Nguyễn Thúy Ái

 

 Tột đỉnh tình yêu

Tập truyện ngắn

 

Mc lc

 

1 - Bàn tay lạ

2 - Cơn giông

3 - Đêm thành phố đầy sao

4 - Một lần đi dạy kèm 

5 - Bạn trai 

6 - Tột đỉnh tình yêu  

7 - Về quê  ăn tết 

8 - Ông thổi kèn 

9 - Những món đồ gỗ

10 - Đôi lứa  

11 - Sau ly hôn    

12-  Đêm qua đi đâu   

13  - Trở  về Lệ chi viên

 

  

 

1

Bàn tay lạ

 

       Sau Tết, trong dịp họp mặt bạn bè, có một người bạn trai cũ chúc Phương hạnh phúc, Phương bảo cái đó có rồi chúc cái khác đi. Anh ta chúc cô trẻ đẹp mãi. Lời chúc này không thực tế vì nhan sắc là thứ rất mau phai tàn, nhiều khi chỉ một lần sinh nở, một cơn bệnh, một cú sốc hay một biến động nào đó trong cuộc sống là lập tức người ta xuống sắc ngay. Thêm nữa, thời gian bao giờ cũng là kẻ thù của sắc đẹp. Có người chúc cô phát tài. Phương nghĩ, vài năm gần đây mọi người giàu lên, hay mua sắm nên tiền vô nhà cô như nước, không cần phải chúc. Cơ sở sản xuất của chồng cô cứ như diều gặp gió. Còn cô, làm việc ở một cơ quan nhà nước nhưng tiền lương, tiền thưởng cũng tăng cao. Phương không nghĩ rằng có ngày mình giàu như vậy, cô có giỏi giang gì đâu, lại sống như trên mây trên gió, cũng thành tỷ phú như ai.

Giàu có kể ra cũng vui. Toàn từng bảo, muốn khỏi nô lệ tiền bạc thì phải gắng làm để có thật nhiều tiền. Nhưng có lúc nào Phương thấy mình nghèo đâu, kể cả lúc đi học phải mặc áo vá, đi xe đạp… Lúc nào cô cũng rộn rã cười vui khiến có người ngạc nhiên, sự nghèo khổ về vật chất không kéo được tâm hồn bay bổng của cô xuống. Bây giờ Phương đã nhận ra mình là kẻ bất thường về tâm hồn. Con gái đầu lòng của họ đã mười lăm tuổi, bạn bè nó tới chơi gọi Phương bằng “bác” khiến cô giật mình. Mới đây thôi, những cô gái trẻ cỡ đó vẫn gọi Phương bằng chị, bằng cô… Phương biết mình đang già, sắp già… Nhưng tự trong lòng lúc nào Phương cũng thấy mình rất trẻ, hay ấu trĩ thì đúng hơn. Tâm hồn cô đã dừng lại từ lâu ở tuổi mười tám đôi mươi. Toàn bảo cũng còn may, có người còn dừng lại ở tuổi lên tám kìa! Nhìn bên ngoài người ta có thể đoán được tuổi tác, những người cùng tuổi thì mức độ già trẻ gần như nhau nhưng mức độ trưởng thành bên trong thì rất khác nhau. Nếu không kiềm chế, suy nghĩ, nhiều lúc cô sẽ hành xử như một cô gái ở lứa tuổi mới lớn. Trong giấc mơ lúc nào Phương cũng thấy mình là một cô bé. Toàn cùng cư xử với vợ như vậy. Biết Phương không lớn được, anh thấy vui vui và cũng lo sợ vu vơ điều gì đó.

 

*

 

Mấy ngày nay đến cơ quan, các chị đồng nghiệp cứ nhìn mặt Phương là quở:

        - Chồng về có một tuần mà sao hốc hác thế kia?

Phương không thể giấu được sự hốc hác ấy dưới lớp son phấn. Mấy bà ở đây đều thuộc lớp đàn chị, từ bốn mươi trở lên, tuổi đó mấy bà tinh lắm, sắc lắm. Nhìn thoáng qua một cái là biết hết. Phương muốn kể cho họ nghe mọi chuyện nhưng kể ra thì kỳ.

Suốt đêm qua giấc ngủ chập chờn của cô đầy ác mộng. Sau một tháng đi xa về, đêm nào Toàn cũng yêu vợ, vuốt ve vợ một cách nồng nhiệt hơn bao giờ. Có lẽ anh tìm cảm giác ôm vợ trong vòng tay lành lặn… Trước đây việc yêu đương dày đặc ấy khiến cô dã dượi, mệt mỏi nhưng hạnh phúc. Còn bây giờ thì khác, cái bàn tay lạ có lông lá nhiều hơn mà Toàn mới “tậu” về, như lời nói đùa của một số bạn bè làm Phương co rúm khi nó bắt đầu đặt lên bụng cô. Mọi háo hức chờ đợi của cô bỗng dưng tan biến, nhưng sợ chồng thất vọng, mất vui nên cô vẫn để bàn tay lạ ấy lướt trên thân thể mình và sau đó khi chồng ngủ say cô lại nằm thao thức và len lén ngó xuống bàn tay mà Toàn đang duỗi ra thoải mái trên chăn nệm. Hẳn đó là bàn tay của một người đàn ông có dáng người thô đậm, da ngăm đen… Bàn tay ấy không thích hợp với dáng người cao ráo, trắng trẻo của Toàn. Phương nghiệm ra rằng hầu hết hình dáng, cốt cách bàn tay của mỗi người đều tương ứng với vóc dáng, tính cách của họ. Bàn tay nói rất nhiều về chủ nhân của nó nên thuật xem chỉ tay, tướng tay vẫn cứ tồn tại. Hồi mới ra trường được phân công về một cơ quan đóng xa thành phố, chưa hiểu hết môi trường mới, cô có một vài lỗi nhỏ trong sinh hoạt, và được gọi lên gặp một phụ nữ trong ban lãnh đạo, một phụ nữ lớn hơn Phương khá nhiều tuổi. Cô ngồi cúi gằm nghe chị ta kiểm điểm mình với giọng nói tình nghĩa ngọt ngào theo cách giấm được pha rất nhiều đường. Phương không dám nhìn vào khuôn mặt đẹp mà theo cô, khá phúc hậu và trắng trẻo. Thế nhưng, nhìn đôi tay của cô gái lớn tuổi ấy khi đặt trên bàn, Phương thấy lạ lùng làm sao: So với thân hình đầy đặn hấp dẫn, đôi tay ấy như của một người khác gắn vào, nó đen đúa, gầy quắt queo như những cành củi khô, móng tay để dài, chải chuốt nhưng cúp vào như những cái vuốt cú vọ hung hiểm khiến cô liên tưởng đến bàn tay của một mụ phù thủy… Sau này trong chuyên môn, Phương khá có uy tín, Thủy, tên người phụ nữ ấy mà không ít đồng nghiệp vẫn lén gọi sau lưng là “Phù Thủy”, tìm cách làm thân với cô, lôi kéo cô về cùng phe nhưng cô vẫn cứ sợ… Cho đến khi mọi việc bị đổ bể, Thủy bị kỷ luật, phơi bày ra bao nhiêu âm mưu ghê gớm để có một vị trí cao hơn trong cơ quan lẫn mưu kế cướp chồng của một người đàn bà khác…

Sau những suy nghĩ miên man cô thiếp đi. Trong giấc ngủ, bàn tay lạ ấy lại tiếp tục lần mò trên thân thể cô với những động tác ham hố thô bạo mà chưa bao giờ Toàn có. Cô hoảng sợ ú ớ khiến Toàn thức giấc, cô bảo em nằm mơ… Để khỏi bị ám ảnh bởi bàn tay lạ, ban ngày Phương tránh nhìn vào bàn tay trái của chồng, cô cố mường tượng lại cánh tay bị cụt ngày xưa của anh, một bàn tay không có ngón bị đứt hơn nửa vì tai nạn lao động. Toàn luôn mặc áo tay dài để che phủ bàn tay bị mất.

Khi nhận lời lấy Toàn, Phương bị mẹ cật vấn:

 - Sao có người lành lặn đẹp trai theo đuổi không lấy lại đi lấy một thằng cụt tay?

Phương đáp:

 - Mẹ ơi, người ta yêu đâu phải sự hoàn hảo mà còn vì cả sự khiếm khuyết.

 - Lãng mạn, lý thuyết… giống cha mày y hệt!

Nhưng cha Phương cũng không ủng hộ, bạn bè xì xầm, xem đó như là một sự thất bại của Phương. Thậm chí họ ác ý, tọc mạch cho rằng Phương bị “sao đó” nên mới lấy người chồng như vậy. Vì trước đây Phương có một mối tình với một người rất đẹp trai, có học vấn cao nhưng Phương đã chủ động chia tay và sau đó gặp Toàn. Người đàn ông lầm lì bí ẩn, ốm đến vêu vao đó đã cuốn hút cô. Nhưng hình như không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn vì Toàn thật cô đơn, khốn khó và thất nghiệp nữa. Cô nghĩ một người như vậy sẽ dành hết trái tim cho mình và những gì cô làm cho Toàn sẽ có ý nghĩa biết bao… Còn bạn bè Toàn thì lo ngại cho anh. Giữa lúc sa cơ, mất việc, mất tay lại cưới được một cô vợ trẻ măng, thân hình gợi cảm và duyên dáng đến mức bất cứ đàn ông nào cũng cảm thấy sẽ rất hạnh phúc khi được sống với cô. Phương vượt qua dư luận để lấy Toàn không mấy khó khăn. Nhưng cô lại thấy không phải dễ dàng khi sống với người đàn ông chỉ có một bàn tay, được âu yếm ôm ấp và dắt đi chơi chỉ bằng một tay. Dù được chồng yêu đương nồng nhiệt nhưng lúc nào cô cũng thấy thiếu. Có đủ hai bàn tay không chỉ là sự tiện lợi mà còn là vẻ đẹp hài hòa của con người, nhất là những khi cùng chồng đi ra ngoài. Mỗi khi gặp người quen, họ chào Phương mà mắt thì liếc vào nơi cổ tay áo trống của Toàn. Hoặc trong những cuộc gặp gỡ tiệc tùng, nhiều người đàn ông ghen tỵ với Toàn đã cố ý khoe khoang sự lành lặn khéo léo của đôi tay mình. Toàn không phải không nhận ra điều đó, anh đã bù đắp cho vợ bằng cách dồn tất cả sự trìu mến đắm say của mình vào bàn tay còn lại. Và dần dần Phương cũng quen với sự thiếu hụt ấy, bởi đó là một bàn tay ấm áp và rất mẫn cảm, mê say, biết dò tìm những kho báu cảm xúc trên thân thể vợ, lắng nghe được những nỗi ấm lạnh thầm kín nơi cô. Với một bàn tay, Toàn cũng làm nên cơ nghiệp. Từ thất nghiệp, ở nhà thuê, họ đã có nhà cửa đất đai… Nhưng cũng có lúc người ta nhắc đến cô, người phụ nữ có chồng cụt tay với sự ái ngại, vết thương ấy ở Toàn đã lành lặn từ lâu nhưng lại nhói đau trong cô. Giá mà Toàn có đủ hai tay, hạnh phúc của cô thật viên mãn. Có lần Toàn cũng lắp một bàn tay giả cho có vẻ thẩm mỹ hơn nhưng chỉ thấy nó vướng víu và Phương thì ác cảm với cái bàn tay bằng chất dẻo không cử động được và vô cảm ấy. Mỗi khi lỡ đụng vào nó là cô cứ giật thót người. Rồi chính Toàn cũng thấy nó vô dụng nên tự tháo ra.

Cơ sở sản xuất của Toàn ngày càng phát triển. Những món đồ gỗ trong nhà họ do Toàn thiết kế và làm bằng gỗ quý với những kiểu dáng độc đáo khiến nhiều người đến nhà chơi đòi mua với giá cao hoặc đặt làm cho họ một món khác tương tự. Mấy năm học ở trường mỹ thuật của Toàn cũng không đến nỗi hoang phí. Không đồng hành với cọ, với bố, với màu, anh đồng hành với gỗ, cưa, đục… Mỗi đêm nằm ngủ trong căn phòng có nhiều vật dụng bằng gỗ, Phương lắng nghe hơi thở của từng thớ gỗ, nghe cả hương thơm của đại ngàn còn vương vấn đâu đây. Cách đây hơn mười năm Toàn vay mượn và gom góp tiền lên Lâm Đồng mua một vạt đất lởm chởm sỏi đá gần núi để trồng rừng, nhờ gia đình một người anh họ sống trên đó coi ngó. Bây giờ mỗi lần lên thăm, cột võng nằm đung đưa và nghêu ngao hát giữa những tán lá mát rượi, Phương bảo chồng: “Ít nhất anh cũng đã trả lại cho rừng phần nào anh đã lấy đi của nó”.

Đi lại, giao thiệp nhiều, thiếu một bàn tay thật bất tiện, có vẻ giảm đi những giá trị đang có nên ai cũng khuyên Toàn nên đến bệnh viện nối một bàn tay khác, dư tiền tội gì phải để thiếu một bàn tay. Toàn nghe lời đến bệnh viện dò hỏi. Bác sĩ khám, làm thủ tục nhưng phải chờ đến lúc có ai chịu hiến bàn tay. Toàn chờ khá lâu. Người tự nguyện hiến chi rất hiếm, hoặc có thì người hiến già quá hay cơ địa không hợp với anh sao đó. Còn những người bị tai nạn biết không  thể qua được nhưng mấy ai chịu hiến một phần thân thể người thân của mình. Bảo vệ thân thể lành lặn ngay cả khi đã chết là một quan niệm đã ăn sâu vào tâm thức của khá nhiều người. Ngày xưa có những người dám cắt phần thân thể đàn ông của mình để trở thành hoạn quan, vào cung cấm làm những công việc dở hơi nhưng phần cơ thể bỏ đi ấy vẫn là “của quý”, được giữ gìn cẩn thận, ghi tên hẳn hoi để lỡ khi kinh thành có biến, họ nháo nhào tìm đến lấy lại để chết mang theo cho toàn thây. Sống không tiếc mà chết lại tiếc, thật quái gở. Chờ mãi vẫn không tìm được bàn tay thích hợp, có lần bệnh viện gọi anh đến làm thủ tục ghép chi nhưng đó là một bàn tay phụ nữ nên Phương không chịu. Cô rất ghét những người đàn ông có bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại như tay phụ nữ. Tưởng tượng đến bàn tay phụ nữ ấy vuốt ve mình cô nổi da gà. Một người bạn làm ăn của Toàn đi Trung Quốc thay thận về bảo bên ấy có thể thay bàn tay cho anh nhanh hơn. Toàn liên hệ được với bệnh viện bên ấy, anh làm một chuyến du lịch và nhân thể nối lại bàn tay… Một tháng sau Toàn về nhà với một bàn tay mới, trông anh hồng hào phương phi hẳn ra. Phương ngỡ ngàng nhìn bàn tay của chồng. Cô quan sát rất kỹ. Tất nhiên, tay của chồng mình mà. Các chuyên gia phẫu thuật đã cắt thêm một đoạn ngắn đến tận cổ tay rồi mới nối, vết nối rất khéo chỉ một vết sẹo mờ quanh cổ tay, Toàn đeo một cái đồng hồ che đi là xong. Thế nhưng không cần nhìn kỹ người ta cũng thấy nó khác bàn tay kia của Toàn, vốn gân guốc với những ngón dài hơi gầy. Bàn tay ấy của một người trẻ hơn Toàn hay ít ra mập hơn vì nó đầy đặn, da căng nhưng ngón tay ngắn hơn, thô và nhiều lông lá với những cái móng ngắn lồi lõm, đầu ngón tay nở to… Cô hình dung đó là bàn tay của một người đàn ông ít học, xấu xí khá thô lỗ, bàn tay ấy chắc từng đánh đấm người khác hoặc làm những việc mờ ám…

Bây giờ mỗi khi ra ngoài cùng chồng, Phương thoải mái hơn vì ít ai để ý đến bàn tay cụt của anh. Toàn lái xe chở cô đi, tự tin, trông Toàn cân đối, đẹp trai hơn. Nhưng khi đi sóng đôi, Phương luôn tránh đi phía có bàn tay ấy, nằm ngủ trên giường cũng vậy. Nhưng dù tránh gì cô cũng luôn bị ám ảnh rằng bên cạnh vợ chồng cô có bàn tay của một người lạ. Những lúc vợ chồng thân mật, say đắm nhất, quên thì thôi chứ nhớ thì cô ngượng nghịu vì có bàn tay lạ chứng kiến, tệ hơn nó cũng tham gia tích cực vào chuyện  ân ái của vợ chồng của cô. Dần dần Phương ghét nó, mỗi lần Toàn dùng bàn tay ấy chạm vào người cô là cô hất, phủi đi… Nhưng Toàn là người thuận tay trái, bao nhiêu năm giờ mới được dùng lại tay thuận theo bản năng, nhưng lại chưa quen nên còn vụng về. Phương cứ nghĩ, giá đừng có còn hơn, vì nó không phải là của Toàn, không hợp với Toàn chút nào. Tuy cũng bằng xương bằng thịt con người và được nuôi sống bằng máu của anh nhưng Phương thấy nó là một bàn tay giả, tệ hơn đó là bàn tay của người khác, từng có một đời sống khác với những hành vi mà cô không biết được. Cô thấy xa cách với chồng vì Toàn mang thêm một phần thân thể lạ, vá víu, gượng ép, giả tạo… Mỗi lần được Toàn ôm cô là Phương co rúm, thủ thế, đề phòng và muốn thoát ra. Tâm trí cô cũng căng thẳng để đừng nghĩ tới bàn tay đang vồ vập, vuốt ve lùng sục trên thân thể mình như một gã thợ săn ham hố, bạo liệt. Rồi Phương cay đắng nhận ra rằng những rung cảm say đắm giữa cô và chồng cũng giảm đi.  

Nhưng gần đây mọi chuyện lại khác, Phương có lúc hoảng hốt như bắt quả tang mình đang ngoại tình. Thôi chết rồi, cô thấy mình cũng tò mò, hồi hộp, đợi chờ nó tìm đến. Bàn tay ấy mang đến cho cô một cảm giác là lạ, rung động bất ngờ, xao xuyến nhưng không kém phần mãnh liệt của một người đàn ông khác mang lại …

Một lần cô làm món mì xào giòn với các thứ gan, tim, cật, lá lách mua ở gian hàng thịt heo ngoài chợ, những thứ Toàn vẫn thích… Anh ăn và bị dị ứng ngứa ngáy toàn thân, đặc biệt là bàn tay ráp nối ấy, nó sưng phù lên phải đi bác sĩ khám và điều trị. Các phần khác trên người Toàn khỏi nhanh, riêng bàn tay ấy lâu hơn, nổi đầy mẩn đỏ trông rất ghê sợ. Sau đó trong một lần đi nhậu với bạn, ăn đặc sản gì đó Toàn bị lại. Lần này anh còn bị nặng hơn. Chữa khỏi rồi anh kiêng khem đủ thứ, cũng không biết phải kiêng gì, chỉ ăn những món ăn không thấy phản ứng cho yên tâm. Nhưng bàn tay đó vẫn hay bị bệnh hay gặp tai nạn. Trời nóng nó cũng nóng hơn, trời lạnh nó cũng lạnh hơn, hay bị tê cứng, bị kẹp, bị đứt tay, hay lóng ngóng làm vỡ đồ. Có lần nửa đêm thức dậy, Phương thấy chồng ngồi gãi điên cuồng bàn tay ấy đến chảy máu, bàn tay nổi đầy những cục đỏ. Cô vội lấy kem Phénergan ra thoa cho Toàn nhưng cũng không bớt ngứa, nó cứ nóng bừng lên, anh chịu không nổi đòi nhúng vào nước sôi cho tuột da ra. Cô phải dùng cái nhíp nhổ lông mày của mình kẹp từng miếng bông gòn nhúng nước thật nóng chà lên. Toàn cáu bảo hôm sau sẽ đến bệnh viện tháo nó ra. Tưởng vợ sẽ an ủi, phản đối để anh dịu bớt bực dọc, nào ngờ Phương thủng thẳng nói: “Em thấy vậy còn hay hơn!”

