thầy, các chuyên gia đầu ngành nổi tiếng sẽ được mời đến nói với họ
trong suốt ba năm sắp tới ở trường. Và tự làm lại chính mình, độc lập và
thật sự tự do.
Là một trường đại học dẫu sao cũng là của nhà nước nên tất phải có phần
gọi là chương trình “cứng” bắt buộc, bộ phận giáo vụ do anh Trần Niêm
phụ trách đã ghi rõ môn “Triết học Marx-Engels” (chứ không Marx-Lenin).
Phần này do các anh Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Trọng Chuẩn, Việt Phương,
Tạ Văn Thành trình bày, anh Lê Hữu Tầng mở đầu, và anh Dương Phú Hiệp
tổng kết. Tôi gọi là trình bày bởi có người giảng rất bài bản, có người
chỉ trò chuyện nhẹ nhàng cởi mở, người học nghe, hiểu và chấp nhận đến
đâu là do tự chính mình.
Các anh Việt Phương, Ngô Thế Phúc, Nguyễn Khắc Dương nói về triết học
phương Tây. Triết học phương Đông, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là phần
của các anh Minh Chi, Quang Đạm, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc…
Xã hội học có các anh Phạm Bích San, Tô Duy Hợp, Nguyễn Hồng Phong. Mỹ
học có anh Như Thiết. Anh Trần Niêm ở giáo vụ giới thiệu “Ghi chú về
nghệ thuật” của Nguyễn Quân và về Kagan.
Tâm lý học được coi là phần rất quan trọng. Trường mời được chuyên gia
hàng đầu Phạm Hoàng Gia. Phạm Minh Hạc nói về tâm lý học xô-viết, Hồ
Ngọc Đại về tâm lý học hành vi, Phạm Vĩnh Cư về tâm lý học nghệ thuật và
Hoàng Ngọc Hiến về phân tâm học.
Về ngôn ngữ học có các chuyên gia Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Hoàng
Tuệ.
Các anh Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê, Trần Đình Hượu, Phan
Ngọc nói về lịch sử Việt Nam, lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt. Về lịch
sử thế giới thì có các chuyên gia Lương Ninh, Nguyễn Quốc Hùng… Có cả
một lực lượng đông đảo, đa dạng và phong phú các anh chị cho phần văn
học nghệ thuật Việt Nam và thế giới, những Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê,
Phùng Văn Tửu, Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh, Trần Ngọc Vương, Trần Nho
Thìn, Huệ Chi, Đình Quang, Nguyễn Thụ, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Vĩnh Cư…
Cũng có trường hợp thú vị hai nhà dân tộc học danh tiếng Đặng Nghiêm Vạn
và Nguyễn Từ Chi, đều là chuyên gia sâu về Mường, anh Vạn thuộc trường
phái Liên Xô, chỉn chu, bài bản, thông thạo cả Tây Nguyên, anh Từ Chi
gần phương Tây, đúng hơn là độc đáo gần như một mình, với Tây Nguyên,
anh chỉ “đá” qua một thoáng, chỉ viết một bài, nhưng là bài cực kỳ đặc
sắc, nhiều phát hiện mới mẻ, những dự báo, cả cảnh báo của anh về sau
đều được chứng minh chính xác hoàn toàn. Tôi thân anh Vạn hơn, nhưng lại
“sợ”, phục Từ Chi hơn. Khi anh Từ Chi mất năm 1995, nhà dân tộc học bậc