 

Trở lại Mục Lục

        


 

Cơn giông

 

 

Mẹ Thăng là một người phụ nữ đài các nhưng yếu ớt, đau ốm quanh năm, lấy chồng gần sáu năm mới sinh được Thăng. Sau khi đi chữa hết thầy lang này đến thầy lang khác, không loại trừ những cuộc hành hương cầu tự đến những đền chùa, miếu mạo xa xôi. Sau cuộc vượt cạn đầy gian nguy suýt nữa mất mạng, mẹ không có đủ sữa cho Thăng nên bà nội chạy đôn chạy đáo tìm cho Thăng một bà vú. Vú Ơn có mặt trong nhà Thăng vào lúc đó. Bây giờ khuôn mặt vú còn in rõ trong ký ức của Thăng, làm sao có thể quên được người đã từng cho mình bú. Nhưng cũng nhờ Thăng mà vú Ơn nguôi ngoai nỗi đau mất con. Bà kể rằng, không hiểu sao cái làng quê nhỏ bé heo hút, nằm gọn trong một thung lũng ấy có gì hấp dẫn mà cuộc chiến tranh nào cũng rảo gót qua và để lại bao cảnh hoang tàn. Một hôm, lúc nửa đêm quả đại bác bắn ra từ cái đồn đóng trên trái núi ngất ngưỡng ở đầu làng để nã vào một cánh rừng ở cuối làng đã đi không tới đích, giữa chừng rơi đúng vào nhà vú Ơn làm nhà sập, bốc cháy. Chồng và đứa con nhỏ mới ba tháng tuổi của vú chết thảm, vú sống sót nhờ lúc đó bị đau bụng đang ngồi ở cái hố phân cuối vườn. Mất hết nhà cửa, chồng con, vú như người điên đi lang thang đầu làng cuối xóm với hai bầu vú căng đau nhức, sữa chảy làm ướt áo rồi lại khô, chồng chất nhiều lớp làm hai vạt áo bằng vải thô của vú dày lên như hai tấm mo cau. Bà nội Thăng gặp vú ngoài chợ huyện và động lòng thương, mua bắp nấu, bánh gói cho vú ăn và nghĩ đến đứa cháu đích tôn thiếu sữa của mình. Bà dỗ dành dẫn vú về nhà cho tắm rửa, an ủi vú rồi bế Thăng đặt vào lòng. Với bản năng làm mẹ, vú lập tức cho Thăng bú. Sữa của vú mát nên Thăng lớn nhanh như thổi. Khi sữa vú đã cạn, cũng là lúc gia đình Thăng sa sút nên bà cho vú ra đi với một số tiền nho nhỏ làm kế sinh nhai và có cơ hội tìm cho mình một người chồng để nương tựa.

Vú đi rồi, nhiều chuyện xảy ra với gia đình Thăng, ông mất, cha và chú út Thăng đi kháng chiến, cô Ba trốn đi theo một người đàn ông vì bà Thăng ngăn cản họ yêu nhau. Nhà rơi vào cảnh túng bấn, thất thế. Nhiều đêm chính quyền cho người vào lục soát nhà, cảnh đàn bà con nít sợ hãi nép vào nhau như đàn gà sợ đám quạ diều. Tấm ảnh duy nhất của cha Thăng để lại treo trên tường bà cũng lấy cất giấu tận đáy rương, thỉnh thoảng mới cho Thăng xem. Vốn là người đảm đang và quyết đoán, bà nội quyết tâm cứu cảnh nhà sa sút bằng nghề nấu mạch nha. Đây là nghề truyền thống ở quê Thăng nhưng sau này bị tàn lụi bởi cách làm ăn gian dối của nhiều người, thay vì nấu bằng nếp và mộng lúa, người ta nấu bằng gạo, lại là loại gạo dẻo do Mỹ viện trợ, chất trong kho đã lâu nên đã có sâu bò lổn ngổn, hôi rình mùi mốc, mùi bao. Có người còn nấu bằng khoai mì rồi độn vào mè, nào đậu phụng rang… Không còn giữ được mùi vị mạch nha tinh khiết nên dần dần món hàng đặc sản nầy ế ẩm, chỉ còn vài nhà làm cầm hơi mang ra chợ tỉnh bán cho khách qua đường. Bà Thăng vẫn giữ cách làm theo truyền thống chọn nếp bồ lem dẻo thơm nấu thành xôi, trộn với mầm lúa mướt rượt như những cọng giá, được phơi khô giã nhỏ. Hai thứ ấy ủ lại với nhau, nóng rực lên rồi nhuyễn ra thành thứ nước dùng đục như sữa, vị ngọt lợ. Bà và mẹ ép hỗn hợp ấy trong một cái bao vải, vắt lấy phần nước cốt rồi cho vào một cái nồi đồng to, loại nồi bảy, rồi nấu suốt ngày cho chất lỏng ấy đặc dần, thành chất dẻo có màu hổ phách và trở nên ngọt lịm, một vị ngọt thơm, dịu không gắt như vị ngọt đường và không bao giờ kết tinh. Rồi uy tín và học vị của ông nội Thăng, một người hiếm hoi trong làng đậu tú tài ở khoa thi hương cuối cùng của chế độ phong kiến đã thêm vào giá trị của món mạch nha ấy, cứu gia đình Thăng khỏi lúc túng bấn. Mạch nha bà Tú Đóa trở nên được ưa chuộng, người ta đặt mua để biếu xén, đi đám hỏi, đám cưới, mua đem tận ra Huế, gởi vô  Sài Gòn làm quà… Nhưng công việc dần dần quá sức những phụ nữ vốn không phải nông dân như bà và mẹ Thăng. Giữa lúc ấy, vú Ơn lại xuất hiện. Lần này ngó vú thật thảm hại, gầy đen, vác trên vai một đứa bé đang ngủ, mỏng dính và xơ xác như một miếng giẻ rách. Vú xin nhà Thăng cưu mang, nhưng mẹ Thăng, một người đàn bà còn trẻ đẹp có chồng ở xa, luôn bị đám đàn ông, đặc biệt là đám cán bộ chiến dịch xa nhà thèm nhỏ dãi như đám trẻ trước miếng mạch nha no tròn quấn trên đầu đũa. Mẹ Thăng đang ra sức bảo vệ tiết hạnh của mình nên sợ không dám tới gần những phụ nữ ngoại tình, chửa hoang, tránh họ như tránh hủi nên không đồng ý tiếp nhận vú Ơn. Còn bà nội Thăng với nửa lòng nhân hậu và nửa óc thực tế, lại là người có quyền lực cao nhất trong nhà đã nhận Vú vào như một người giúp việc, quả thực nhà Thăng đang rất cần một người như vú.

Hai mẹ con vú ở trong một gian chái nhỏ vốn dùng làm nhà kho sau bếp, nơi bà Thăng để lương thực dự trữ như bắp đậu, bí đao, bí đỏ, đường… Bây giờ nhà ít người, ruộng đất đã bán bớt nên căn nhà kho lâu nay chỉ để ủ mộng lúa làm mạch nha. Thăng là cậu chủ nhỏ chỉ lẩn quẩn ăn, ngủ ở nhà trước, trên những tấm phản bằng gỗ lim đen bóng, chạy chơi trong cái sân gạch sạch sẽ, bằng phẳng để khỏi vấp té. Thỉnh thoảng từ cái sân gạch, Thăng nhìn thấy con bé của vú Ơn tập đi trên cái sân đất sau nhà, khi vú ngồi xé những tấm thảm dày bằng mầm lúa để phơi, rễ chúng mọc kết vào nhau rất chặt. Khi biết đi, biết chạy chơi vững vàng đôi lúc cô bé mon men lên tận nhà trên, trố mắt nhìn Thăng múa may quay cuồng với cái gậy hay túm râu những con dế rồi chu miệng thổi phù phù để chúng hăng lên, đá nhau. Đôi mắt đen láy, lúc nào cũng như hỏi han, cứ nhìn Thăng như một người từ hành tinh nào mới đến. Ánh mắt đau đáu ấy sau nầy đã làm nhói buốt trái tim Thăng suốt đời.

Thăng không biết cô bé tên gì, mọi người gọi cô bé là “em” nên Thăng cũng gọi như thế. Dù bà và mẹ không nói gì nhưng Thăng biết giữa mình và Em có một bức tường vô hình ngăn cản. Thăng có thể chia cho Em một cái kẹo, một trái chuối nhưng lại không được chơi đùa thân mật với Em. Mỗi lần mò xuống nhà kho rủ Em chơi đùa thì bà tức tốc tìm Thăng, giao cho một công việc gì đó, như đuổi gà, dán nhãn vào những lon sữa bò rỗng để đựng mạch nha hoặc bắt ngồi vào bàn học bài. Thăng học xong tiểu học, mẹ muốn Thăng được học ở một ngôi trường trung học lớn nhất của tỉnh, đó là trường Trần Quốc Tuấn. Thăng phải khăn gói ra thị xã ở trọ nhà người bà con để thi vào trường ấy. Thăng thi đậu, đó là niềm tin khởi đầu để hai người phụ nữ đơn côi trong nhà Thăng ra sức làm việc, có niềm hy vọng, có mục đích để sống, khi cha Thăng bặt vô âm tín, người chú cũng vậy. Còn người cô ruột Thăng theo chồng xa đã chết non mà đến mấy năm sau bà và mẹ mới biết. Họ tin rằng Thăng sẽ thành đạt để gây dựng lại những gì đã mất. Dù qua nhiều biến cố, bà và mẹ luôn tự hào về gốc gác và nề nếp gia đình, riêng Thăng chỉ thấy tan gác, nghèo túng.

Học ở thị xã, thỉnh thoảng Thăng vượt đèo Eo Gió về thăm nhà để lấy gạo, tiền, Thăng thấy Em cũng đi học ở trường làng, có lần vú Ơn cho Thăng xem vở của Em, Thăng ngạc nhiên vì Em học rất giỏi, toàn điểm cao, hơn hẳn Thăng khi học ở đây. Nhất là trong vở Em có những hình vẽ rất đẹp, dù ở trường không hề dạy môn ấy. Nhiều lúc Thăng bắt gặp Em ngồi vẽ say sưa bằng những mảnh gạch non trên cái sân sau, giờ đã được tráng xi măng để phơi mộng lúa, vẽ xong rồi lại xóa vì sợ la rầy. Bà và mẹ Thăng có vẻ quý Em bởi em ngoan, biết thân biết phận nhưng vì một lẽ họ không gần Em được. Sau này Thăng mới hiểu vì Em là một đứa con hoang. Cái thành kiến ấy ở những phụ nữ gia giáo nhà Thăng khó mà phá nổi.

Nhà gần huyện đường cũ, nơi ông nội Thăng từng là một viên thư lại trong ấy, giữa những tòa nhà xiêu đổ, rêu phong. Những lối đi từng dập dìu xe ngựa nay cỏ mọc đầy, chỉ có những con bò lạc vào gặm cỏ. Những cục phân bò to bằng cái bát đổ ập lên phũ phàng những viên gạch cũ kỹ được chạm khắc công phu, lên những hoa huệ đất từng e ấp dưới những gót chân khuê các, trang trí cho một cuộc sống thư nhàn. Nhưng cảnh hoang phế tiêu điều ấy kích thích trí tuởng tượng phong phú của bọn trẻ ghê gớm. Vào đây chúng thấy mình như ở một thế giới khác, cao sâu hơn, huyền hoặc hơn cái thế giới bên ngoài. Thăng kể cho Em nghe những câu chuyện về ông, về cha mà Thăng được nghe từ bà. Ở đây, Em cũng cởi mở với Thăng hơn. Một cuộc sống đầy những chịu đựng, mặc cảm, khổ tâm, khiến tâm hồn của Em lớn trước tuổi. Dù học trễ vài năm nhưng lúc nào Thăng cũng lớn hơn Em một cấp học, Thăng vào cấp trung học đệ nhị thì em vào trung học đệ nhất cấp nhưng Thăng nói gì Em cũng hiểu, còn khôn ngoan hơn hẳn những đứa con gái học cùng lớp với Thăng. Mỗi lần về Thăng mua tặng Em sách, bút chì màu. Trả ơn, Em tặng lại những bức tranh nho nhỏ, nhìn vào Thăng thấy rờn rợn và linh cảm một tài năng đặc biệt ở Em. Một lần đi tắm sông, bơi qua cái cồn giữa sông để trốn mấy đứa bạn chơi, Thăng bắt gặp Em lang thang giữa bờ bãi đìu hiu. Thăng len lén đi theo sau lưng, khi gần sát “hù” lên một tiếng tiếng khiến Em giật bắn người. Đợi Em hoàn hồn, Thăng hỏi Em làm gì ở đây. Em bảo cảnh ở đây rất đẹp, Em ước gì ghi lại được vẻ đẹp của những nhành lau phất phơ trên đèo vắng, của những con cò đơn côi đứng ở cuối bãi và cảnh núi sông kề cận bên nhau. Em hỏi Thăng ý nghĩa tên con sông quê. Vệ là gì? Thăng chịu, nhưng Thăng rất yêu cái âm thanh đó. Em bảo Em cũng thế, sau này hãy gọi Em bằng cái tên ấy. Thăng không hiểu tại sao lại sau này. Vì đi học, tên cô bé ấy cũng giống như tiếng gọi quen thuộc ở nhà.

Cứ mỗi mùa hè là Thăng nao nức về quê, Thăng có đủ cách nói dối để thoát khỏi sự kiểm soát của bà, nào là đến nhà bạn, đi tắm, câu cá, vào rừng. Còn Em tuổi ấy có thể đi làm thuê như nhổ đậu, bẻ bắp. Thật ra Em cũng có làm nhưng làm thật nhanh rồi cùng Thăng lang thang khắp các bãi bờ, gò đống, bìa rừng. Hai đứa trẻ trốn nhà đắm mình vào cảnh thiên nhiên hoang dã, để thu vào mắt mình bao nhiêu là vẻ đẹp. Em đắm đuối cảnh thiên nhiên và bắt đầu có những bức ký họa đầu tiên. Em bảo mọi ý nghĩa đi qua đầu mình đều bằng hình ảnh và Em muốn vẽ lại nó. Những ngày hè ấy là thời gian sung sướng nhất, Thăng thấy mình như được tung bay giữa trời rộng, như con chim ưng xoãi cánh bên một con phượng hoàng. Chỉ cần được đi bên Em, nhìn thấy em, cảm nhận được hơi thở của Em thì dù bà và mẹ có nổi trận lôi đình đến đâu Thăng cũng dám đón nhận. Có lẽ những món ăn dân dã, thanh sạch của nhà quê cùng với những vích mạch nha vét nồi, uống thứ sữa từ nếp thơm, mộng lúa trong ngần khiến vóc dáng Em nuột nà, tóc mây óng ả. Và hồn của sông, khí của núi cùng với sương mù buổi sớm, gió hú buổi chiều hun đúc nên cho Em một tâm hồn đa cảm. Và hình như được gần những phụ nữ kiêu hãnh như bà và mẹ Thăng nhưng lại xuất thân từ tối tăm đã thôi thúc cho Em khát vọng hướng về ánh sáng. Tuy là con của một kẻ ăn người ở trong nhà nhưng nhờ được học hành và lấp lánh chút tài năng, được sinh sống trong ngôi nhà cổ kính, khuôn phép nên Em có được cốt cách đặc biệt tao nhã mà hoàn cảnh của em khó có được. Bọn trẻ yêu nhau bằng một tình yêu thơ dại, lung linh mà tự mình không ý thức được sự sâu nặng của nó. Nhưng từ trong vô thức Thăng cũng xem Em như đứa em, vì cả hai lớn lên trong một ngôi nhà, cùng bú với nhau một giòng sữa mẹ…

Có lần cả hai lên gò hái sim, đang say sưa tìm lặt những trái tim chín căng mọng tím than và ngọt lịm bỗng Thăng nghe một tiếng kêu rất lạ của một loài chim lớn, nhìn sang bìa rừng bên kia Thăng bắt gặp một cảnh tượng kỳ diệu, một đàn công ba con có hai con đang cùng nhau xòe đuôi ra múa. Thăng và Em không ai bảo ai nằm bẹp dưới gốc sim nín thở để xem, một con bọ bò lên gáy làm Thăng nhột nhưng không dám động đậy. Nhưng rồi một con công đi mất, điệu múa kể tiếp của hai con công còn lại là một điệu khác hẳn, của một con trống và một con mái. Chúng múa say sưa trong một vũ điệu ngây ngất men tình khiến Thăng nóng bừng cả người còn Em thì úp mặt xuống cỏ không dám xem. Chiều ấy khi trở về, một cơn mưa từ trên núi đổ xuống đuổi theo, hai đứa chạy thật nhanh, chạy đến đâu mưa đuổi theo đến đó, đến khi gặp được một cái chòi của những người giữ bắp bỏ trống thì cả hai đã ướt loi ngoi. Mưa mờ mịt, tạt vào trong lều, nhìn Em rét mướt, Thăng muốn ôm Em vào lòng, dùng môi lau khô nước trên khuôn mặt trắng ngà bê bết tóc của em, dùng tay sưởi ấm hai bầu vú nhỏ thanh khiết, tội nghiệp hằn rõ dưới làn áo ướt, run lên trong từng đợt gió mưa... Nhưng nền giáo dục nghiêm khắc của gia đình đã ngăn Thăng lại. Bao nhiêu năm sau Thăng vẫn còn oán giận sự ngoan ngoãn ngu ngốc ấy của mình. Sau này trong giao tiếp, khi ra nước ngoài Thăng gặp được biết bao phụ nữ rạng ngời, đáng say mê, và họ cũng say mê mình, trong những khung cảnh thơ mộng, ở những khách sạn sang trọng, nhưng  một cơ hội yêu đương huyền diệu như thế thì không bao giờ có lại trong đời. Một tình yêu không  thỏa lúc xuân thì đến giờ vẫn còn làm Thăng đau xót và không có gì bù đắp được.