thầy thế giới Georges Condominas viết: “Việt Nam vừa mất một nhà bác
học”…
Trong ba năm ở Nguyễn Du, các nhà văn trẻ được gần gũi hằng ngày với
những chuyên gia hàng đầu của rất nhiều lĩnh vực như thế, và tôi có cảm
giác các thầy đến đây cũng rất khác với khi đến với các đại học thông
thường. Họ biết trước mặt họ là những tài năng đang chớm nở, được chọn
lọc hiếm hoi, rất nhạy cảm, rất khao khát cái mới, cái lạ, cái thật, họ
có thể nói hết, cả nhưng điều chính họ còn tìm tòi, trăn trở, thậm chí
bế tắc chưa tìm được lời giải. Họ đến không phải để truyền đạt những
chân lý, cũng không phải chỉ để truyền dạy kiến thức, mà còn tâm sự
những nghi ngờ của chính họ… Điều thú vị là chính cách dạy và học này
mang lại thành quả giải phóng tư duy cho người học, đánh thức tiềm năng
vốn có sẵn trong họ, đặc biệt ở những người… học rồi quên hết, như ở Bảo
Ninh hay Trung Trung Đỉnh, để chỉ thử kể hai trường hợp nổi bật. Và
đương nhiên nó không đồng đều ở mọi người. Cũng có người học thế mà
chẳng “vào” được bao nhiêu. Bấy giờ có anh Đệ ở Thanh Hóa, rất nghèo, vợ
chồng bán cả nhà để Đệ ra học Nguyễn Du, nhưng rồi cũng chẳng đến đâu,
tôi rất thương, thường hỏi thăm, bây giờ Đệ làm biên tập ở một cơ quan
truyền thông nào đó. Chuyện văn chương là thế, trông vậy mà rất khắc
nghiệt…
Chắc người đọc có chú ý, tôi vẫn nhắc đi nhắc lại “trường Nguyễn Du từ
khóa 1 đến khóa 5”, bởi vì đến đây, năm 1996, bỗng đột ngột có thay đổi.
Và lạ thay sự đời, chính Nguyễn Khoa Điềm vừa lên Bộ trưởng Bộ Văn hóa
đưa một người tên là Đặng Việt Bích, còn có biệt danh là Bích Bột, con
trai ông Trường Chinh, về làm hiệu trưởng, thay hẳn Hoàng Ngọc Hiến và
Phạm Vĩnh Cư. Ông Trường Chinh có con trai là anh Đặng Xuân Kỳ rất sắc
sảo, và chị Đặng Việt Nga ở Đà Lạt, một kiến trúc sư tài năng và nổi
tiếng độc đáo. Nhưng đến Bích Bột thì, ngoài bao nhiêu tai tiếng khác,
theo tôi không biết một chữ nào về văn chương, cũng mù tịt về giáo dục.
Trường Nguyễn Du từ đó không chỉ xuống cấp, nó thật sự bị phá tan tành.
Để rồi dần dần trở thành một khoa của trường Đại học Văn hóa, rồi lại
thành khoa có cái tên kỳ cục, gọi là Khoa Viết văn, Báo chí của trường
này.
Anh Ngô Văn Giá được giao phụ trách. Tôi biết và quý anh Giá cùng một số
anh làm việc ở khoa hiện nay, các anh hiểu cả và rất cố gắng, học viên
tất nhiên vẫn còn người tài. Nhưng cần nói rõ một trường Nguyễn Du thật
sự đã tuyệt đối không còn và đó là một tổn nhất không nhỏ. Không chỉ cho
văn chương. Nó cũng có thể gợi ý khá nhiều cho cả giáo dục nói chung
nữa.
Tôi đã nói quá dài về trường Nguyễn Du. Là vì
quả thật nó có vai trò quan trọng cho gần như cả một thế hệ cầm bút sau
chiến tranh. Cũng còn vì, như chính Bảo Ninh nói, không có nó thì cũng
không có Nỗi buồn chiến tranh.