Thăng học xong trung học, mẹ bán dần những món nữ trang quý giá cho Thăng vào Sài Gòn thi đại học. Tết năm đó, Thăng về Thăm nhà, vì xa Em quá lâu và vì ngây ngất trước những thành công đầu tiên trên con đường học  vấn nên lần về nhà ấy Thăng đã hớ hênh, không giấu được tình cảm của mình dành cho Em. Thăng mua cho Em rất nhiều quà, bằng những đồng tiền còm của một sinh viên nghèo, toàn là sách vền hội họa, những thứ Thăng lùng sục bao nhiêu ngày chủ nhật ở những chợ sách xôn trên vỉa hè Sài Gòn cùng với giấy bút cọ màu… Thăng quấn quýt bên Em, kể cho Em nghe về thành phố ấy, như một thế giới khác hẳn cái làng quê vây bọ bởi núi đồi, nơi nếp sống chỉ nương tựa vào thiên nhiên từ mấy trăm năm rồi dường như chưa thay đổi. Nghe Thăng kể, đôi mắt em rực sáng lên, hăm hở… Nhưng tất cả không  qua mắt được bà và mẹ Thăng. Bà lập tức gọi Thăng lên nhà trên, ngồi xếp bằng đối diện với bà trên bộ phản giữa, ngay trước bàn thồn tổ tiên. Cái bàn thờ rất cao, có  nhiều tầng nhiều lớp, có bộ lư đồng trên có chim hạc đứng trên lưng rùa với những bứ ctranh khảm xà cừ lấp lánh cùng những bức hoành phi câu đối toàn bằng chữ Hán mà Thăng chỉ hiểu mang máng qua lới giải thích của bà. Thăng biết đây là một cuộc nói chuyện nghiêm trọng. Bà phân tích cho Thăng nghe rằng, anh là người thừa kế duy nhất của dòng, vì ba và chú ruột Thăng ở ngòai Bắc không  biết sống chết ra sao, hơn nữa là một thanh niên gốc gác gia phong, có một tương lai đầy hứa hẹn nên Thăng không  thể lấy con gái một giúp việc trong nhà, đó lại là đứa con vô thừa nhận đến giờ cũng không  biết cha là ai. Bà chỉ nói vậy, không   yêu cầu Thăng phải suy nghĩ, phải trả lời. Không khí trong nhà chùng xuống, tối tăm, như có một đám mây nặng phủ kín bầu trời trước một cơn giông. Thăng biết bà không  nói gì với vú Ơn và Em. Nhưng họ, thân phận những người ăn nhờ ở đậu, vốn nhạy cảm với cách đối xử của chủ nhà, những người đã ban ơn cho mình, đã nhận ra sự thay đổi của hai người đàn bà cương quyết bảo vệ gia phong còn hơn bảo vệ sinh mạng của chính mình.

Lần sau Thăng về, vú Ơn và Em không  còn ở trong nhà nữa. Thăng đau đớn nhưng  không biết hỏi ai. Đó cũng là lúc chiến tranh đang thời kỳ khốc liệt nhất ở quê Thăng. Dân làng người chạy vô rừng theo Cộng sản, người chạy sang những vùng khác ít bom đạn hơn. Bà nội và mẹ Thăng thu dọn chạy ra thị xã, họ không mang theo lúa gạo mà mang theo bộ đồ thờ, nào lư đồng, những bức hòanh phi, câu đối. Ở nơi mới, họ thuê một mảnh đất hoang mọc đầy cò tranh ven thị xã, một căn nhà nhỏ bằng phên tre để sống qua ngày. Nơi đây họ lại tiếp tục làm nghề nấu mạch nha và lấy bả từ mộng lúa và nếp sau khi vắt hết nước cốt để nuôi heo. Gom góp những đồng tiền khó nhọc ấy gởi vào Sài Gòn cho Thăng ăn học. Ngày Thăng sắp ra trường cũng là lúc bà nội mất. Tình hình chiến sự chuyển biến nhanh chóng, chỉ vài tháng sau quê Thăng được giải phóng nhưng Sài Gòn thì chưa. Thăng phân vân không biết nên về hay ở. Mất liên lạc với quê nhà chưa đầy một tháng mà Thăng nóng ruột vô cùng. Anh thèm khát hơi mẹ và nôn nao biết mặt cha, người cha hơn hai mươi năm qua Thăng luôn mơ tưởng. Rồi Sài Gòn cũng được giải phóng, đất nước thống nhất, Khi xe đò đi lại thông thương ra miền Trung, miền Bắc, Thăng liều vọt lên xe về nhà. Thăng ngỡ ngàng nhìn mẹ, thay vì niềm vui đoàn tụ, đôi mắt bà u sầm ôm lấy con và nói “Hòa bình rồi đó con!”. Hóa ra người cha người cha vẫn chưa hiện diện trong nhà như Thăng nghĩ và anh còn biết thêm, cha đã lấy vợ khác, một phụ nữ miền Bắc kém ông hai chục tuổi, họ có với nhau hai người con. Trong nỗi đau ấy chính mẹ lại an ủi Thăng “Biết làm sao được, chiến tranh mà con, lâu quá…” Rồi Thăng phải trở lại trường đại học để học chính trị và nhập học. Lần sau Thăng về mới gặp được cha. Khi ấy gia đình riêng của ông chưa vào, ông sống ở cơ quan và sống luôn tại đó, nơi ông mới được bổ nhiệm về làm lãnh đạo. Thăng nôn nóng đạp xe từ nhà đến văn phòng gặp cha, khi đứng trước mặt ông rồi, anh không nói năng gì. Ông nhận ra con trai và lên tiếng trước “Thăng đó hả con?” Cha trong tâm tưởng của Thăng, qua lời kể của bà và mẹ quá đẹp nên không khỏi thất vọng khi đứng trước con người thật hiển hiện của ông. Dáng cha cao lớn nhưng không vững chãi, ông ăn mặc bèo nhèo. Nói chuyện với con trai nhưng ông có vẻ dè dặt, không mấy tin tưởng đứa con được dạy dỗ trong một xã hội khác. Sau này cha con có dịp nói chuyện nhiều hơn, Thăng càng ngạc nhiên vì một người trí thức như cha lại rất giáo điều, có phần cuồng tín nữa. Những suy nghĩ của ông cũng rập khuôn như nhiều người khác. Hình như cha không đọc được hết sự thông minh và nhạy cảm trước thời sự ở đứa con trai đã trưởng thành. Bao nhiêu năm qua, Thăng hướng về cha như cỏ cây hướng về ánh sáng. Không được cận kề người sinh thành ra mình nhưng nhờ cái bóng của cha mà Thăng được lớn lên, vững vàng trong từng bước đi, dù không được cha dìu dắt. Nhưng  giờ đây sao cha trông xa lạ, anh chỉ thấy mình thuộc về mẹ…

Dù sao nhờ cái lý lịch tốt và vị trí của cha nên khi ra trường đi làm, Thăng được cấp trên chú ý, cất nhắc. Con đường sự nghiệp của Thăng nhờ thế khá thuận lợi hơn một số bạn bè của anh…Theo sự định hướng của mẹ, khi dành dụm được những đồng tiền đầu tiên, Thăng nghĩ đến việc mua đất. Lâu nay anh sống ở một căn hộ do cơ quan cấp, trên tận tầng lầu thứ mười hai của một chung cư cũ. Thăng  hay nói đùa, sống gần trời nên nên lúc nào cũng mơ về đất. Cộng thêm với số vàng dành dụm lâu nay của mẹ chắt chiu nên Thăng xây được nhà, đưa mẹ vào sống với mình. Qua vài mối tình rồi Thăng cũng gặp được người con gái mình yêu và tin cậy để giao phó đời mình. Vợ Thăng là một phụ nữ trí thức, hiền thục, sinh liền cho anh hai đứa con trai nên mẹ Thăng rất hài lòng. Thăng thấy rằng mình đã thay cha bù đắp cho mẹ công bà nuôi con, chờ chồng suốt hơn hai chục năm trời.

Khi mọi việc tưởng đã vẹn toàn, công thành danh toại và tưởng đã quên những gì  không vui trong quá khứ, thì trong đám tro than của mối tình  thơ ngây xưa cũ, heo hút Em vẫn như một hòn than âm ỉ nóng bỏng trong lòng. Càng lớn tuổi, Thăng suy nghĩ nhiều về Em, không biết bây giờ cô ở đâu. Anh ray rứt vì không bảo vệ cô lúc ấy. Nếu cuộc đời Em trầm luân thì hạnh phúc của Thăng chẳng thể vuông tròn. Thăng luôn khao khát được gặp lại Em, dù chỉ một lần trong đời. Cứ thoáng thấy người phụ nữ hao hao giống là giật mình. Ở cơ quan, một dạo Thăng thấy một cô gái trẻ làm tạp vụ có khuôn mặt và đôi mắt khá giống Em, Thăng cứ lân la hỏi thăm về gia đình và cha mẹ của cô ấy. May mà không phải. Thăng vẫn đinh ninh rằng Em phải là một họa sĩ. Mỗi khi đọc báo, xem tivi anh hay để ý đến những nữ họa sĩ. Không  hiểu nhiều về hội họa nhưng thỉnh thoảng Thăng vẫn ghé vào những phòng triển lãm tranh, lân la ở những nơi bán tranh... Khi bớt bận bịu chuyện nhà, mỗi năm Thăng tìm cách về quê thăm mộ bà nội để dò hỏi tin tức của Em nhưng không ai biết. Giống như ngày xưa, Thăng một mình lang thang qua những bãi bờ hiu quạnh, những gò đống hoang vắng ở quê nhà với hy vọng em thấp thoáng đâu đó ở đầu sông, hay một triền núi, tay cầm đầy hoa dại, túi đầy sim chín. Ngang qua làng xóm, Thăng nhìn vào từng căn nhà tối tăm, tìm dấu tích của những bức họa… Cứ thế đến mấy năm trời Thăng không hề tuyệt vọng.

Cho đến một ngày, Thăng tình cờ đọc được một mẩu tin trên trang văn hóa-nghệ thuật của một tờ báo, giới thiệu cuộc triển lãm sắp tới của một nữ họa sĩ. Bài báo viết rằng đây là cuộc triển lãm đầu tiên nhưng  người nữ họa sĩ ấy gắn bó với hội họa đã lâu, đã từng làm nhiều việc khác chỉ để được vẽ, người suốt đời chỉ có một niềm đam mê duy nhất ấy. Và tên của người nữ họa sĩ, hay bút hiệu thì đúng hơn, khiến Thăng phải xem đi xem lại, vì nó trùng với tên con sông ở quê anh. Thăng tức tốc đến xem địa điểm, dù vài hôm sau nữa cuộc triển lãm mới khai mạc. Hôm đó, lẫn trong đám khách mời đông đúc đang chen vai thích cánh trước những bức tranh, tràn ngập hoa và những lời chúc mừng, sau khi nữ họa sĩ lên đọc một bài diễn văn nhỏ, cạnh người chồng ân cần và hai đứa con khôi ngô. Thăng từ xa đứng nhìn, bồi hồi như chìm đắm vào cõi xa xăm. Thời gian đã lấy đi vẻ non tơ nhưng lại thêm cho người phụ nữ ấy vẻ chín muồi, nồng nàn. Trong chiếc áo dài tím cách điệu, giản dị và hơi có vẻ xuề xòa, hầu như không trang điểm, Em vẫn lồng lộng một thứ nhan sắc khác, mà người ta hay gọi vẻ đẹp bên trong. Thăng phải kiềm chế hơi thở, anh hồi hộp e rằng nếu mình thở mạnh thì Em sẽ tan biến mất. Một cử chỉ từ vô thức, Thăng đưa tay lên cằm, như ra vẻ suy tư, để che bớt một phần khuôn mặt của mình. Giữa bao cảm xúc mạnh mẽ, điều tràn ngập trong tim Thăng chính là, qua bao thăng trầm, Em vẫn là Em, trong sự phát triển sung mãn từ chính nội lực của mình.Từ một cái cây con yếu ớt, phải chống chọi với sương giá, nắng hạn để lớn lên, nay đã hoa trái đầy cành. Nhưng trong cái vẻ chững chạc của một phụ nữ viên mãn ấy, vẫn lấp lánh ngọn lửa ngày nào, ngọn lửa chất chứa những khát vọng, trăn trở…

Thăng cố lẫn vào đám đông, khi Em đi bắt tay những người khách quen, anh nuốt vào lòng bao quay quắt, yêu dấu nén chặt trong lòng suốt nhiều năm qua, chỉ chực tan chảy, tuôn tràn cho thỏa. Và Thăng chợt nhận ra, dù người phụ nữ ấy đứng ở góc nào trong phòng tranh, trò chuyện với ai thì người chồng cũng luôn liếc nhìn về vợ. Em đáp lại bằng một nụ cười nồng ấm kín đáo và chắc hẳn luôn làm mê hồn người đàn ông ấy.        

 Những bức tranh đóng khung trên tường kia, hầu hết là tranh vẽ phong cảnh, loáng thoáng Thăng nhận ra sông núi quê nhà và cái ngả ba sông gợn sóng, buồn thảm. Em từng hay ngồi trên cái mố cầu của chiếc cầu dài mỏng manh bị mìn và những trận lụt tàn phá, gãy làm đôi rồi gãy làm ba, sau này chỉ còn hai nhịp sát đầu cầu và vài nhịp đứng chôn chân chơ vơ ở giữa sông, để dòng nước chảy qua, quấn quýt… Nơi ấy, Em hay ngồi dõi mắt nhìn nước chảy hàng giờ không  chán.

Quá khứ dấy lên mãnh liệt, nhưng thay vì tiến đến bên Em, ôm lấy Em, tự nhiên Thăng đi thụt lui. Khi bắt gặp mình như thế, Thăng đã ra đến cảnh cửa của đại sảnh rồi quay lưng bước thật nhanh ra bãi để xe.

Trở lại Mục Lục

 

2

 


3

Đêm thành phố đầy sao

  

Mỹ, bạn thân của Hoa có lần đưa chồng con đến thăm, cho một con chó con và cảnh báo :

- Bồ chưa có chồng mà làm việc trong cao ốc văn phòng, sống nhà chung cư là coi như ế suốt đời. Sống hoài giữa bê tông cốt thép người ta cũng dễ trở nên khô cứng và lạnh lẽo lắm!

Lời nói ấy bắt đầu ám ảnh Hoa, làm bộ lạnh bên ngoài vậy thôi chứ bên trong cũng nóng ruột lắm rồi, ngày tháng cứ trôi vùn vụt. Ở cơ quan còn nhiều đứa ngoài ba mươi chưa chồng, chưa có người yêu. Mà bọn nó nào kém cỏi gì, có đứa còn thuộc loại tài sắc nữa là đằng khác. Có mấy bằng đại học, nói tiếng Tây, tiếng Tàu như gió, đi nước ngoài như đi chợ, xài tiền như nước nhưng vẫn không kiếm được một nửa của mình. Trong cơ quan không thiếu đàn ông, nhưng bọn nó hay chê. Sao cũng chê, người xấu trai, bần tiện bị chê đã đành, còn người đẹp trai hay quá khéo cũng bị chê. Nhưng bị chê nhiều nhất vẫn là những chàng bị quy kết là “bóng”. Mà Hoa thấy cũng lạ thiệt, hiện tượng “pê đê” hồi trước cô thấy hình như chỉ có tầng lớp bình dân bây giờ thì đâu cũng có. Má cô bảo ngày xưa chuyện ấy rất hiếm. Hay là cuộc sống đô thị chật hẹp, phải sống và làm việc giữa bốn bức tường, xa rời thiên nhiên nên giới tính người ta cũng bị biến dị đi. Nhiều khi chính cô mải lo học hành, thăng tiến, làm việc căng thẳng nên cô cũng thấy ít nữ tính hơn mẹ mình. Ba mươi tám tuổi mà Hoa vẫn sống độc thân, mọi người không bảo cô kén nữa mà bảo cô khó, nhiều lúc Hoa lục vấn mình và thấy họ nói có phần đúng. Mọi cái trong nhà để vị trí nào thì cô luôn muốn thấy nó phải có ở vị trí đó, mấy đứa em lấy dùng để chỗ khác là cô la. Giờ nào việc ấy. Sau mười một giờ đêm ai mở tivi cô rất ghét. Với cô đàn ông phải ra đàn ông, đàn bà phải ra đàn bà. Hồi đó có lần bà dì giới thiệu cho Hoa một người đàn ông, ai cũng bảo đạt hết mọi điều… Cô thấy anh ta cũng không có gì để chê nhưng chỉ vì anh hay đeo một sợi dây chuyền to tướng ở cổ khiến cô ngứa mắt quá nên nhất định không ưng. Sau nầy đọc sách cô mới biết mình vì kiến thức không tới nên đã nhận thức sai. Trong âm có dương, trong dương có âm. Ở người đàn ông nào cũng có một chút đàn bà và ở người đàn bà nào cũng có một chút đàn ông, chỉ khi nào cái phần giới tính tầm gởi ấy phát triển lấn át cái phần chính thống thì mới có vấn đề. Rồi khi má cô qua đời, không muốn bọn em trai, em dâu và đám cháu xem mình là bà cô trong nhà nên Hoa quyết tâm dành dụm thêm tiền để ra ở riêng. Để an toàn, cô mua căn hộ trong một chung cư mới xây thuộc loại cao cấp.

Khỏe! Hoa cảm thấy như thế khi cô có một cõi riêng, được sống theo trật tự, giờ giấc, thẩm mỹ của mình. Đi làm về đọc sách, nghe nhạc, chủ nhật rủ bạn về nấu món gì ăn… Mình không làm phiền ai và cũng không ai làm phiền mình. Và với phương tiện liên lạc đầy đủ, nào điện thoại nhà, điện thoại ở cơ quan, điện thoại di động và có cả một địa chỉ email trên mạng internet nên dù sống, làm việc trong “cái hộp” chất ngất trên tầng cao Hoa thấy mình cũng đâu có bị cô lập. Nhớ lần đầu máy vi tính của cô được nối mạng Internet, nhìn biểu tượng trái đất quay tròn cô sung sướng hãnh diện thấy mình nối kết được với cả thế giới. Cô email cho bạn bè, họ hàng ở nước ngoài liên tục và nhận được email của họ. Sau đó cô chán cái trò chơi nầy, những giòng chữ không dấu trên trang giấy ảo nó chỉ chuyển tải được một ít thông tin nhưng không thể diễn tả được tình cảm của mình như một lá thư viết… Nhưng rồi cũng chẳng ai rảnh gởi mail cho Hoa mãi. Cô nhớ cho đến lúc suốt đời má cô vẫn giữ được những lá thư vàng ố của bạn bè thân thời trẻ và những lá thư tình ba cô gởi lúc theo đuổi bà …

Cho nên Hoa chỉ thấy thoải mái được một thời gian đầu, dần dần cô mới thấm thía khi sống một mình cũng không dễ dàng chút nào, dù là sống trong một chung cư đầy đủ tiện nghi. Căn hộ của cô ở tầng thứ sáu, đi thang máy. Hàng ngày đi lên đi xuống, gặp đi gặp lại bao nhiêu người, rất quen mặt nhưng rất ít ai chịu mở miệng chào hỏi nhau bởi thời gian ngắn ngủi và vì người ta căng thẳng hơn khi đi thang máy. Dãy hành lang sạch bóng, vắng lặng và hun hút, ai đi làm về cũng lập tức chui vào cái “lô cốt” hiện đại của mình và đóng cửa lại. Những cư dân ở đây đều quá văn minh lịch sự, không làm phiền nhau nhưng cũng chẳng mang đến niềm vui gì cho nhau. Tết vừa rồi có một việc ghê sợ đã xảy ra. Từ ngày ba mươi mọi người nghe một mùi hôi nhưng không xác định được là ở căn hộ nào, cũng không ai dám gõ cửa từng căn để hỏi, người nào cũng cho rằng chắc có một con chuột cống bị chết, kẹt ở đâu đó. Qua ngày mùng một, mùi hôi thối càng nồng nặc nhưng ai cũng kiêng kỵ vì ngày đầu năm mới thiêng liêng nên ráng chịu đựng, đóng kín cửa cố thủ trong nhà mình. Qua ngày mùng hai, khách khứa lục tục kéo tới thăm và mùi thối đến mức không còn chịu nổi người ta mới báo cáo với công an phường đến phá khóa cửa một căn hộ được xem là nơi xuất phát của mùi hôi ấy và xác chết của một phụ nữ bắt đầu thối rữa được tìm thấy trong phòng ngủ của căn nhà. Sau khi cái xác được mang đi, cơ quan y tế đến tẩy trùng… Những nhà gần đó phải đi sơ tán hết, không dám ăn tết tại nhà. Gần một tuần sau thân nhân của người phụ nữ xấu số đi du lịch nước ngoài về, mới hay người thân mình đã chết vì khi họ đi cũng không cho ai biết, không thèm báo với chính quyền địa phương họ đến những đâu. Sống trong thời đại thông tin mà người ta chết chỉ vì tự cô lập mình. Cũng may gia đình ấy sống êm ấm, nạn nhân chắc là bị ngất, bị trúng gió nhưng không có ai bên cạnh cứu kịp, chứ không Hoa thấy nó như những bi kịch gia đình mà cô nghe hoặc xem từ những bộ phim của Anh, của Mỹ. Cô bắt đầu lo sợ, sống một mình và chết một mình. Cô đã đọc ở đâu đó, người ta nói rằng đặc điểm và hạnh phúc của con người chính là sống theo bầy đàn. Xã hội bây giờ đông đúc hơn nhưng bầy đàn tan rã dần, chỉ còn lại từng gia đình hay từng người rời rạc… Trước đây khi còn ở chung, mỗi khi đi làm về, giúp em dâu làm việc nhà, trò chuyện, bồng bế hay la mắng một đứa cháu khiến cô cảm thấy mình được cân bằng… Còn bây giờ tuy thảnh thơi, không có ai để cáu kỉnh nhưng cô luôn bứt rứt và u uất. Nhờ có con chó Hoa cũng thấy đỡ buồn, nó nhỏ nhắn, xinh xắn như món đồ chơi. Việc đầu tiên là cô huấn luyện cho nó biết đi vệ sinh đúng chỗ, nếu không cô có thể bị hàng xóm kiện và bị truất quyền nuôi chó, vì từng có vài chuyện như thế xảy ra nên ban quản lý chung cư ra quy định trên và được mọi người đồng ý chấp hành. Con chó làm mất thời gian và làm phiền cô hơn là niềm vui, nhưng đã quen có nó cô không nỡ đem cho ai, dù có lần đứa cháu theo ba mẹ nó đến chơi đã mê mẩn nên bồng trộm về nhà, Hoa lập tức qua nhà đổi một món quà để mang chó về. Con chó nầy có cái thú ỉa bậy, dù có dỗ ngon dỗ ngọt hay trừng phạt nghiêm khắc tới đâu nó không bỏ được cái tật nầy. Cứ mở cửa mà quên đóng lại ngay thế nào nó cũng lẻn ra, làm bậy đâu đó giữa hành lang hay trước cửa một căn hộ và lập tức cô bị gọi ra “làm nhiệm vụ”, vì ở đây ai cũng biết cô nuôi một con nhỏ rất xinh nhưng cũng rất “mất dạy”. Có người thông cảm, nhẹ nhàng nhắc cô, cũng có người rất gay gắt, như người đàn ông mới đến sống gần căn hộ hơn nửa năm nay, khá đông con mà hình như góa vợ.

Hoa bắt đầu âm thầm chơi trò tìm bạn bốn phương, cái trò có lúc cô cho là nhảm nhí. Thư qua thư lại mấy tháng cô luôn nhận được những lá thư “trật chìa”, lợt lạt. Hoa đã có một mối tình, suốt mấy năm sinh viên bên nhau thế mà còn nhầm lẫn huống hồ tìm ai tận phương nảo phương nao. Mấy đứa làm cùng phòng bày cô vào mạng internet tán gẫu để tìm bạn. Khi chat, cô thấy vui vui nhưng ở đây hầu hết quá buồn tẻ không có niềm vui thật nên người ta phải tìm những niềm vui ảo. Có lần cô gặp một người đàn ông tự xưng là “ông già khó tính”, cô cũng xưng là một “bà già khó chịu”. Cả hai hẹn nhau trên mạng chat với nhau được mấy lần. Việc nầy làm Hoa nhớ hồi đi học viết giấy ném qua ném lại trong lớp. Viết để chọc nhau, để tỏ tình rồi khều bạn nhờ chuyển, nơm nớp sợ thầy cô phát hiện, hoặc kẹt lại trong tay một đứa quỷ quái nào đó, giờ ra chơi nó tung toé ra cho cả lớp biết. Chat bây giờ chỉ có biệt danh, những nickname nửa tây nửa ta, trong một không gian ảo, danh xưng ảo, không ai biết mình già trẻ đẹp xấu ra sao. Tất cả đều ảo. Nhưng có một điều không thể ảo, đó là ngôn ngữ khi chat, nó luôn miêu tả chính xác về tính cách, nền tảng văn hóa của người chơi. Qua những lời trao đổi trên mạng nửa đùa nửa thật, Hoa nhận ra “ông già khó tính” là một người sâu sắc, có học vấn và hơi khinh bạc, bởi cô từng gặp những lời lẽ hết sức thô bỉ khi chat. Sau một thời gian liên lạc, yên tâm đó không phải là kẻ “khủng bố” cô mới cho địa chỉ email… Nhưng cũng không có chuyện gì để gởi thư cho nhau nhiều, không có chung một quá khứ, cũng không hướng chung về tương lai thì biết nói gì. Có lúc cô chỉ đọc nhưng không trả lời… Hoa kể chuyện nầy cho mấy đứa bạn nghe, nó bảo cứ cho số điện thoại đi, rồi hẹn gặp, nếu thấy ông ta… sạch sẽ, có cảm tình được thì tiến tới hôn nhân càng tốt, nếu không cứ quan hệ cho biết “mùi đời”, lỡ có một đứa con thì nuôi. Phụ nữ bây giờ có quyền làm mẹ mà không cần có chồng. Ôi, tụi nó táo bạo quá. Nhưng cô cứ hình dung ra bây giờ, cuộc sống của cô có một đứa con là cả một sự cứu rỗi. Cô sẽ không còn phải sống cô quạnh, có một người để chăm sóc thương yêu, hy vọng, nương tựa, cô sẽ thoát ra khỏi sự nhàm chán hiện tại. Có con, cô sẽ không còn lẻ loi, chủ nhật sẽ dẫn nó công viên chơi đùa chứ không phải đóng kín cửa, náu mình trong cái hang động văn minh nầy nữa. Nghĩ vậy Hoa ngồi bật dậy mở máy vi tính, cả tuần nay bận rộn cô chưa kiểm tra xem có ai gởi mail cho mình không. Lần này dù anh ta không gởi cô cũng viết, cô sẽ gởi một lá thư thật tình cảm kèm cả số điện thoại nhà với một quyết tâm lớn là được gặp người đàn ông ấy, cô cần một con người thật chứ chán cảnh gặp gỡ trên không gian ảo nầy lắm rồi. Cô say sưa gõ chợt có tiếng đập cửa rầm rầm, cô đứng lên mở cửa. Thấy mặt ông hàng xóm là cô nghĩ ngay đến con chó ỉa bậy, chắc lúc này mở cửa để đóng tiền an ninh quốc phòng gì đó cho ông tổ trưởng dân phố nên nó lại lẻn ra mà cô không hay. Lấy cái hốt rác, lấy giấy ra dọn nhưng cô vẫn bực, người gì mà khó chịu. Con chó mấy bữa nay táo bón cứ như cứt dê, dọn một loáng là xong. Con chó lại chạy ra cô mắng mỏ nó mấy câu, quay lại thấy ông ta vẫn đứng ở cửa, ngó chăm chăm vào màn hình máy tính cô để cạnh cửa, có một điều gì đó chuyển biến mạnh trên sắc mặt ông ta, sắc mặt của kẻ tìm ra chân lý.

 

***

 

Từ ngày biết ông ta chính là kẻ hay chat với mình, cô không còn hứng thú lên mạng nữa, một con người trông nhàm chán thế mà cũng đi chat. Cũng may lá thư điện tử ấy chưa kịp gởi đi, cô đã xóa nó ngay lập tức. Mỗi lần thấy ông ta là cô xấu hổ, người đàn ông xa lạ mà có lúc cô đã phơi ra những ngõ ngách tối tăm của lòng mình. Một tuần sau ông ta gõ cửa, trên tay là một bể cá cảnh nhỏ và lỉnh kỉnh thức ăn cho cá. Cô mời vào, ông ta trình bày là sắp đi công tác Đà Nẵng nửa tháng, nhờ cô chăm sóc hộ mấy con cá. Cô ngắt lời “Ủa mấy đứa con của anh đâu?”. Ông ta bảo đó không phải là con mà là mấy đứa cháu, nó vào trọ học hè đã về quê rồi. Rồi ông ấp úng nói thêm, tôi cũng có một đứa con nhưng mấy năm nay nó sống với mẹ ở một thành phố biển ngoài Trung, vì mẹ nó tha thiết muốn được nuôi nó, thỉnh thoảng tôi mới ghé thăm. Ông chỉ nán ít phút bày cô tăng cường ôxy cho cá bằng cách cho ít nước vào cái chai rồi súc mạnh xong đổ vào bể. Họ không nhắc gì chuyện đã làm quen với nhau trên mạng. Xem như nó không hề xảy ra.

Hoa kể tiếp chuyện này với Mỹ, nó bảo “Càng tốt, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.” Ông ta về sang nhận lại cá, cảm ơn và đưa quà cho Hoa, thỉnh thoảng cũng sang nhà cô trò chuyện, mượn báo đọc. Hoa hy vọng như lời cô bạn, nhưng cả nửa năm qua lại cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Hoa cho rằng có lẽ lửa ở người đàn ông ấy quá yếu còn cô là loại rơm… ướt nên chẳng thể bén được. Cô phì cười nhớ có lúc đã từng mơ ước có con với người đàn ông đó. Bây giờ cô cũng không muốn có con với ai hết. Ừ, cô có quyền làm mẹ nhưng đứa trẻ con nào cũng có quyền có cha, lớn lên nó sẽ hỏi cha đâu, nó có thể kiện cô khi để nó ra đời trong một nỗi khó khăn, khiếm khuyết tình cha con. Nó sẽ vào đời ra sao khi mang tiếng là một đứa con hoang …

Một buổi chiều oi nồng, Hoa ngồi ăn cơm một mình, quạt máy quay vù vù. Máy điều hòa nhiệt độ giờ không đắt nhưng nghe nói tốn điện lắm nên Hoa chưa dám sắm. Ở đây ngoài tiền điện, nước, gas, điện thoại, Internet còn phải trả tiền thang máy, tiền gởi xe, chi phí cho ban quản lý, cho người làm vệ sinh chung cư hàng tháng cũng tốn bạc triệu. Mới đây cô còn mua bảo hiểm nhân thọ nữa chứ, đủ thứ bảo hiểm nhưng cuộc sống dường như không mấy bình an. Dân thành phố là vậy, phải chi trả đủ thứ, bị thuyết phục mua những món hàng mà người ta không nhìn thấy, không cần thiết. Có vài người bạn cô lâu nay thất nghiệp, giờ đi bán hàng đa cấp cứ đeo bám lấy cô gần như cưỡng ép cô mua những loại thực phẩm chức năng nghe như thuốc thánh, bán với giá trên trời. Mất một số tiền không nhỏ với những lọ “thuốc tiên” ấy Hoa mới biết mình bị lừa. Nhưng cô sẽ không đau nếu chuyện lừa đảo đó từ người xa lạ. Trời đất, bạn bè mà cũng lừa nhau để kiếm tiền! Suy nghĩ miên man chợt nhìn dưới chân không thấy con chó đâu, cô lại lo con chó của mình ra ngoài làm bậy. Vừa mở cửa cô đã thấy khói và mùi khét khét. Quả là lâu quá không nhìn thấy khói. Dùng bếp gas, ấm điện, lò vi ba không có khói đã đành, để phòng cháy, trên bàn thờ cha mẹ cô cũng thắp nhang điện, đèn cầy điện nên phải mất một giây cô mới định thần rằng hẳn phải có một cái gì cháy gần đây mới sinh ra khói. Cô đưa mắt tìm kiếm và thò đầu nhìn xuống mấy tầng dưới, thấy đám người từ dưới đất lao xao chỉ chỏ nhìn lên cô nhận ra có cháy từ căn hộ ngay dưới nhà mình. Cô run lên, không cần suy nghĩ cô đập cửa nhà ông hàng xóm.

- Anh Khắc!

Anh ta mở cửa, thò đầu ra.

- Cháy !

- Ở đâu?

- Nhà bên dưới.

Ngay lúc ấy điện cúp tối thui, Hoa càng run, khói bắt đầu tuôn lên mù mịt. Họ vào nhà lấy bình chữa lửa. Anh ta lại qua phòng cô bảo đã gọi điện thoại cho phòng chữa cháy, họ biết rồi. Bấy giờ những người chung quanh mới hay nháo nhào không biết chạy đi hay vào nhà mang cái gì. Hoa bỗng hỏi:

- Mang gì theo… anh?

- Mang cái gọn nhất, giấy tờ, tiền… nhanh lên sợ không kịp…

Cô tóm con chó nhỏ, mang được một chiếc valy sau khi nhét thêm mấy món quan trọng rồi sập cửa chạy theo anh ta. Với chiếc váy ngủ không có nút, chỉ vắt chéo qua người, có một sợi dây to bản cột thắt giữa cái eo, cũng không có áo nịt ngực bên trong, hai bầu ngực căng đầy cứ rung lên theo nhịp bước mà Hoa không có cách nào để che chắn. Họ bổ xuống được bên dưới bằng cầu thang bộ, đúng lúc đoàn xe chữa lửa cũng vừa đến hụ còi inh ỏi. Chỉ mười lăm phút sau đám cháy được dập tắt, chủ nhà vẫn chưa về và chưa cháy lây qua những căn hộ khác. Chỉ là một vụ cháy nhỏ nhưng nỗi ám ảnh về tòa tháp đôi bị khủng bố bên Mỹ ngày 11-9 và hình ảnh những người rơi từ từ trên lầu cao xuống đất với cả nghìn người chết. Trong vụ cháy cháy tòa nhà ITC ở khu trung tâm Sài Gòn với hàng trăm người chết thảm mà lẽ ra có thể cứu được khiến mọi người run sợ. Gần một giờ sau, thấy đã an toàn, những chiếc xe chữa cháy lần lượt rời sân. Hai người hổn hển leo lên, tòa nhà chìm ngập trong bóng tối, dãy hành lang lênh láng nước. Hoa phải bám vào cái dây nịt ở lưng Khắc để khỏi trợt ngã và vẫn còn run, anh ta vừa xách chiếc cặp da của mình vừa xách valy cho cô, Hoa chỉ bồng con chó. Trong đầu cô hiện lên hình ảnh một gia đình. Giống một đôi vợ chồng quá, một khoảnh khắc giống như hạnh phúc vụt lóe lên trong cô rồi lụi tắt cũng nhanh như thế. Khắc vào nhà mình lấy quẹt gas và đèn cầy sang thắp lên cho cô. Hoa chợt nhớ ra:

- Anh ăn cơm chưa?

- Chưa…

Cô lấy đồ ăn dự trữ trong tủ lạnh, bật bếp gas hâm. Thật ra cô không còn muốn ăn nhưng có lẽ anh ta đói. Hoa dọn thức ăn đầy bàn, ngồi chống đũa nhìn anh ta ăn ngon lành, một lát mới nhắc cô:

- Hoa ăn đi chứ… nóng quá.

Dưới ánh nến bập bùng cô thấy mồ hôi anh túa ra ướt đẫm, cô lấy một tờ báo quạt cho mình, quạt cho Khắc và nói:

- Kiểu này chưa chắc đêm nay đã có điện, nóng chết.

- Lát lên sân thượng, trên đó mát lắm, Hoa lên bao giờ chưa?

- Dạ chưa …

Cô nhận ra mình quá lễ phép. Bữa ăn xong Hoa khóa cửa, tòa nhà mười hai tầng chìm ngập trong bóng tối, nhưng từng căn hộ vẫn còn xôn xao vì vụ cháy, họ ra đứng ra tụ năm tụ ba bên ngoài dùng đèn sạc hay thắp nến ăn cơm, trò chuyện. Mấy đứa trẻ trượt với lớp nước còn đọng lại trên hành lang cười khanh khách. Lần đầu tiên Hoa thấy tất cả các căn hộ mở cửa và mọi người cởi mở với nhau đến như thế. Đến cầu thang, Khắc bật quẹt thắp nến dẫn cô lên, cái cầu thang tối và sâu khiến cô có cảm giác như đang dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Cả hai lặng lẽ đi vì sợ hụt chân ở từng nấc thang và như choáng ngợp vì cái không gian riêng tư, tối tăm vắng lặng chỉ có hai người. Bóng tối khiến Hoa thấy mấy tầng còn lại càng thăm thẳm như đang dẫn vào một hang động. Ánh nến leo lét, chập chờn nhưng cũng đủ để in nên hai cái bóng của họ trên vách, chúng sóng đôi bên nhau một cách tình tứ, có lúc gãy khúc hay nhập lại làm một như một đoạn phim yêu đương. Hoa bối rối quá, một điều gì đó cựa quậy trong tim cô, lan khắp châu thân. Hoa thấy say say, đôi mắt trở nên nồng nồng. Gần đến nơi, gió thổi mạnh qua song cửa mở vào sân thượng khiến cây nến trên tay Khắc vụt tắt. Anh mò mẫm tìm tay cô. Hoa nhắm mắt hẳn lại, mặc cho Khắc dẫn đi, vì bước chân cô bây giờ trở nên yếu ớt, hụt hẫng và nhẹ tênh. Có lẽ khi cảm xúc được kích hoạt, trở nên mãnh liệt khiến cho phần vận động của cô bị yếu ớt. Đã mấy lần hình như Khắc muốn dừng lại trong bóng tối nhưng anh cố đi. Đến nơi anh lần mò tìm cách đẩy chốt. Cánh cửa bật ra, gió thốc vào như một cơn lốc, tóc lẫn váy của Hoa bay tốc lên, cô đưa hai xuống cuống quýt kéo váy để che đôi chân trần, mặt ngước lên để gió dồn tóc về phía sau. Hoa chợt sững người trước một bầu trời cao xanh mờ ảo nạm đầy sao và xa xa một vầng trăng sơ khai thanh mảnh như một lá cỏ, tỏa sáng dịu dàng. Những phiến mây trắng mỏng, trôi nhẹ qua trăng, trôi nhẹ qua sao một cách thái hòa. Chưa bao giờ cô được nhìn thấy một bầu trời đêm lộng lẫy huyền ảo như vậy, đêm nào cô cũng cứ chúi mũi vào máy tính, vào tivi, vào mấy tờ báo. Hay trút nỗi cô đơn mênh mông lẫn những khát khao yêu đương vào quyển nhật ký, mà không biết có một kỳ quan ngay trên đầu mình...

  

Trở lại Mục Lục

 

 


Một lần đi dạy kèm

 

      Đứng trước ngôi nhà kín cổng cao tường Vân thấy e ngại, mấy lần nhón chân định bấm chuông nhưng không tới cô định bỏ về. Vân là cô gái có vóc dáng nhỏ bé, dù đã được nối bằng đôi guốc cao mười phân mà cái chuông nhà này vẫn cứ quá tầm tay với, cô thấy nản, càng mặc cảm về chiều cao khiêm tốn của mình. Nhìn quanh thử có hòn gạch hòn đá nào để kê đứng lên hay không… Chợt Vân giật mình vì một giọng nói ồ ề vang lên:

      -  Người gì bé tí thế này mà dạy với dỗ hả trời?