Trong chiến tranh vệ quốc của Liên Xô 1939-45, đã có hàng trăm nhà văn
nổi tiếng ra trận, nhưng bên ấy người ta vẫn nói họ chờ sự xuất hiện của
“nhà văn trung úy” tức người trực tiếp cầm súng chứ không chỉ cầm bút. Ở
ta cũng vậy, ngay cả tôi cũng vậy, dù có vào cuộc xông xáo đến mấy, tôi
vẫn là anh phóng viên hay anh nhà văn tự do, được phép lùi ra lúc không
thật cần hay không dám. Sau 1975, chúng ta chờ sự xuất hiện và lên tiếng
của “nhà văn binh nhì”. Bảo Ninh nhập ngũ năm 1969, sau Mậu Thân. Ấy là
lúc miền Bắc vét những thanh niên cuối cùng của mình ra trận, cả học
sinh và sinh viên, cho những trận đánh sinh tử cuối cùng. Bảo Ninh lại
vào ngay Bắc Tây Nguyên, cửa ngõ của toàn chiến trường miền Nam, những
Đaktô, Tân Cảnh, Ngọc Hồi, Bờ Y…, nổi tiếng với “những đồi thịt băm”,
tên do chính lính Mỹ đặt…
Ở trường Nguyễn Du có lệ sinh viên ra trường, thay vì nộp một luận văn,
phải trình một tác phẩm tốt nghiệp và bảo vệ trước một hội đồng gồm các
thầy và một số nhà văn. Lại có lệ trường mời một số nhà văn, mỗi người
gọi là theo dõi, “hướng dẫn” hai hay ba học viên. Bảo Ninh thuộc nhóm
của tôi, nên tôi có tham gia “chấm” tác phẩm tốt nghiệp của anh, tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đấy là một buổi bảo vệ thật hay và
cảm động. Bảo Ninh nói vì sao anh viết quyển sách này. Anh kể cùng ra
trận với anh ngày ấy là hàng ngàn trai trẻ bạn bè, trong đó có bao nhiêu
người sáng sủa, tài năng, đặc sắc, đẹp trai, đầy tương lai tốt đẹp hơn
anh. Vậy mà họ đã chết hết, chỉ anh là cái thằng xoàng xĩnh nhất còn
sống sót và trở về. Sự sống sót của anh, sự còn lại trên đời của anh,
mỗi ngày còn sống của anh hôm nay là cực kỳ phi lý. Anh biết suy nghĩ ấy
của anh là vô lý, chiến tranh vốn cực kỳ tùy tiện, nó không chọn người
kém chết trước người giỏi chết sau. Nhưng sự sống sót của anh cứ như là
một sự phản bội.
Bảo Ninh ra trận và đánh nhau ở Tây Nguyên đúng lúc Tây Nguyên – mật
danh là B3 – tạm tách khỏi B1 tức Quân khu 5. Tướng Chu Huy Mân được
điều lên B3 với ý định thành lập một Quân đoàn mới trên ấy. Anh Đặng Vũ
Hiệp cũng được điều lên làm Chính ủy Tây Nguyên.
Sau chiến tranh, có lần anh Hiệp đến chơi ở Hội Nhà văn và tình cờ gặp
Bảo Ninh. Anh bảo tớ đọc sách của cậu rồi, tớ biết tỏng cậu ở sư 10,
trung đoàn 24, tiểu đoàn 5, đúng không? Tớ là Chính ủy Tây Nguyên, việc
gì tớ không biết. Cậu không viết đúng sự thật. Bảo Ninh trả lời: Vâng,
em viết không đúng sự thật của anh, sự thật của người chỉ huy bao quát
cả chiến trường Tây Nguyên. Em viết sự thật của em, thằng binh nhì ở đáy
tận cùng của chiến trận, một sự thật khác ạ.
Cuộc đối thoại tuyệt hay. Còn Simonov thì nói: Không ai biết hết về
chiến tranh. Chỉ có nhân dân mới biết hết. Mà nhân dân là một khái niệm
trừu tượng. Không ai có thể tự xưng mình là nhân dân, không có nhân dân
nói chung. Nhân dân kỳ thực gồm từng người, và đặc biệt trong chiến
tranh, mỗi người có sự thật riêng của mình, số phận vô cùng riêng của
mình. Tất nhiên là trong cuộc chiến chung mà ta khẳng định vì chính
nghĩa dân tộc, nhưng làm cuộc chính nghĩa là từng người lính với sự thật
và số phận rất riêng của họ.
Ở buổi bảo vệ tốt nghiệp, Bảo Ninh còn nói: Trong chiến tranh, người
cuối cùng không được lựa chọn gì hết là người lính trần, người chỉ có
độc một ngôi sao trơ trụi trên khuôn vải đỏ hình chữ nhật của cấp hiệu.
Quyền lựa chọn là của các cấp chỉ đạo, chỉ huy: hôm nay, trong trận
huyết chiến này, sử dụng đại đội A hay đại đội B? Trung đội 1 hay trung
đội 2 sẽ là lực lượng xung kích? Tiểu đội nào lên trước tiểu đội nào lên
sau? Tổ nào là tổ 1, tiếp sau mới đến tổ 2… Quyền lựa chọn đó của người
chỉ huy là số phận của người lính. Nó rơi xuống trên đầu người lính
trần, anh vào trận, hoặc anh nhanh tay hơn kịp chọc lưỡi lê sắc lạnh vào
đúng tim con người cũng trần trụi như anh ở bên đối diện. Hoặc con người
cũng vô danh và cũng hoàn toàn không có quyền lựa chọn đó nhanh tay hơn
anh một phần nửa của giây và kẻ bị chọc đúng tim là anh. Lạnh lùng đơn
giản là vậy…
Tôi đọc tác phẩm nổi tiếng Thân phận con người (La condition
humaine) của André Malraux viết về cuộc khởi nghĩa năm 1927 ở Thượng Hải
của những người cộng sản phối hợp Quốc dân đảng Trung Quốc, rồi lại phản
bội nhau, có cả nhân vật Tưởng Giới Thạch và Chu Ân Lai. Đọc đã lâu lắm,
hầu như đã quên sạch, nhưng lại vẫn nhớ một nhân vật phụ tên là Tchen.
Để có vũ khí cho khởi nghĩa, anh được phân công ám sát viên gác cổng của
đối phương, cướp lấy giấy tờ để tìm ra kho súng. Anh đã bí mật đâm chết
nó bằng một nhát dao găm. Malraux kể, điều khiến Tchen kinh hoàng đến
lạnh toát suốt xương sống là anh không ngờ thịt người lại mềm thế, trong
khi anh chờ đợi một kháng cự cứng rắn dữ tợn hơn nhiều của sự sống.
Chính việc giết một mạng người lại dễ dàng đến vậy khiến anh hoảng sợ,
sẽ ám ảnh cho đến chết. Mà chiến tranh, nói gì thì nói, bất cứ chiến
tranh nào, thì cụ thể cũng là người giết người. Tôi ở Tây Nguyên nhiều,
tôi biết dã thú như con hổ chỉ giết khi nó cần ăn để tồn tại, hoặc lúc
phải tự vệ. Người là con vật duy nhất giết vì những “lý tưởng” với lại
những “chủ nghĩa”…
Nhiều người hẳn còn nhớ sau kháng chiến chống Pháp, có lúc ở miền Bắc,
ta đã giảm gần tám vạn quân, chuyển một số đơn vị tạm sang làm công nhân
ở các nông trường, công trường. Tôi đã có thời gian gọi là đi thực tế ở
công trường xây dựng Khu Gang thép Thái Nguyên, cùng anh Xuân Cang vốn ở
Tổng công đoàn, và chị Lê Minh, con gái cụ Nguyễn Công Hoan cũng lên đây
vì có chồng là anh Diệp làm Phó Giám đốc công trường. Khu Gang thép Thái
Nguyên do Trung Quốc viện trợ, cực kỳ lạc hậu về công nghệ, máy móc toàn
là thứ thừa thãi vứt đi. Xây dựng một khu công nghiệp sắt thép hiện đại
mà hầu hết làm theo lối thủ công, công nhân đông lúc nhúc đến hai vạn
người, tuyệt đại đa số là lính chuyển ngành, cộng cả vợ con đến bốn vạn
người. Quản lý cả cái xã hội hết sức ô tạp vừa lính vừa nông dân, lổn
nhổn đàn ông, đàn bà, cả trẻ con đủ loại ấy là Tổng giám đốc Đinh Đức
Thiện. Ông Thiện là em ruột ông Lê Đức Thọ, nhưng
khác hẳn ông anh. Một vị tướng phóng khoáng, thẳng thắn, giản dị và
chân thật, quyết đoán mà rộng rãi, dễ gần. Ông rủ ba nhà văn đi thực tế
chúng tôi cùng ở chung, hằng ngày cùng ăn cơm, và ông đặt ra một quy
định nghiêm nhặt: suốt ngày lăn lóc bao nhiêu công việc căng thẳng rồi,
đến bữa cơm tuyệt đối cấm nói chuyện công tác nữa. Và đấy là cơ hội để
ông kể vô khối chuyện tiếu lâm và nói tục ghê gớm, bất chấp có chị Lê
Minh ngồi ở đấy.