      Vân quay lại, một người đàn ông cao lớn, to lớn thì đúng hơn, râu ria xồm xoàm che hết cả mặt… Chao ôi, bộ dạng này mà gặp ở đoạn đường vắng chắc cô chết khiếp, trông ông ta giống con gấu hơn là một con người. Nhưng linh cảm cho cô biết rằng đó là chủ nhân của ngôi nhà này, người đã đăng trên báo tìm một cô giáo cho hai đứa con gái nhỏ của mình với lời rao kỳ lạ “Tìm một cô giáo dạy kèm thật dữ để trị hai bé gái”. Bạn bè cô cũng đọc được thông tin đó, bọn nó cũng cần chỗ dạy kèm, nhưng không ai lại muốn mang tiếng… dữ, vả lại dạy dỗ “hai con cọp” thì chắc mệt lắm. Bọn sinh viên tỉnh lẻ như cô luôn cần việc làm thêm kiếm tiền để trang trải việc học, đỡ gánh nặng cho gia đình được chút nào hay chút đó nhưng chắc không kham nổi ca này. Vân lại vừa tự ý nghỉ việc sau hơn một tháng giúp việc trong gia đình một vị tướng. Công việc ở đó của Vân rất nhẹ nhàng, lương cao. Cứ sau giờ học cô đến ngôi biệt thự rộng lớn nằm trên một con đường đẹp, yên tĩnh ở khu trung tâm thành phố để chăm sóc, trò chuyện cho có bạn với một bà cụ gần tám mươi tuổi, vợ của vị tướng. Cô cũng có thể vừa học bài ở đó vì công việc chẳng có gì nhiều. Nhưng sao trong không gian yên tĩnh, cao sang và có rất nhiều hoa kiểng ở đó vẫn khiến cô cảm thấy bất an và sờ sợ những người khác trong nhà. Thật ra Vân chỉ thấp thoáng nhìn thấy những thành viên khác trong gia đình ấy chứ chưa được tiếp cận với ai, như chồng bà cụ, con trai, con gái, con dâu và các cháu nội của bà. Vì bà ở trên một tầng lầu riêng biệt rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, có cầu thang riêng. Suốt ngày bà mở tivi, Vân hỏi sao bà mở để chi cho tốn điện mà không xem. Bà bảo “Để cho có tiếng người cháu ạ!” Dần dần Vân nhận ra gia đình danh giá này đang chìm trong một bi kịch. Đó chính là ngôi nhà được nhà nước cấp cho họ, nay thị trường định giá lên đến hàng nghìn cây vàng. Ai cũng muốn phần nhiều của ngôi nhà ấy sẽ thuộc về mình. Nhiều cuộc họp gia đình căng thẳng khiến mỗi người luôn cố thủ, đề phòng lẫn nhau, nghi ngại nhau… Bà cụ sống giữa một đại gia đình tam đại đồng đường, trong ngôi nhà mà mỗi mét vuông đất được tính bằng cả một tài sản, với đa số nhân dân của một đất nước nghèo, ngay cả với người dân thành phố này. Thế nhưng Vân thấy bà cụ còn khốn khổ, cô đơn hơn cả một bà già nghèo khó ở quê cô, sống trong mái nhà tranh nhưng ấm áp vì có con cháu chung quanh chăm sóc, có tình hàng xóm láng giềng khi tối lửa tắt đèn… Hàng ngày bà cụ uống rất nhiều loại thuốc, Vân nghĩ, nếu bà uống lộn thuốc và lỡ chết, chắc những người trong gia đình cũng không có ai hay kịp vì họ hầu như không bao giờ lui tới phòng bà. Khi Vân xin nghỉ bà cụ rất tiếc, tưởng cô chê lương ít nên bà đề nghị tăng tiền. Lúc đó bỗng dưng Vân dám bật ra một câu nói thật:

      - Con đâu định xin thêm tiền của bà, nhưng sao ngôi nhà này lạnh lẽo quá làm con sợ…

  Bà cụ thở dài :

       -  Nhà bà vốn vậy, biết làm sao bây giờ…

      Nghỉ làm chỗ bà cụ, cô cũng tiếc thật. Bây giờ đọc báo tìm mãi chưa có công việc nào hợp với mình, lại cần tiền đóng học phí còn nợ nhà trường và để dành cho năm học mới nên Vân liều mạng tìm đến địa chỉ ấy.

***

      Với ánh mắt hơi giễu cợt, ông ta lấy chìa khoá trong túi ông ta mở cửa cho Vân vào nhà. Hai cô bé mập ù khoảng mươi tuổi, đen nhẻm đang thò tay vọc hồ cá cảnh trước hiên. Ông ta hét lên:

   - Cá chết hết ! bà Tám đâu?

   - Bà Tám đi chợ !

  Ông ta hét tiếp:

   - Rửa tay vào chào cô giáo mới!

      À thì ra, trước cô đã từng có những tiền nhiệm thất bại phải ra đi.

***

      Có lúc Vân cũng muốn bỏ cuộc, vì hai cô bé sinh đôi ấy không hề muốn học, còn sợ học nữa là đằng khác, dù mới học lớp sáu với chương trình cải cách gì đó. Chỉ riêng kèm môn văn thôi, với một sinh viên ngành xã hội như cô thì môn văn đâu có tồi mà cô cũng đã đau đầu với bọn nhỏ. Có lẽ người soạn chương trình muốn tất cả học sinh sợ môn văn hơn là yêu mến nó, hoặc là để đào tạo những nhà văn, nhà ngôn ngữ học thì đúng hơn. Vân khám phá ra căn nhà này không có bóng dáng người mẹ nhưng không tiện hỏi người giúp việc, một lần cô thử hỏi chúng:

       - Mẹ các em đâu?

  Một đứa đáp:

   - Theo trai rồi!

     Vân thấy choáng cả người và chợt hiểu tại sao các em lại như thế. Tự nhiên cô không giận những cử chỉ, lời nói xấc láo và hành vi ương bướng của các em nữa. Mà cô cảm thấy thương những đứa trẻ con nhà giàu nhưng không hề được sung sướng. Người cha là giám đốc một công ty xuất nhập khẩu mải mê với công việc còn mẹ đã bỏ nhà đi theo một người đàn ông khác. Nhiều khi chúng lười học thì cô kể chuyện, cô kể chuyện rất sinh động nên chúng ngồi há mồm ra nghe, sau đó luôn năn nỉ cô kể nữa. Thế là Vân nghĩ ra cách trị chúng. Cô ra điều kiện phải làm đủ các bài tập thì mới kể chuyện. Thế là mọi việc cũng tạm ổn nhưng đôi khi chúng chỉ làm đối phó mà thôi.

      Một lần cô đến, thấy một đứa đang gào khóc, còn bà giúp việc cuống lên. Thì ra một đứa có kinh lần đầu và vô cùng sợ hãi nhưng bà Tám không đủ lời lẽ để giải thích. Vân kéo nó vào phòng tắm và chỉ nói một câu là nó im ngay. “Cô cũng đang bị như em.” Và với “phụ tùng” luôn đem theo trong ví cho “những ngày ấy”, Vân bày nó cách sử dụng. Sau đó Vân dùng một nửa thời gian học để giảng giải rằng, chúng sắp thành một thiếu nữ và đó là điều kiện mà tạo hoá ban cho tất cả phái nữ, nếu không “bị” như vậy sẽ thành một người con gái bất thường và lớn lên không có em bé được.

      Sau “tai nạn” đó, bức tường ngăn cách giữa cô với chúng hoàn toàn sụp đổ. Ngoài chuyện học, cái gì chúng cũng hỏi cô. Tội nghiệp, những kiến thức để trở thành một thiếu nữ của chúng hoàn toàn trống rỗng. Vân bày chúng cách ăn uống để khỏi béo phì, bày chúng chơi cầu lông. Ra nắng phải đội mũ để da khỏi đen, tóc khỏi cháy. Vân còn “tư vấn” cho chúng cách ăn mặc dù cô chẳng có bao nhiêu quần áo, lại toàn đồ sida. Vân còn bày chúng cách cư xử khi bị con trai chọc ghẹo từ những kinh nghiệm của chính mình… Có lần ngồi trên xe buýt, một gã con đến ngồi bên cạnh. Hắn mời Vân ăn kẹo, cô không ăn. Hắn hỏi gì cô cũng trả lời không biết, cô vốn rất ghét kiểu tán gái sàm sở ấy, chưa gì đã gọi cô bằng em. Thế là gã ấy nổi giận bảo cô khinh người và tìm cách gây sự. May là những người đi xe hiểu được bênh vực cho cô chứ ở chỗ vắng chắc gã hành hung cô mất.

      Người cha vắng nhà biền biệt, Vân tha hồ nhào nặn bọn trẻ theo ý của cô, dụ chúng mua sách đọc thay vì dùng tiền đó ăn quà vặt. Chúng đỡ quậy nên bà giúp việc biết ơn cô vô cùng. Nhờ hơn một năm kèm cặp bọn trẻ, Vân có công việc ổn định để có tiền ăn học. Người cha mỗi lần về, nhìn cô với ánh mắt dịu dàng hơn, đôi khi mua quà cho con, ông ta cũng mua quà cho cô và nói xa nói gần rằng nếu sau này cô vẫn tiếp tục kèm cặp cho bọn trẻ thì tốt quá. Nhưng đến lúc cô phải đi thực tập và làm luận án tốt nghiệp. Lần này ông về, râu tóc gọn ghẽ hơn, trông ít già hơn trước. Có lần cô nghe bà Tám tiết lộ tuổi tác ông, hóa ra ông ta chỉ bằng tuổi anh cả của cô, chưa tới bốn mươi. Hôm đó sau giờ học, cô xin gặp ông để thưa chuyện, cô cũng báo trước rằng hơn tháng nữa cô xin nghỉ để ông còn kịp tìm người dạy thay. Lúc nói chuyện ấy, cô quên mất có hai đứa nhỏ bên cạnh. Nghe Vân không dạy nữa, thật bất ngờ hai đứa ôm cô khóc như mưa làm nước mắt cô cũng rơi lã chã. Người cha thấy vậy liền bỏ sang phòng khác.

***

      Hơn tháng sau, ba cha con tìm đến thăm Vân ở ký túc xá với một bó hoa lớn, thì ra hôm ấy là sinh nhật của cô mà cô đâu có nhớ.

      Ngày sắp ra trường cô nhận được thư của ông, viết ngắn gọn “Việc ly hôn của chúng tôi đã hoàn tất, nếu không ngại khoảng cách tuổi tác và cuộc đời dang dở của tôi, thì không có ai hơn em để làm vợ tôi và làm mẹ các con tôi. Tôi thương em từ lâu nhưng không dám nói…” Lá thư ấy làm Vân run rẩy và suốt đêm, giấc ngủ trở nên chập chờn. Trong khoảnh khắc ngủ được một chút thì hình ảnh của ông và hai đứa nhỏ cứ hiện ra trong giấc mơ…

Trở lại Mục Lục

 

4

 


5

Bạn trai

 

Những căn nhà bên cạnh hầu hết đều được sửa sang hay xây lại khang trang khiến căn nhà của Tần trông càng cũ kỹ, an phận… Nhiều lúc Tần tự ví nó giống như mình. Từ ngày chồng mất cách đây tám năm, căn nhà không gì thay đổi. Giấy tờ nhà cũng do chồng đứng tên chủ quyền. Tần không buồn đi chuyển đổi sang tên mình. Bao nhiêu lần Tần định sửa nhà nhưng cứ ngại vì không có đàn ông trông coi. Cô thì lơ ngơ, con trai nhỏ mới mười tuổi, sợ bọn thợ bắt nạt, nếu họ có làm dối cô cũng không biết đối phó ra sao, vì bản tính Tần luôn nhường nhịn, nhỏ nhẹ… dù cô đã có một khoảng tiền gởi trong ngân hàng đủ cho việc sữa chữa lớn.

Có lần Nhật đến chơi không hiểu sao cô đem chuyện này ra nói. Nhật bảo:

- Tần làm đi, anh ghé trông coi cho.

Nhật nói ngắn gọn nhưng Tần biết anh đã hứa là làm, làm nhiệt tình đến nơi đến chốn. Nhiều lúc Tần nghĩ nếu có vợ chắc vợ Nhật sẽ không hiểu anh ấy bằng mình đâu. Tần dám quả quyết như vậy vì từ bé nhà họ ở gần nhau. Hình ảnh xa nhất về Nhật cô có thể nhớ là lúc ấy Nhật bằng con trai cô bây giờ, còn Tần là một cô bé chỉ thích làm con trai, vì bà nội Tần lúc nào cũng ao ước Tần là một thằng cu khi biết mẹ cô sau khi được hai đứa con gái không còn khả năng sinh nở nữa. Cô theo Nhật chơi những trò chơi con trai như thả diều, tạt lon, bắn ná… Tần thích ăn ổi thì Nhật leo hái ổi, cô thích ăn mía Nhật bẻ trộm mía. Ở trường cuối năm Nhật được phần thưởng, thấy Tần không có, anh chia Tần vở, bút chì… Tần vui sướng mang về khoe bà. Vào trung học, không hiểu môn nào, bài nào cô lại nhờ Nhật chỉ. Họ hồn nhiên lớn lên bên nhau dù theo thời gian Nhật thành một chàng trai cao lớn rắn rỏi còn Tần thành một thiếu nữ uyển chuyển, thướt tha. Mặc cho hai bà mẹ nhìn nhau hài lòng và đầy tình ý… Họ không có được thứ cảm xúc mà những những đôi trai gái mới lớn bên nhau thường có.

Nhật vào đại học, mỗi dịp về quê nghỉ hè hay nghỉ tết, việc đầu tiên của anh là đến thăm Tần, anh kể cho cô nghe chuyện ở thành phố, về mối tình của anh với một bạn gái cùng lớp. Khi nghe Tần cũng cảm thấy một chút hụt hẫng nhưng rồi lại quên ngay. Lần sau về anh kể đã chia tay với cô bạn và tỏ ra rất buồn. Tần thấy thương anh, cô an ủi và tiếc cho một mối tình. Những chuyện kể của anh ở thành phố là động cơ thôi thúc cô vào đại học. Nhật là người ra đón cô ở sân bay, Tần lơ ngơ chưa tìm được chỗ trọ, anh dẫn Tần gởi ở tạm phòng trọ với những cô bạn học của anh. Rồi khi cô báo tin thi đậu nhưng chưa biết ở đâu, anh tìm thuê một phòng trọ gần trường để cô đi học cho tiện rồi sau đó còn dẫn cô đi ăn khao. Thỉnh thoảng Nhật ghé thăm, mấy cô bạn cùng phòng cứ khen Nhật đẹp trai. Tần bảo có ai thích cô sẽ giới thiệu cho. Nhiều lần Nhật đến, cả hai trò chuyện một lúc rồi Tần lỉnh đi, nháy mắt cho cô bạn ra tiếp anh, để họ thử thời vận… Sau đó họ có vẻ mến nhau nhưng cũng chỉ có vậy.

Nhật ra trường có việc làm trong lúc Tần đang học năm thứ hai. Họ sống cách xa nhau chừng vài trăm cây số nên ít khi gặp, đôi lúc về quê, qua những người thân trong gia đình họ mới có được thông tin về nhau. Thế rồi công việc, giòng đời cứ đẩy họ xa nhau hơn. Khi dạy học ở một tỉnh nhỏ Tần nghe Nhật lập gia đình với một cô gái trẻ, vừa học xong lớp mười hai và trở về thành phố lập nghiệp. Vậy là đám cưới của anh cô không đến cắm hoa giúp như đã hứa. Ngày đám cưới của mình cô mời bao nhiêu bạn bè nhưng quên mất Nhật, mà có nhớ cô cũng không biết địa chỉ anh ở đâu mà mời. Cô chỉ nghe anh đã có hai con và khá thành đạt. Cô thấy mừng, thấy anh xứng đáng được như vậy.

Cho đến khi được sống chung trong một thành phố và tình cờ gặp nhau thì cả hai đã rơi vào cảnh đứt gánh giữa đường. Nhật đã ly dị vợ còn Tần góa chồng. Anh kể hết, không giấu điều gì, có lẽ anh còn thương vợ nhưng không chịu nổi sự can thiệp thô bạo của gia đình bên vợ, cô ấy là con một và anh buộc phải sống chung. Từ chuyện riêng của mình, anh cho Tần một bài học:

- Tần cũng có con trai, kinh nghiệm sau này đừng cho nó lấy con một, đừng ở nhà vợ…

Cô cười:

  - Con em cũng là con một đó thôi!

Anh nuôi đứa con gái lớn còn đứa con gái nhỏ ở với mẹ nó. Mỗi lần về thăm con bị bên ngoại của chúng làm khó anh rất khổ tâm lại tìm đến kể với Tần. Đi công tác xa anh chở con tới gởi. Mỗi khi có tiền, anh đến đưa nhờ cô mua sắm những thứ mình cần. Rồi mẹ anh thu xếp vào ở luôn với con trai, anh đỡ vất vả. Nhiều lần bà bảo Tần, hồi đó bà nhắm cô cho Nhật, cứ tưởng khi vào thành phố học là điều kiện tốt nhất để đến với nhau… Bà không hiểu tại sao hai đứa không thương nhau. Cô không dám cãi bà, không dám thú nhận cô thương Nhật nhưng không yêu anh và không thể nào lý giải được điều đó.

Nhật nhờ một người bạn là thầu xây dựng điều công nhân của mình đến sửa nhà cho Tần. Cô khỏi phải tính toán lo lắng gì hết. Cứ đi làm về là Nhật ghé qua coi ngó, đôi khi ăn cơm với Tần. Ông bạn nhà thầu của Nhật tưởng anh là người tình của cô còn đám thợ tưởng anh là chủ nhà, và gọi họ là “ông chủ, bà chủ” cả hai ngoảnh nhìn ra hai hướng cười kín đáo nhưng không đính chính. Nhà sửa xong rất đẹp mà không có những khoảng phát sinh thêm như Tần dự trù, cô làm một bữa tiệc đãi thợ. Nhật mang thêm một thùng bia. Nhật và ông bạn thi nhau uống, thấy Nhật say ông bạn ra về cứ bảo anh ở lại nhưng Nhật nhất định về. Đưa Nhật ra cổng, Tần khóa cửa vào nhà, con trai đã ngủ, còn lại một mình trong căn nhà rộng hơn, ngổn ngang chén dĩa và thức ăn thừa. Tần ngồi sụp xuống cầu thang bật khóc nức nở. Lần sửa nhà này với sự có mặt thường xuyên của Nhật hàng xóm đồn đại là cô sửa nhà để lấy chồng, bạn bè mừng cho cô vì biết đó là một người bạn thân từ thuở nhỏ, bây giờ cùng đơn lẻ… Thằng bé nhà cô thì quyến luyến Nhật ra mặt. Mỗi lần cô đến nhà Nhật bà cụ thở ra vào, trách cứ Tần đủ điều. Anh chị của cô, của Nhật ngoài quê có dịp vào thành phố chơi luôn khuyến khích họ lấy nhau. Không có một trở ngại nào mà trái lại, rất thuận lợi, được tất cả ủng hộ nếu họ muốn tiến tới… Mối quan hệ giữa họ trở thành điều thắc mắc, khó hiều của nhiều người.

Sau đợt sửa nhà tự nhiên Tần lên cân vùn vụt, cô chỉ đẹp nhờ cái dáng thon thả … Nhật là người lo âu về điều đó trước cả cô. Có lần thử máu cô được biết đường trong máu mình rất cao “đụng trần”. Anh bảo cô nên đi tập thể dục, vì bụng anh ngày cũng càng to vì những cuộc bia bọt. Tần là người rất lười hoạt động. Sáng dù thức dậy rất sớm cô cũng chỉ thích nằm mơ màng, đó là cái thú cố hữu của Tần mấy chục năm nay. Khuyên bảo Tần không được Nhật rủ cô cùng tập. Có người áp như thế cô mới chịu đi. Mỗi sáng sớm anh đợi cô ở công viên để cùng đi bộ, xong ai về nhà nấy. Đi cả năm như thế vóc dáng và sức khỏe của Tần được cải tiến rõ rệt, cô sút được gần ba ký, đường trong máu cũng bớt cao.