Cái công trường kỳ lạ ấy đông và phức tạp đến nỗi nó có cả một tòa án,
và cái tòa án ấy đã mấy lần tuyên tử hình những công nhân nguyên là lính
nay phạm tội giết người. Hôm ấy lần đầu tiên tôi thấy ông Thiện vi phạm
chính quy định của ông trong bữa ăn. Mọi người bỗng im lặng khác thường.
Ông Thiện vốn quen có thói nói to, hôm nay ông nói chậm và nhỏ, gần như
thầm thì. Ông bảo: Ở đây có cậu Ngọc là lính, không biết đã lần nào trực
tiếp ra trận và tự tay giết người chưa. Cái cảm giác lần đầu tiên tự tay
giết người, nhất là đâm lê hay đâm dao, chứ không phải bắn súng từ xa,
là ghê gớm lắm, dù là giết kẻ thù vì chính nghĩa gì gì đi nữa. Nhìn
thằng lính mới giết người lần đầu, biết ngay, mất ăn mất ngủ, bơ thờ,
thất thần. Nhưng lạ thế, lại không gì dễ quen, dễ say bằng giết người.
Còn ham nữa là khác. Hóa ra con người là loài vốn nuôi sẵn thú tính
hoang dã… Cậu công nhân bị tử hình hôm nay là lính đã từng quen giết
người, đã coi giết người cũng thường thôi, gây sự với nhau một chút đã
có thể rút dao và ra tay… Nên nhớ từ nay ta sẽ phải sống trong một xã
hội như thế. Người thật sự từ chiến tranh trở về dẫu muốn đến đâu cũng
không thể còn là con người bình thường như trước nữa. Tớ cho ở đời khó
nhất là giữ được nguyên vẹn tính người tinh khôi, khôi phục tính người
sau khi đã thật sự đi qua chiến tranh…
Mà hồi đó mới là năm 1959, mới kết thúc chiến tranh chống Pháp được mấy
năm, còn chưa bùng nổ chiến tranh miền Nam khốc liệt gấp mấy.
Trong văn học Việt Nam theo tôi có hai cuốn sách đặc sắc về cuộc đấu
tranh cực kỳ khó khăn để giữ lấy tính người, Chuyện kể năm 2000 của
Bùi Ngọc Tấn là một, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là hai.
Sách của Bùi Ngọc Tấn là chuyện ở tù, nhưng không hề nhắc gì đến tra
tấn. Chỉ có một chế độ kiên trì từ ngày này qua
ngày khác quyết hạ nhục con người cho đến cùng, quyết tiêu diệt cho kỳ
sạch nhân cách người của họ, biến con người cho kỳ thành con vật. Suốt
mấy năm ròng, bằng mọi cách, họ cố trát bùn đen lên tâm hồn anh. Nhưng
Bùi Ngọc Tấn là một hiện tượng kỳ lạ của loài người. Không một chút bùn
nhơ nào thấm được vào anh. Thậm chí một chút căm thù đối với kẻ quyết
hại mình anh cũng không có được. Vẫn mãi mãi trong veo, nhân hậu,
mãi mãi thanh sạch như một sinh linh vừa ra đời. Bùi Ngọc Tấn là chiến
thắng tuyệt đối của cái Thiện, cái Đẹp, chống lại cái Ác, cái Xấu.
Trường hợp Bảo Ninh khác và có thể còn khó hơn. Bởi chiến tranh là lấy
cái Ác để diệt cái Ác.
Cho tôi kể một trận đánh chưa từng được biết đến trong một cuộc chiến
tranh nào khác. Bấy giờ, Mỹ dùng quân Nam Hàn làm lính đánh thuê, tập
trung chủ yếu ở Khu 5, từ Quảng Nam đến Khánh Hòa. Họ được giao một
nhiệm vụ duy nhất: tàn sát dân ở bất cứ nơi nào họ đến, để gây khiếp
đảm. Họ tràn vào các làng, và không vì lý do nào hết, giết sạch không
tha một ai, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con. Hồi bấy giờ ta xác định
đối tượng tác chiến trên chiến trường, thứ nhất là quân Mỹ, thứ hai là
quân Sài Gòn, không có tên quân Nam Hàn trong thứ tự đó. Nhưng sau khi
nhận ra ý đồ của đối phương, ta quyết định tập trung đánh một số trận có
tính chất cảnh cáo với quân Nam Hàn. Dữ dội nhất là trận diệt sạch một
tiểu đoàn Nam Hàn ở Đồi Tranh Quang Thạnh, Quảng Ngãi. Tư lệnh Chu Huy
Mân trực tiếp ra lệnh nghiêm khắc: Trận này tuyệt đối không được bắt tù
binh! Và lính ta đã chấp hành triệt để. Tên địch nào còn ngắc ngoải đều
bị đâm cho kỳ chết hẳn bằng dao găm, bỏ xác phơi lại trên trận địa. Còn
hai trận đánh quân Nam Hàn khác ở Quảng Đà, diệt sạch hai đại đội, cũng
đúng cùng một cách. Từ đó quân Nam Hàn thay đổi hẳn thái độ, chấm dứt
hẳn tàn sát bừa bãi, và thành trung lập. Quân ta hành quân sát đồn,
chúng đều để yên, chỉ phản ứng khi ta chủ động nổ súng trước.
Vâng, đấy là chiến tranh thật, cuộc chiến tranh đã bắt đầu vì chính
nghĩa dân tộc. Dù càng về sau nó đã lâm ngày càng sâu vào chiến tranh ý
thức hệ, biến thành một cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn…
Chiến tranh dù thường ồ ạt vậy, kỳ thực con người trong cuộc lại có lúc
rất cô độc, bơ vơ. Trong Nỗi buồn chiến tranh có một cảnh thật lạ
lùng. Trận đánh đã tàn, bóng đêm đã xuống. Trận địa chỉ còn những xác
chết ngổn ngang. Và chỉ còn sót lại hai người lính sống sót, một ở bên
này một ở bên kia. Hai con người bị cái chết của cuộc tàn sát điên cuồng
bỏ quên trên một thế giới không còn người. Họ bỗng muốn đi tìm nhau.
Nhưng họ nào đâu có biết tên nhau để gọi. Anh lính miền Bắc loạng choạng
lội qua những xác chết còn đẫm màu, thống thiết gọi: Ngụy ơi, Ngụy ơi,
mày đang ở đâu? Mày đang ở đâu, Ngụy ơi!… Cứ như tiếng gọi thảm thương
và tuyệt vọng song vẫn còn cố không để mất: Còn có con người không, hỡi
cái vẫn muốn được gọi là nhân loại?
Hai người lính Quân giải phóng và lính Sài Gòn,
N.N. |