Bây giờ việc tập luyện của Tần đã thành một nhu cầu tự nhiên, không tập cô không chịu được. Dù mùa hè mới sáu giờ trời đã sáng bửng hay mùa đông trời còn tối nhá nhem, họ vẫn chờ nhau ở một góc công viên, vẫn đi song song bên nhau, không hề va chạm. Có lần Tần bảo Nhật, cô là phụ nữ, có thể hy sinh vì con, chứ còn Nhật sao sống thế mãi được. Anh bảo đợi con gái lớn lấy chồng đã, chủ yếu là anh chưa có ai để yêu…

Trở lại Mục Lục

 


 

Tột đỉnh tình yêu

 

 

      Không cần đợi đến lúc trở thành thiếu nữ, khi còn là một cô gái nhỏ xíu, Quỳnh soi gương và nhận ra mình xinh đẹp. Làn da trắng ngà, đôi môi đỏ hồng và mái tóc đen óng… Tóc Quỳnh hình như không cần phải chải, nó suôn mượt đến mức như không thể rối vào nhau được. Bà giúp việc chăm sóc Quỳnh từ tấm bé mỗi lần chải tóc và bím lại cho cô trước khi đi học thường bảo :

      - Con bé này có mái tóc đen mượt và nụ cười tươi như hoa nên cuộc đời rất sung sướng, mơ được ước thấy…

      Quỳnh vẫn biết được mình luôn sung sướng đấy thôi. Cô sinh ra trong một gia đình khá giả, ba mẹ là những người tử tế và sống với nhau hạnh phúc. Họ có cô sau khi sinh liền hai người con trai nên Quỳnh là cô “công chúa” mà ba mẹ mơ ước. Khỏi phải nói ba mẹ nâng niu cô như thế nào, các anh thì luôn nuông chìu em gái. Từ khi vào mẫu giáo cô đã được học ngọai ngữ và năm sinh nhật bảy tuổi Quỳnh được gia đình tặng cho một cái đàn Piano mới toanh đặt mua từ bên Nhật. Nhờ đầy đủ điều kiện, được kèm cặp đúng mức nên Quỳnh học rất giỏi. Thầy cô môn nào cũng muốn “giành” Quỳnh đi thi học sinh giỏi môn của họ phụ trách. Mỗi khi đi họp phụ huynh ba mẹ luôn ngây ngất bởi những lời khen từ giáo viên chủ nhiệm… Sung sướng như vậy nhưng không có nghĩa Quỳnh được đỏng đảnh và lười nhác như một tiểu thư, cô được hưởng một nền giáo dục khá nghiêm khắc. Mẹ dạy nấu ăn, cắm hoa, làm bánh… Còn bà giúp việc nhà dạy cô làm những món ăn thông thường, kể cả những món bình dân như mắm kho quẹt, cá kho tiêu. Mỗi khi đi làm từ thiện bà mẹ hay dẫn Quỳnh theo để cô tận mắt thấy rằng còn bao nhiêu số phận kém may mắn hơn mình cần được chia sẻ… Vì thế, từ khi học trung học Quỳnh đã nung nấu mơ ước trở thành một bác sĩ, theo cô đó là nghề được trực tiếp xoa dịu vết thương cho mọi người. Biết thi vào ngành y là rất khó nên Quỳnh cũng là một “cây gạo” có cỡ và chạy “sô” từ “lò luyện” này qua lò khác. Tuy vậy, bản năng con gái mạnh mẽ khiến cô không quên chưng diện cho mình dù xuất hiện ở đâu. Quần áo, mũ nón, khăn quàng, giày ví của cô nhiều vô kể và lúc nào cũng được cô chọn lựa để màu sắc, kiểu dáng luôn hài hòa với khung cảnh, thời tiết... Cô còn hay tham gia công tác xã hội, thăm trại trẻ mồ côi, hiến máu nhân đạo. Và ở đâu Quỳnh cũng khá nổi bật. Có một vài hãng quảng cáo tìm đến tận nhà mời Quỳnh làm người mẫu quảng cáo trên truyền hình, có người gợi ý đi thi hoa hậu vì Quỳnh cao gần một mét bảy nhưng ba mẹ cô không đồng ý, họ muốn tương lai của con gái phải đặt nên tảng trên học vấn chứ không phải bằng vẻ đẹp bên ngoài. Dù vậy, phải thi đến lần thứ hai Quỳnh mới vào được trường Y. Quỳnh vẫn chuẩn bị tinh thần để thi lại lần thứ ba nếu rớt.

       Vào đại học, tham gia nhiều sinh họat đoàn thể, phong trào văn nghệ, Quỳnh biết mình còn có số đào hoa. Nhiều lúc phải tắt điện thoại di động để khỏi phải nghe quá nhiều cuộc gọi và tin nhắn làm quen, tỏ tình của các chàng trai. Bạn của mấy người anh khi đến nhà hầu hết đều muốn trở thành em rể của họ. Mẹ thường tủm tỉm cười pha lẫn chút lo âu bảo “Càng đào hoa càng khó lấy chồng đó con!”

       Nhưng năm cuối ở bậc đại học, các bạn cùng lớp lần lượt có người yêu, có cô còn chuẩn bị lên xe hoa khi ra trường. Riêng Quỳnh vẫn lẻ loi dù những “cái đuôi” theo ngày càng nhiều nhưng cô không chọn được ai, chủ yếu là không thể rung động được với người con trai nào. Quỳnh bắt đầu có biệt danh “công chúa tuyết”, “nữ hoàng băng giá” hoặc người đẹp có “trái tim vô cảm”. Cô không tin vậy, khi muốn trở thành một người thầy thuốc, Quỳnh biết mình có một trái tim mẫn cảm vô cùng, trước những đau đớn, mất mát của người chung quanh. Cô luôn bị ám ảnh bởi những bất hạnh của người khác, tìm cách này hay cách kia để xoa dịu. Cô yêu âm nhạc, văn chương và cảm xúc trào dâng khi cảm nhận được vẻ đẹp của nghệ thuật. Vì cô đơn nên cô thường mơ tưởng đến hình ảnh của một chàng trai, là người yêu, người chồng của mình sau này với những hình ảnh rất lãng mạn. Thế nhưng người trong mộng của cô vẫn chưa hiện ra… Một bác sĩ trẻ ra trường trước Quỳnh sáu năm, khá đẹp trai, làm việc trong một bệnh viện lớn, có phòng mạch riêng, có xe hơi riêng… Nhưng sao người đó thực dụng quá. Những tiêu chí hạnh phúc chỉ là con số thu nhập, là số diện tích nhà ở. Nghề bác sĩ chỉ là một cái “cần câu” danh lợi với anh ta. Liền sau đó một nhà doanh nghiệp trung niên, giàu sang, có mọi thứ, trừ một đời sống tinh thần. Với anh ta, văn chương, âm nhạc chỉ là đồ xa xỉ. Anh muốn có một người vợ xinh đẹp, có danh vị và học thức như sắm một món trang sức cao cấp để làm sang cho mình… Một Việt kiều trẻ, thành đạt về nước thăm gia đình, gặp Quỳnh một lần, khi sang Mỹ anh gởi cho Quỳnh hàng trăm email, kể cả những cuộc điện thọai và những món quà rất trang nhã… Anh không cần danh vị, tiền bạc gì ở cô, anh có thể nuôi vợ suốt đời nhưng anh chỉ thấy một giá trị duy nhất ở Quỳnh: sắc đẹp. Cô nghĩ, chẳng lẽ hàng thế kỷ qua, những con người tiến bộ đã đấu tranh để giải phóng phụ nữ và bản thân những người phụ nữ tự trọng đã đấu tranh để khẳng định giá trị của mình bằng học vấn, tài năng, sự cống hiến… Nay, một cô gái ở thế kỷ 21, lại cam phận trở lại làm kiếp dây leo, sống như một cái bóng để chồng nuôi mình? Đó không bao giờ là sự lựa chọn của Quỳnh. Cũng có người đến với cô bằng một tình yêu chân thành, với sự rung động sâu xa của trái tim và Quỳnh không thể không thú nhận là mình không xúc động bởi tình yêu trong sáng ấy. Nhưng nghẹt một điều là họ không có danh vị xã hội, tương lai không mấy tươi sáng. Quỳnh phải hổ thẹn với lòng mình khi nhận ra mình cũng câu nệ không “môn đăng hộ đối”. Có người đạt nhiều “điểm” nhưng lại không đẹp trai, Quỳnh không quan tâm lắm đến vẻ đẹp bên ngoài, nhưng người cô yêu hẳn phải là đàn ông có sức hấp dẫn… Không ai vừa ý cô cả, mấy người anh trêu chọc em gái rằng có lẽ cô không bình thường hoặc người cõi trên. Bà mẹ bắt đầu sốt ruột khi Quỳnh ra trường, đi làm được vài năm mà vẫn chưa có bờ bến nào để ghé vào. Quỳnh khá thành công trong công việc, luôn được sự ưu ái, ngưỡng mộ của người khác phái. Nhiều lúc cô thấy tuyệt vọng, chẳng lẽ mình ở vậy suốt đời... Cô thấy mọi người yêu thật dễ dàng còn với Quỳnh sao khó quá. Cô không hiểu sao mình không thể yêu ai, nhiều lúc cô ước mình yêu vô tư, mù quáng, dại dột như một số bạn gái của mình. “Coi chừng ế à nghen”, câu nói đùa ấy bây giờ bắt đầu làm Quỳnh chột dạ. Khi nghe những lời tán dương ngất trời về mình cô không còn vui nữa. Đẹp, giỏi, tốt nhưng không biết yêu… Để làm gì nhỉ? Thậm chí là bất hạnh.

      Cho đến một lần Quỳnh cùng đoàn công tác của bệnh viện đến khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo ở một vùng xa. Đang giờ ăn cơm, nghỉ ngơi, người dân địa phương nháo nhác báo cho họ biết có một tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra và một chiếc xe bị rơi xuống hố… Quỳnh vội buông đũa, khoác chiếc áo blouse theo xe cấp cứu. Đến nơi họ nhìn thấy một cảnh kinh hoàng, chiếc xe hơi bị nạn ở dưới hố và những người đi trong xe đều nằm gọn trong chiếc xe móp méo, không biết sống chết thế nào. Theo lời kể của người đi đường, vì tránh một chiếc xe máy ngược chiều chạy ẩu nên chiếc xe hơi mất trớn và rơi xuống… Nhờ sự giúp đỡ của người dân, nhóm y bác sĩ xuống được dưới hố, phá cửa xe đưa những người bị nạn ra ngoài. Họ gồm tám người, người gãy chân, người bị đa chấn thương, có người không thấy máu me gì nhưng bất tỉnh… Tất cả được đưa về trạm cấp cứu rồi đưa về bệnh viện thành phố vì đó là một đoàn gồm những nhà khoa học đi công tác xuất phát từ thành phố. Quỳnh thay mặt đoàn mình đưa họ về. Trong đó có một người mà cô e rằng bị chấn thương cột sống nặng, anh ta còn tỉnh táo và trông khá trẻ… Quỳnh rùng mình khi nghĩ rằng anh ta sẽ mằm một chỗ suốt đời. Quả là như vậy, khi về bệnh viện, sau khi khám tất cả, vị bác sĩ trưởng khoa nói với Quỳnh “Ca này nặng lắm…” Rồi ông thở dài “Anh ta mới ba mốt tuổi, chưa có gia đình mà người thân cũng đang sống ở nước ngoài. Tội.” Quỳnh nghe lòng nhói đau khi nghĩ tiếp, nếu nặng như thế, không chỉ nằm liệt một chỗ mà e rằng anh ta cũng không thể lấy vợ và có con.

       Dù không có nhiệm vụ trực tiếp điều trị cho bệnh nhân nhưng ngày nào Quỳnh cũng ghé qua chỗ anh theo, theo dõi bệnh lẫn quan sát anh ta. Lúc đầu anh thường nằm thiêm thiếp trông như đang ngủ, vầng trán cao sang, chiếc mũi thẳng, đôi môi đầy đặn, nghiêm nghị mím lại vì nén một nỗi đau tinh thần hơn là thể chất. Con người này hẳn từng làm khổ nhiều cô gái đây, cô nghĩ… Quỳnh hay đến thăm trong giờ dành cho thân nhân, đôi khi xem thử có những ai, mối liên hệ với anh ta ra sao và cô tự cười cái tính tò mò phụ nữ của mình. Tất nhiên có rất nhiều cô gái đến thăm, có vài cô rất đẹp, những đồng nghiệp trẻ già, có người là họ hàng gần xa. Hầu hết, họ xót xa cho một nhà khoa học trẻ, có nhiều năng lực và thừa niềm đam mê lại là người bị nặng nhất. Những bệnh nhân cùng đi với anh lần lượt ra viện còn anh ở lại. Rồi anh cũng nhận ra Quỳnh, người đã leo xuống hố cứu mình. Anh nói một câu hài hước:

       -  Lúc đó tôi cứ tưởng có một thiên thần hiện ra dẫn tôi lên thiên đường! Đâu ngờ phải ở lại cái địa ngục này…

       Đến lượt Quỳnh được phân công phụ việc cho bác sĩ chính theo dõi và điều trị cho anh. Em gái anh từ nước ngoài về còn mẹ anh yếu quá không thể về thăm con nổi. Cô ấy khóc lóc sụt sùi khi nói chuyện riêng với Quỳnh.

      -  Bác sĩ biết không, anh ấy đâu chịu đi xuất cảnh cùng gia đình, chỉ thích ở lại để theo đuổi ngành địa chất. Chị ơi, khi ấy anh đậu cả hai trường đại học, và anh bỏ ngành y mà ai cũng mơ ước để chọn học địa chất. Khi ra trường, anh học tiếp rồi mới đi nghiên cứu, rất vất vả và bây giờ là thế này đây...

       Biết anh mình phải chữa bệnh lâu dài, nằm hoài trong bệnh viện tù túng, cô em đã xin phép đưa người anh về nhà nhờ bác sĩ đến điều trị và thuê người chăm sóc, cô phải trở lại Úc vì con còn nhỏ… Cô ấy còn lớn tuổi hơn Quỳnh nhưng cứ gọi Quỳnh là “chị” và xưng “em” ngọt xớt.

      -  Chị ơi, thỉnh thoảng chị làm ơn ghé qua nhà, ngó qua anh của em một chút. Phải chi anh em học trường y thì thành đồng nghiệp của chị rồi. Chị đẹp quá. Mẹ em cứ hối thúc anh lấy vợ nhưng anh nói, phải yêu thật là yêu thì mới lấy được, còn không thì ở vậy. Nhiều cô thích anh lắm… Nhưng giờ thì vậy đó, phải chi anh chịu cho em mang anh sang Úc chạy chữa… Hay chị từ từ tìm cách thuyết phục hộ em, anh chịu ra nước ngoài, gia đình em biết ơn chị suốt đời.

   Quỳnh cười buồn:

       - Tôi đâu có quyền lực gì để làm nổi việc đó…

       Qua Úc, cô ấy gọi điện ngay cho Quỳnh và gởi email. Quỳnh cũng ngại, cô không còn nhiệm vụ gì, bác sĩ điều trị tại nhà cho anh cũng là một bác sĩ khác, đồng nghiệp của Quỳnh. Nhưng cô em cứ năn nỉ và mỗi lần Quỳnh ghé thăm, ánh mắt nồng ấm, cố kìm nén nỗi đau một cách can đảm của anh khiến cô không thể không đến. Quỳnh nhận ra sự sung sướng, xúc động chen lẫn tuyệt vọng của anh khi thấy cô. Nằm một chỗ nhưng anh không buồn chán lắm nhờ rất thích đọc sách báo, lên mạng internet theo dõi những thông tin của ngành địa chất và ghi ghi chép chép. Cô chọn những quyển sách mình thích mang cho anh mượn. Trong khi trao đổi về những gì đọc được, Quỳnh nhận ra rằng ngoài niềm say mê khoa học, anh còn cảm nhận về văn chương sâu sắc và tinh tế. Càng tiếp xúc với anh, Quỳnh càng sợ hãi những cảm xúc trào dâng trong tim mình. Tại sao trái tim của cô lại xao xuyến trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như thế này. Cô có điên không. Quỳnh muốn trốn chạy khỏi anh nhưng không làm nổi điều đó. Anh ta ngày càng ám ảnh cô, lúc đi trên đường, trong bữa ăn, giấc ngủ, lúc khám bệnh… Mỗi lần cô đến anh không nói gì nhiều nhưng cô cảm thấy anh ta cũng bối rối y hệt như mình, cũng chất chứa một điều gì, như một đám mây nặng, chỉ chờ một cơn mưa. Rồi một ngày anh thu hết can đảm nói với Quỳnh :

      - Quỳnh ạ, anh không muốn em khó xử và anh phải sống trong dằn vặt. Em hãy cho anh đừng gặp em nữa, hãy cho anh xa em, dù bây giờ em là lẽ sống của anh. Em hoàn hảo quá, em phải được yêu một cách xứng đáng và được hạnh phúc. Anh không được phép níu chân em… Em đi đi.

      Không kìm được, Quỳnh bật khóc nức nở, qua hàng hàng nước mắt cô thấy vầng trán cao, đôi mày mạnh mẽ của anh nhăn lại trong tận cùng của đau đớn. Đau đớn hơn cả khi anh biết tin mình bị chấn thương cột sống và có thể chẳng bao giờ được làm việc và làm chồng, làm cha… Họ ngồi yên lặng bên nhau rất lâu rồi đến lúc Quỳnh ra về. Nhưng không ngờ chỉ mấy bước chân thôi, như có một sức hút vô hình buộc cô phải quay đầu nhìn lại. Anh nằm đó, trên chiếc giường lò xo kiểu bệnh viện, có thể dựng lên ở phần lưng, hạ xuống phần chân, mắt anh thăm thẳm yêu thương, âu yếm lẫn buồn đau cùng một sự chấp nhận, bao dung đến lạ lùng. Cô quay bước lại, đổ xuống anh như một cái cây bị đốn hạ. Anh ôm chặt lấy Quỳnh, môi tìm môi quấn quýt lấy nhau cùng vị mặn của nuớc mắt của hai người hòa quyện lại trên môi nhau. Quỳnh cứ nằm trong lòng anh như thế, mặc cho người phụ nữ lớn tuổi chăm sóc anh lâu nay vào nhìn thấy và lui gót… Buổi chiều êm, ngoài thềm vắng vài chiếc lá khô rơi xào xạc.

      Tình yêu lâu nay phải dồn nén được buông thả nên ngày nào họ cũng phải gặp nhau. Đi làm về, tắm rửa, trang điểm là Quỳnh chạy xe đến nhà anh. Bà mẹ bắt đầu dò hỏi với một chút mừng vui, hy vọng rằng con gái đã tìm được một tình yêu đẹp đẽ, vì cái vẻ xôn xao, say đắm toát ra ở mắt môi, ở từng bộ phận nhạy cảm trên cơ thể xuân thì của cô không giấu được ai. Ánh mắt ấy làm Quỳnh đau thắt. Nếu bà biết sự thật rằng con gái của mình đang yêu như mê cuồng một chàng trai nằm liệt giường, không hy vọng gì đứng lên được nữa.

      Những ngày tháng ấy, Quỳnh sống như trong một cơn mê, không còn nhớ gì, nghĩ gì, cô khá bận rộn với công việc ở bệnh viện, phần thời gian còn lại là dành cho anh. Mỗi lần gặp nhau chỉ là để chìm đắm trong lòng nhau, những nụ hôn không muốn rời, những vuốt ve ngây ngất mà chắc những ai từng sống trên thiên đường cũng không có được sự trải nghiệm thần tiên ấy. Anh bảo:

      - Nếu đổi tai nạn ấy để được có em anh vẫn thấy mình quá lời… Chỉ tội cho em.

      Quỳnh bịt mồm anh bằng một cái hôn, nhưng sau đó anh vẫn nói:

      - Dù gì em vẫn phải có tương lai, người như em phải được làm vợ làm mẹ, nếu không uổng phí lắm …

  - Tương lai của em là mang đến hạnh phúc cho anh.

  - Nhưng anh không thể mang đến hạnh phúc cho em.

  - Em không tin vậy…

      Và họ đã thử. Anh như run lên khi Quỳnh tự cởi quần áo ngoài, quần áo lót để anh nhìn ngắm thân thể thanh tân của cô. Anh thốt lên “Em đẹp như một nữ thần”. Quỳnh muốn dâng hiến sự trong trắng cho anh. Cô dịu dàng nằm xuống bên cạnh, họ ôm lấy nhau… Khi anh cố chồm lên người Quỳnh nhưng sự đau đớn làm anh nằm vật ra, mồ hôi đầm đìa. Có lẽ đây là nỗi đau đớn tột cùng của một con người mà Quỳnh nhìn thấy được trong đời nhưng chính điều đó khiến Quỳnh trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ. Cô cứ ôm chặt lấy anh và họ ngủ thiếp đi trong vòng tay của nhau.

       Ngoài bác sĩ chuyên khoa điều trị, Quỳnh đọc sách và lên mạng internet tìm hiểu về căn bệnh của anh. Và cô đau xót nhận ra rằng cách điều trị, cho thuốc đều đúng, theo kịp với y học hiện đại nhưng sao chuyển biến của bệnh chẳng có gì đáng lạc quan, kể cả vật lý trị liệu và những phương tiện y khoa khác rất đắt tiền.

 

***

       

      Quỳnh sống như trong một giấc mơ, cô không hiểu chuyện gì xảy ra là từ đâu. Hơn một năm sau, anh bắt đầu tự ngồi được và họ yêu nhau như tất cả mọi người bình thường. Ai đã từng yêu và được yêu, ân ái cùng người mình yêu và đạt đến cực cảm, thì họ tin rằng mình đã được hưởng nhiều gấp chục lần hơn những cặp tình nhân ấy. Không lần nào họ yêu nhau mà Quỳnh không khóc vì hạnh phúc. Gia đình Quỳnh biết mối tình của họ khi người cô yêu bắt đầu lẫm chẫm tập đi. Mẹ anh ở nước ngoài dù rất yếu cũng bảo con gái đưa về nước để thăm người con trai “chết đi sống lại” của bà. Người mà bà ôm lâu và khóc nhiều không phải là người con trai yêu quý mà chính là Quỳnh. Trong bữa tiệc vui, lần đầu tiên gia đình Quỳnh với gia đình anh gặp nhau cùng với người bác sĩ điều trị của anh. Ông vui vẻ từ chối lời cảm ơn của mọi người:

      - Không phải tôi giúp anh ấy bớt bệnh đâu, mà chính cô bác sĩ Quỳnh trẻ đẹp ngồi bên cạnh anh đó. Có lẽ lần đầu tiên trong cuộc đời thầy thuốc của mình, tôi chứng kiến được rằng tình yêu quả là một liều thuốc kỳ diệu nhất…

      Sau đó ít ngày họ làm lễ đính hôn. Những tấm ảnh chụp trong ngày ấy Quỳnh luôn mang theo trong túi xách của mình, cô còn lấy làm hình nền cho cái máy tính xách tay và điện thoại di động, cứ có giờ rảnh là cô mở ra ngắm nhìn không chán…

Trở lại Mục Lục

 

6


 

7

Về quê ăn tết

 

      Như nhiều chàng trai tỉnh lẻ khác, tốt nghiệp đại học xong Ân chỉ muốn tìm cách xin việc ở thành phố. Nhưng nghẹt nỗi, xin vào các cơ quan nhà nước thì Ân kẹt cái hộ khẩu, còn xin vào công ty nước ngoài thì Ân yếu khâu ngoại ngữ. Nhớ ngày đầu bước chân vào thành phố để thi đại học, ở tạm nhà một người bà con sống lâu năm ở thành phố, Ân ngạc nhiên hết sức khi thấy chú bé mới hơn mươi tuổi con chị chủ nhà ngồi đọc truyện cổ tích bằng tiếng Anh. Sau này học chung với các bạn là dân thành phố Ân cũng nhận ra rằng nếu mình giỏi hơn họ về các môn tự nhiên thì họ thường hơn hẳn mình về ngoại ngữ. Cái dân thành phố mới lạ, hình như họ học ngoại ngữ còn có vẻ dễ dàng hơn học tiếng mẹ đẻ. Ân cũng tìm đến nhiều trung tâm ngoại ngữ vì nhưng học yếu, nói dở, nghe kém, giọng của Ân nói tiếng Anh khiến ai cũng phì cười, thế là Ân ngượng, đâm ra lười học và bỏ luôn.

      Nhà không nghèo đến mức để Ân đủ kiên trì, nhẫn nhục bám lại thành phố tìm cách đổi đời. Ở chờ việc chán quá Ân về quê. Mẹ Ân, một người phụ nữ góa bụa truyền thống, ở vậy nuôi con hơn mười năm nay từ khi cha Ân mất. Hơn thế nữa, bà làm ăn phát đạt bằng cái quán bánh xèo ở thị trấn lúc nào cũng đông khách. Bánh của bà nổi tiếng, dân thị xã chiều chiều cũng vượt đường xa gần chục cây số đến ăn, vì dù bánh có ít thịt nhưng nhiều nấm và rau sống tươi ngon cộng với loại nước chấm rất “độc chiêu” tự bà chế biến và giữ như một bí quyết. Nhờ cái quán bánh xèo ấy mà dù mồ côi cha Ân vẫn được ăn học, sung sướng như một cậu công tử. Khi vào Sài Gòn Ân thuê hẳn một phòng riêng ở cho thoải mái và mua ngay một chiếc xe máy để đi học. Ân thấy mình không thua dân thành phố thứ gì, trừ ngoại ngữ.  

       Ân về, bà mẹ vui lắm, bà vẫn muốn Ân về xin việc ở quê, có nhà cửa đàng hoàng, có vốn liếng bà dành dụm bao nhiêu năm cho con trai cũng kha khá. Bà trông con ra trường, đi làm, ít năm nữa rồi lấy vợ, có cháu cho bà bồng. Xứ này thiếu gì con gái đẹp, ít nhất cũng nổi tiếng trong tỉnh. Quê Ân có câu “Ăn chơi Thạch Trợ, lấy vợ Nghĩa Hành”. Con gái Nghĩa Hành đẹp đoan trang, phúc hậu, không ít dân tứ xứ tới đây cũng tìm cách rước cho được một cô gái Nghĩa Hành. Bà có mấy đứa cháu gái lấy chồng tận Sài Gòn, tụi nó bây giờ giàu có thành đạt, vài ba con rồi mà mỗi lần về quê bà vẫn thấy chúng càng đẹp. Ân cũng biết điều đó, hơn bốn năm học ở Sài Gòn, cũng có lúc sa đà yêu đương với vài cô gái miền Nam nhưng Ân nghĩ mình sẽ lấy một cô gái cùng quê vừa xinh đẹp vừa dễ hợp với mẹ mình hơn. Ân lúc nào cũng nghĩ đến việc làm vui lòng mẹ.

       Việc đầu tiên của Ân về nhà ních no một bụng bánh xèo ngủ một giấc để bù việc ngủ gà ngủ gật trên tàu lửa rồi sau đó đi tắm sông. Tắm sông là một cái thú mà Ân ghiền từ nhỏ. Được hụp lặn giữa bãi bờ xanh ngát, trong giòng nước trong veo Ân như thấy mình trút bỏ hết mọi suy tính, lo toan trước một tương lai buộc phải gắn liền với chữ “thành đạt” mà người mẹ luôn kỳ vọng vào mình. Mặc chiếc quần đùi ướt từ sông về, lúc băng qua đường vào nhà Ân khoác thêm chiếc khăn lông cho kín đáo. Anh đi vòng ngõ sau tránh cái sân đang rất đông khách ngồi ăn, uống bia, cười nói rôm rả. Lối sau nhỏ, lót gạch tàu, lo liếc nhìn đám khách phía trước xem thử có ai quen, Ân vấp phải cô gái ngồi rửa chén khiến cô mất thăng bằng vì đang ngồi trên cái đòn gỗ quá nhỏ, chỉ nhỉnh hơn bàn tay. Ân vội vàng đỡ cô dậy, miệng xin lỗi rối rít. Cô gái lườm Ân bằng đôi mắt thông minh, khuôn mặt sáng láng:

      - Đậu đại học rồi chỉ ngước nhìn lên thôi chắc?

  - Thì người ta xin lỗi rồi mà!

      -  Lỡ đạp chết người ta sao?

  - Người chớ có phải gà con đâu mà dễ chết vậy? Mà sao biết tui kỹ sư?

       - Thì ở đây ai không biết!

   - Còn cô là ai?

   - Tui là tui, làm thuê cho mẹ anh!

   - Xin chào cô, người nhà mà tui không biết!

     - Hổng dám người nhà đâu, người giúp việc thì đúng hơn.

       Ân thấy mình đang ở trần mà nói chuyện với với cô gái trẻ thì không tiện, hơn nữa đó là một cô gái tạo cho Ân một ấn tượng đẹp. Cô mặc một bộ quần áo thể thao đã cũ mèm, loại đồng phục dành cho học sinh, mái tóc búi cao một cách trễ nãi để lộ cái cổ cao thanh thoát và mềm mại, khuôn mặt tròn trắng ngần và mắt môi cô dường như lấp lánh trong bóng chiều nhá nhem. Không kìm được tò mò, vào nhà mặc quần áo chải tóc xong, Ân ra tìm mẹ để hỏi :

       - Nhà mình có con bé mới vào làm hả mẹ?

      - Con gái cô Bảy, cuối tuần nó đến phụ để rửa chén dĩa ..

  - À …

      Cô Bảy là người phụ nữ nghèo, trước đây thường đi làm thuê, lâu nay đến phụ việc cho mẹ của Ân. Ân không ngờ một phụ nữ kham khổ, lam lũ và hiền như cô Bảy lại có một cô con gái xinh đẹp, có dáng dấp như một tiểu thư lại đáo để như vậy, cô có vẻ như một cô nữ sinh hơn là một cô gái làm thuê... Từ lúc ấy, Ân chỉ còn quan tâm điều một điều: Cô gái ấy đã rửa chén xong chưa, đang làm gì, giá đừng sợ mẹ quở để Ân làm giúp cô gái…Nhưng chỉ lát sau Ân nhận ra cô dắt đạp đi ra cổng… Không kìm được, Ân đến chỗ cô Bảy và hỏi:

    - Sao con gái cô về sớm vậy ?

         -  À, em nó về đi học thêm...

 Không kìm được ngạc nhiên, Ân hỏi tiếp:

  - Em học lớp mấy vậy cô ?

  - Em học lớp mười hai đó cháu . 

   - Ồ !

 

****

 

      Bà mẹ sắc sảo không thể không nhận ra con trai mình đang lao đao vì cô con gái của người làm thuê. Bà công nhận con bé trông thật đẹp đôi với con trai mình, nếu nó có quần áo sang trọng hơn một chút. Nhưng cái tính con bé ấy bà không ưa. Con nhà nghèo mà tính tình chảnh chọe. Từ khi đến phụ việc ở đây nó không chịu ăn cơm cùng với mẹ nó và những người giúp việc khác dưới bếp, còn bà thì ăn riêng trước ở nhà trên, dù ăn có một mình. Nó còn cả gan góp ý bà là không nên dùng bột ngọt nhiều có hại cho sức khoẻ của khách. Cái món sữa đậu nành à lấy của người ta bỏ mối để bán, thường đựng trong chai nhựa cũ, nó bảo vậy không tốt, uống sẽ dễ bị ung thư, nên đựng trong chai thủy tinh hoặc hũ sành! Chai thủy tinh ở đâu cho đủ lại còn dễ bể nữa… Mới có nhúm chữ mà ngo ngoe, con bà học xong đại học còn chưa ăn thua.

  Bà thẳng thắng góp ý khi thấy Ân cứ tìm cách gặp cô gái hoặc nhìn lén cô:

        - Con đừng tiếp xúc với con Hà, không được đâu…

   -  Sao không được hả mẹ ?

         -  Con đó nó đanh đá lắm. Mà chẳng lẽ con ưng nó, mẹ lại ngồi sui với con Bảy mẹ nó, mầy bôi tro trát trấu vào mặt mẹ à ?

         - Chưa gì mà sao mẹ nói ghê vậy, cô ấy còn đi học mà…rồi sẽ có tương lai.

         - Thôi, đừng ỷ học cao rồi lý sự với mẹ, đũa mốc không thể chòi mâm son, nó có thành bà gì thì kệ nó! Mới nứt mắt mà đã biết liếc trai. Từ khi con về nó siêng đến làm chứ trước đây mấy khi. Có khách đông cần người tới phụ kêu hết hơi nó còn õng ẹo.

      Thế nhưng sau đó Hà ít đến phụ việc hơn, hình như cô biết mẹ Ân đã nói gì nên thấy Ân là lỉnh đi. Ân giận mẹ, ý định ở lại quê nhà cũng biến mất. Anh lại khăn gói lên đường vào Sài Gòn rồi ra sao thì ra. Hơn một năm, qua vài lần nhảy cóc từ công ty này qua công ty khác vừa lăn vào học ngoại ngữ, Ân mới tìm được việc mình yêu thích và trụ ở đó. Ngày về thăm mẹ với rất nhiều nhớ thương và chút ít dỗi hờn, Ân khát khao hy vọng sẽ được gặp lại Hà. Người Ân muốn gặp sau mẹ là cô Bảy nhưng những người làm bảo rằng cô Bảy đã vào Sài Gòn làm thuê để nuôi con gái học đại học rồi. Có người còn vui miệng kể rằng nhiều người muốn giới thiệu cho Hà lấy chồng Việt kiều, lấy chồng Hàn Quốc giàu lắm, đổi đời ngay tức khắc khỏi phải làm gì nhưng cô chỉ muốn đi học… Một lần nữa lại lạc mất Hà, Ân thấy buồn. Nhiều cô gái cũng xinh đẹp, gặp hoài, học chung, làm chung, họ còn rất ân cần hoặc chủ động tán tỉnh mình sao Ân không nhớ, lại hay nghĩ vẩn vơ về cô gái mới chạm mặt có vài lần mà còn bị mẹ cấm đoán…

 

****

 

      Đã lâu lắm, phải đến ba năm liền Ân chưa về quê, tuy vậy khi nhớ con bà mẹ lại vào Sài Gòn thăm, nhân tiện xem con ăn ở ra sao giữa cái thành phố mà nhắc tới tên là người dân quê bà lại rộn lên niềm ngưỡng mộ. Năm nay bà bảo không được khoẻ, cố mà về ăn tết với mẹ. Nằm trên tàu, thời tiết mùa đông se lạnh, Ân trùm mền ngủ suốt, chỉ mong cho mau tới nhà. Thế nhưng chưa tới quê nhà, tàu chỉ dừng lại ít phút ở những ga nhỏ của vùng lân cận, nghe giọng địa phương hao hao, rồi cảnh vật, hình ảnh người dân cũng gần giống người quê mình, lòng Ân rộn lên một niềm xao động yêu thương. Anh bật dậy, vén rèm cửa để nhìn ngắm cho thỏa con mắt. Cảnh lẫn người đang xôn xao đón tết, những ngôi nhà mới đang hối hả cho công đoạn cuối cùng, quét vôi, tô điểm. Trước thềm hoa mai, hoa cúc hoa vạn thọ đã tranh nhau khoe sắc. Vùng đất này đã giàu hơn nhiều so với lần đầu tiên anh xuôi tàu vào Nam để thi đại học, nhà tranh lưa thưa, cảnh vật u buồn... Lần này về, Ân mang nhiều quà về cho mẹ và cho cả bà con hàng xóm, một vài người bạn thân thời còn trung học, nay có người đã vợ con đề huề. Bà mẹ hẳn sẽ hài lòng về cậu con trai bắt đầu phát tướng, hồng hào và cao lớn. Ân làm việc trong một công ty nước ngoài, có một chức vụ nho nhỏ trong công ty, được đi nước ngoài thường xuyên, chủ yếu là những nước trong khu vực châu Á. Chuyến đi nào Ân cũng chụp hình kỷ niệm để dành mang về cho mẹ xem, để mẹ ngắm nghía mỗi khi con trai đi xa và mang ra khoe khi có ai hỏi thăm về con mình. Chỉ có một điều bà không hài lòng về con trai là không chịu lấy vợ hay ít nhất cũng gởi hình bạn gái về cho bà xem. Thật ra Ân cũng có vài mối tình, tưởng cũng yêu ghê lắm nhưng rồi cũng đến lúc phải chia tay, như một kết cuộc không tránh khỏi, dù những cô gái không tiếc gì với Ân, kể cả chuyện quan hệ tình dục, thậm chí có cô dễ dàng đáp ứng Ân chuyện ấy như mời nhau đi uống cà phê, Ân đâm ra ngại.

      Là ga nhỏ nên tàu chỉ dừng có năm phút để hành khách lên và xuống, ai cũng vội vàng, người xuống đứng xếp hàng chờ xuống rồi chen nhau với người đi lên, cửa hẹp, túi xách họ vướng vào nhau. Ân bị xô đẩy suýt té vào một cô gái đi lên, mang đồ đạt lỉnh kỉnh tóc dài tha thướt. Vóc dáng xinh xắn, quần áo hợp thời trang của cô khiến Ân không thể không tò mò tìm cách nhìn thử khuôn mặt. Biết bao cô có dáng đẹp nhưng nhìn tận mặt thì xấu hoắc. Lần này Ân không thất vọng, nhưng anh ngớ người. Trời, trông cô quen thuộc quá khiến Ân không thốt nên lời. Cô gái cũng kinh ngạc khi nhận ra Ân. Chưa kịp nói gì thì dòng người xô nhau, cô ở trên tàu và Ân đã tiếp đất, đứng ở sân ga và tàu bắt đầu chuyển bánh. Ân hoảng hốt, cuống cuồng khiến một người khách đứng cạnh hỏi :

 -  Anh có bỏ quên gì trên tàu không ?

      Giá mà anh bỏ hành lý ở sân ga cho nhẹ để nhảy lại lên tàu. Không kịp nữa rồi nhưng Ân vẫn chạy theo, giống như con tàu là một thỏi nam châm khổng lồ còn anh là một vụn sắt, anh bị hút theo, chạy càng lúc càng nhanh cho kịp với tốc độ của con tàu. Và từ một khung cửa, gần chỗ anh ngồi lúc nãy một khuôn mặt đẹp hiện ra áp sát vào kiếng với mái tóc dài rối bời, đôi mắt mở to nói những lời không thanh âm mà Ân tin rằng mình nghe hết. Em nhận ra anh rồi. Em đây. Tàu chạy nhanh hơn, bỏ Ân đang lùi lại, anh mệt đứt hơi, bải hoải chân tay vì vừa xách nặng. Ân đứng nghỉ, nhìn theo con tàu xa khuất dần, sân ga vắng hoe. Ân buồn bã lê bước ra cổng và gọi một chiếc xe ôm. Mọi rộn rã về những ngày tết ở quê nhà tắt ngúm. Cuộc trùng phùng quá bất ngờ mà như thành vô vọng. Bao nhiêu năm nay không phải Ân không nhớ đến cô bé rửa chén cho nhà mình năm xưa, biết cô đang ở cùng thành phố với mình, nhiều lúc đi trên đường phố Sài Gòn, Ân bỗng ao ước giá như Hà xuất hiện ở đâu đó, để Ân chạy theo, gọi tên và giữa họ không còn gì chia cắt nữa. Nhưng Sài Gòn rộng lớn quá, nếu không có một đầu mối liên lạc thì dù sống suốt đời ở đó người ta vẫn vĩnh viễn lạc mất nhau…

       Biết con về, bà mẹ làm rất nhiều món bánh mứt đặc biệt của ngày tết. Phụ nữ ở quê anh thường tự làm những món ấy như một cách thể hiện tài nữ công gia chánh khéo léo của mình chứ ít khi ra chợ mua, chỉ người người nào vụng lắm mới mua bánh mứt ngoài chợ về cúng ông bà và đãi khách trong ba ngày tết. Mẹ Ân thường bảo con, lấy vợ phải tìm đứa con gái cho khéo, người khéo thường khôn. Cho nên người ta mới nói “khôn khéo” hay “vụng dại” là vậy. Dù nhà chỉ có hai mẹ con bà vẫn làm đủ món, mỗi món một ít. Nào bánh nổ, bánh thuẩn, mứt bí, mứt mè, mứt gừng… Nhưng Ân mê nhất chính là món bánh tét mẹ làm, bánh tét không nhiều thịt như bánh chưng, ít đậu xanh hơn nên ăn đỡ ngán. Đòn bánh tét bà gói bao giờ cũng tròn đều, nhưn bánh ngay chính giữa trông như một cái nhụy hoa, lát bánh tét ra trông trắng ngần, chung quanh viền một nét xanh màu lá và thơm lừng mùi tiêu, mùi hành phi, mùi lá chuối. Ân thường ăn no căng bánh tét với dưa món do mẹ làm từ củ kiệu, đu đủ, cà rốt… Ngâm với nước mắm ngon nấu pha đường. 

       Ân sốt sắng giúp mẹ gói bánh, quán bánh xèo tạm nghỉ từ mấy hôm trước. Hồi nhỏ, Ân hay ngồi nhìn mẹ gói bánh và chỉ chực được bà cho chút nhân đậu xanh còn lại được viên thành từng nắm để đặt vào giữa cái bánh, món nhân ấy rất ngon vì được bà xào với các thứ gia vị. Bà gói và bày cho Ân cách gói :

- Tập gói đi, sau này có muốn ăn thì gói chứ con gái bây giờ mấy ai còn biết gói bánh chưng bánh tét, toàn đi mua. Sao ngon và sạch bằng bánh mình làm…

  Bỗng bà ngập ngừng :

      - Con còn nhớ con Hà con cô Bảy hồi làm cho mẹ không ?

 - Dạ nhớ, sao mẹ ?

      Giọng bà ái ngại nhưng không kìm nổi niềm vui.

       - Bây giờ nó giỏi lắm nghen, đã tốt nghiệp đại học rồi, có việc làm ngon lành còn đang học thêm gì đó. Nó đã đưa cô Bảy vào trong từ mấy năm nay. Vừa rồi nó có về thăm quê, mẹ nó yếu không về được. Nó có ghé thăm mẹ và hỏi về con…Ờ, cũng tội con nhỏ, nó chẳng tỏ ra oán giận mẹ gì đâu .

  Ân yên lặng, nén một tiếng thở dài.

       Như chợt nhớ ra điều gì bà lau tay vào cái khăn lau lá chuối rồi đứng lên, đến cái ngăn kéo gần đó lấy đưa cho Ân một cái danh thiếp. Cầm lấy, thoáng nhìn qua, Ân run lên như bắt được vàng. Những ngày tết ấy, lòng Ân cũng vui như tết, có lẽ lâu lắm rồi anh mới có một cái tết vui như vậy. Ân cùng mẹ đi thăm mộ ông bà, ngoan ngoãn lẽo đẽo theo bà đến nhà họ hàng. Ai cũng hỏi anh một câu giống nhau:

      - Chừng nào cưới vợ cho tui uống rượu đây?

  Ân tủm tỉm cười:

      - Dạ nếu mẹ cháu không cấm thì hy vọng trong năm nay…

  Bà mẹ lườm con :

      - Thời này ai mà cấm được các cô, các cậu…

      Bởi ngay từ lúc nhận được tấm danh thiếp ấy, Ân cảm thấy mình có tất cả. Họ tên, chức vụ, địa chỉ công ty cùng số điện thoại cố định lẫn di dộng và email của Hà. Anh lập tức gọi cho cô, sau đó họ nhắn tin cho nhau liên tục. Họ luôn bên nhau. Ân còn chạy ra một tiệm internet để gởi email cho Hà, để chat với cô cho thỏa… Hà hứa sẽ ra ga đón khi anh trở vào. Ân cứ như sống trên mây, trí tưởng tượng hoạt động hết công suất. Xuống ga, Ân sẽ chạy đến ôm Hà thật chặt và không bao giờ để mất cô lần nữa.

 

Trở lại Mục Lục

 

 


 

Người đàn ông thổi kèn

 

 

     Từ hồi còn là thiếu nữ, Bích đã biết mình không đẹp. Ngoài hai mươi rồi mà hiếm hoi mới có người chọc ghẹo bâng quơ. Nhà nghèo, lại là chị cả của một đàn em đông đúc, học đến lớp mười Bích phải nghỉ ở nhà phụ mẹ trông em, đi chợ nấu ăn, chẳng có thời gian và quần áo đẹp để đi chơi, kết bạn. Người con gái nghèo không chỉ khổ trong cuộc sống mà trong tình duyên còn khổ hơn. Dù có người thấy cô siêng năng, chăm chỉ nhưng khi biết nhà nghèo quá thì họ ngại, không tiến đến. Cho đến mãi sau này, có ai nhắc đến chuyện chồng con, Bích thấy tủi thân.

Các em lớn dần, Bích ra chợ tập buôn bán. Ban đầu, chỉ có một cái nia đựng kim chỉ đi bán dạo, sau đó mới dành dụm được ít tiền, sang được một cái tủ kiếng trong góc chợ. Buôn bán thật thà, tính tình nhẹ nhõm nên dù đứng trong góc Bích vẫn có khách quen. Quyết tâm thoát nghèo, qua mấy năm gom góp, tiết kiệm tối đa, Bích sang được một cái sạp lớn giữa chợ. Nhưng mải lo làm ăn, suốt ngày ở ngoài chợ, Bích đâu có dịp giao tiếp với ai ngoài khách hàng hầu hết là phụ nữ. Bích làm được hết mọi việc, dựng vợ gả chồng cho đàn em, chữa bệnh cho mẹ già, xây nhà mới… Đến khi người mẹ nằm xuống, một mình trong căn nhà rộng, Bích mới thực sự sợ hãi nỗi cô đơn… Bích hoảng hốt tìm đến những câu lạc bộ kết bạn, may đồ đẹp, đi học nhảy đầm, mua báo để tìm đọc mục kết bạn bốn phương… Nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Buồn, Bích đóng cửa sạp đi du lịch. Đi cho biết đó biết đây. Nhưng càng đi Bích càng buồn vì người ta đi chơi có đôi, có đũa hay có con cái, còn Bích chỉ một mình.

       Hôm ấy, vừa về đến nhà, Bích mang đồ đạc lỉnh kỉnh lên lầu, không nhìn thấy rõ bậc thang ở chỗ quanh cô bước hụt bị trượt ngã rơi xuống tận chân thang. Đau quá nhưng Bích cũng cố lết đến gọi điện thoại cho đứa em. Chẳng may điện thoại cũng bị hư, Bích liều mạng sang đập cửa căn nhà hàng xóm gần nhất, cái nhà mà Bích chẳng máy ưa vì dạo này, tối nào cũng phát ra tiếng kèn làm cô mất ngủ. Ông ta mặc áo sang nhà cô, hỏi mấy câu rồi cầm bàn chân nắn nắn, thấy Bích “á” lên một tiếng rất to van nài ông đừng nắn bóp nữa. Ông sợ nên vội vàng ra gọi xích lô đưa cô đến bệnh viện, ông còn bồng cô lên xe, mùi thuốc lá rẻ tiền từ người ông xông lên nồng nặc làm Bích phải nín thở. Chân cô bị bong gân, bệnh viện chỉ thoa nắn, băng bó rồi dặn cô về nhà tĩnh dưỡng.

       Không đi đâu được nên ông ta thànhcái chân” của Bích. Bích đưa địa chỉ, ông tìm đến báo cho các cô em biết, te te đi mua giùm thức ăn khi cô cần. Lúc này Bích mới giận đám em, thầm trách cứ chúng vô ơn. Đứa nào cũng bận làm ăn, con cái, chỉ ghé qua thăm chốc lát, đâu thể chăm sóc chị như Bích chăm sóc chúng khi còn bé. Trước đây, suốt ngày ngoài chợ cái gì cũng sẵn, Bích đâu nghĩ tới ngày này. Thấy vậy, ông hàng xóm lại hay qua hỏi thăm. Bích sai vặt ông ta thoải mái vì nghĩ rồi sẽ đền ơn cho ông. Quen buôn bán, Bích nghĩ tiền bạc sẽ giải quyết được mọi chuyện, kể cả ơn nghĩa.

          Về đây đã mấy năm, bà con trong xóm không biết tên gì nên gọi ông là “ông thổi kèn”, vì nghe ông thổi kèn trong một ban nhạc. Ban ngày, Bích ngoài chợ thì ông ở nhà, ban đêm ông đi làm thì Bích về nên chẳng mấy khi gặp. Bích không chú ý gì đến người đàn ông cao nhòng, ốm nhom, trông có vẻ nhàu nhò đó. Vì Bích nghĩ, chắc hơn Bích cả chục tuổi, người ta đã có vợ con rồi quan tâm làm gì. Bây giờ cô mới biết mấy tháng nay ban nhạc ông cộng tác tan rã, chưa xin được nơi khác nên tối nào ông cũng thổi kèn cho đỡ buồn. Có lần Bích đã sang đập cửa bảo ông ngưng thổi bằng một giọng rất khó chịu.

       Số ông thật long đong, nhưng ông bảo tất cả cũng do ông mà ra. Xuất thân từ một gia đình giàu có, được cha mẹ cho sang Pháp du học. Nhưng qua đó, thay vì học bác sĩ như gia đình mong muốn, ông lại học thổi kèn, môn ông rất thích nhưng bên này bị cha mẹ cấm. Khi biết thế, họ ngưng chu cấp tiền bạc, ông đành phải trở về và bị cha mẹ ruồng bỏ, không chia cho ông một món gia tài nào. Ông làm trong một ban nhạc, rồi cũng lấy vợ nhưng vì nghèo, vì không con cái, không hạnh phúc nên họ chia tay. Cách đây mấy năm, cha mẹ ông qua đời, trước khi mất, người mẹ đã gọi ông chia cho ông căn nhà mà bấy lâu nay bà cho thuê để kiếm sống những ngày xế bóng… Khi nghe thế thì Bích không còn ý nghĩ sẽ trả công cho ông bằng tiền. Bích hay mời ông cùng ăn cơm. Có người trò chuyện Bích ăn ngon miệng hơn. Lần đầu tiên Bích được tiếp xúc với một người đàn ông có học thức và không quan tâm đến tiền. Và dù thất nghiệp, cô độc, túng thiếu nhưng cuộc sống của ông là cả một thế giới mà Bích không hiểu hết.

       Khi chân bớt đau, Bích phải ra ngồi chợ nhưng chưa chạy xe được. Bích nhờ ông chở nhưng ông bảo không biết đi xe máy. Tối tối, Bích động viên ông tập xe, khi chạy được ông chở cô đi bán. Ngồi sau lưng ông mà Bích cứ lo đến rụng tim, nhưng ông chạy xe rất cẩn thận, dần dần Bích giao cho ông chìa khóab nhà để ông lo cơm nước. Bích từ chợ về mua thêm thức ăn. Trong tủ lạnh cô bây giờ đã có bia, có nem, chả hay những món nhậu khác. Nếu như trước đây cô cứ nấn ná ngoài chợ, thì bây giờ mong sao dọn hàng cho nhanh để về vì biết ở nhà có người đang chờ mình. Lần đầu biết được hương vị của tình yêu, ngồi ngoài chợ Bích cũng thấy lòng ngây ngất, thấy gì cũng vui, nghe gì cũng chực cười. Họ bàn tính đám cưới, một cái đám cưới rất lớn, có đủ anh em và bạn bè trong ban nhạc cũ của ông và đám em, đám cháu của Bích, những bạn hàng ngoài chợ. Trong tiệc cưới, theo yêu cầu của mọi người, chú rể lên chơi một bản nhạc, Bích vô cùng tự hào vì có một người chồng tài hoa.

     Từ đó, tối nào Bích cũng yêu cầu chồng thổi kèn cho nghe. Ông cười bảo “Nó không làm em khó chịu nữa sao?”. Bích trả lời “Hồi đó em khó chịu vì tiếng kèn của người lạ, còn bây giờ là tiếng kèn của chồng mình”. Bữa ăn nào Bích cũng gắp bỏ đầy chén của chồng, quần áo cũ của chồng cô vứt bỏ hết, mua toàn áo xịn. Mỗi lần ông chở Bích ra chợ rồi phụ dọn hàng, mọi người xì xầm “Chồng bà Bích đẹp trai ác liệt há!”. Bích có thai, ông mua bao nhiêu là sách dạy chăm sóc thai nhi, em bé cho Bích đọc, cái thai lớn quá mà Bích đã lớn tuổi nên phải sinh mổ. Thằng bé giống ông, lại rất khôn, mới tám tháng mà có khách đến chơi giành bồng, nó sợ hãi kêu thét lên Ba!” khiến ông sung sướng đỏ cả mặt và lúng túng phân trần “Hơn năm mươi tuổi, mới được nghe tiếng gọi ba lần đầu!”

Trở lại Mục Lục

 

8


 

9

Những món đồ gỗ

 

 

      Cửa phòng bật mở, chị thư ký công đoàn hiện ra:

      - Ai tham gia đi cứu trợ bão lụt miền Trung không? Đoàn đang thiếu một người.

Cả phòng nhao nhao:

      - Đi bao lâu?

      - Một tuần!

      - Có trừ vào phép năm không?

      - Sao lại không trừ? Đi làm từ thiện mà còn tính với toán!

      Đôi mắt có đuôi của chị lườm người hỏi một cách rõ dài. Nhạn băn khoăn, có nên đi không. Cô muốn thoát ra khỏi thành phố đông đúc, ồn ào này cũng như muốn thoát ra khỏi tâm trạng u uất của mình. Vả lại Nhạn chưa có dịp ra miền Trung bao giờ, cô sốt sắng đăng ký như sợ ai giành mất phần của mình.

       Đoàn xe khởi hành rất sớm, ai cũng nghe ngoài ấy rất lạnh nên mang theo cả đống quần áo, có người còn quàng sẵn khăn len như để phòng cái lạnh từ xa. Dân Sài Gòn nhát lạnh nhưng thèm lạnh lắm. Sống trong nắng nóng quanh năm, thỉnh thoảng trời mới ban cho một vài ngày lạnh, thường là vào dịp Noel. Nói lạnh là với cảm nhận của dân Sài Gòn chứ với dân miền Trung, miền Bắc thì có thấm tháp gì so với cái lạnh thấu xương ở quê họ. Thế nhưng đó là dịp để mọi người diện quần áo lạnh. Dù mùa lạnh kéo dài có vài ngày nhưng không thể không sắm, rồi còn thỉnh thoảng đi Đà Lạt chơi. Ăn mặc kín đáo trông mọi người có vẻ đẹp hơn, phái nam trông thật lịch sự với những cái áo vest, áo gió. Còn phái nữ trông như những con búp bê, sang trọng trong những chiếc áo lạnh đủ kiểu, đủ màu cùng với khăn quàng… Trong xe mọi người nao nức vì được thay đổi không khí, nói chuyện râm rang. Có người dậy sớm quá bây giờ ngủ gà ngủ gật, chẳng sợ ai cười. Còn Nhạn yên lặng mải mê với những câu hát về miền Trung mà cô thuộc lòng từ nhỏ, do bà nội cô hay hát. Bà là một phụ nữ gốc miền Trung, lấy chồng người miền Nam rồi ở hẳn trong này, con cái đùm đề khiến bà ít có dịp về thăm quê, rồi khi rảnh rang về được thì chẳng còn mấy người thân ngoài đó nên bà không về nữa. Tuy vậy, nỗi niềm hoài hương của bà luôn được thể hiện qua những câu hát. Bà rất thích hát, cả khi già rồi vẫn hay hát vu vơ một mình như thiếu nữ. Nhạn nhớ nhất là câu Về miền Trung, miền thuỳ dương bóng dừa ngàn thông, thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài. Ôi quê hương, xứ dân gầy, ôi bông lúa. Có tiếng hát xao xuyến dưới ánh trăng vàng…”. Trong hình dung của Nhạn, đó là một miền đất nghèo nhưng rất thơ mộng, con người ở đó cũng trữ tình như bà nội cô. Cho nên cô chỉ thật sự chú ý cảnh vật bên ngoài khi xe tiến vào mảnh đất miền Trung. Rừng núi chập chùng, những bãi biển tuyệt đẹp rồi những thị xã, thành phố cũng tấp nập phồn vinh. Cô nghĩ, có lẽ miền Trung bây giờ giàu hơn. Nhưng càng ra xa sự phồn vinh ấy giảm dần, đồi trọc, rừng thưa, đất cằn, những khóm tre gầy xơ xác… Những căn nhà mặt tiền bé xíu như những cái nấm dàn chào hai bên quốc lộ. Mùa đông, trời u ám, mọi vật có vẻ đìu hiu cho đến khi hai chiếc xe vượt qua một đoạn đường đèo xói lở sau một cơn bão lụt kinh hoàng. Khi xe họ tiến vào một ngôi làng chỉ mới cách đây một vài hôm bị nước lụt cô lập hoàn toàn như một ốc đảo thì trời cũng vừa tối.

      Công việc cứu trợ không thể tiến hành ngay được, chính quyền xã ở đó cũng lúng túng, mải một hồi lâu mới tìm được cho họ một chỗ nghỉ tạm thời cùng với một đoàn cứu trợ khác, cũng từ thành phố mới đến vào sáng hôm nay. Mấy chục người chen chúc trong một ngôi nhà gỗ khá rộng nhưng xiêu vẹo, chung quanh cây cối còn ngổn ngang, mùi nhựa cây, trái cây còn non và mùi hoa lá rụng tơi bời trong vườn còn tỏa hương. Trong cái không gian và hoàn cảnh đặc biệt ấy, những người xa lạ lập tức cư xử với nhau thật mộc mạc, chân thành, điều ít có ở người dân thành phố. Thời tiết lạnh lẽo, không điện không đèn, họ nhóm lửa nấu cơm ăn với muối mè do một người địa phương mang tới, đói bụng, lạ miệng, họ ăn thật ngon lành. Lạ chỗ, thiếu tiện nghi nên khó ngủ, cũng chẳng có đàn nhưng có một người ngồi dựa cột, mắt lim dim say sưa huýt sáo mồm những điệu tango say đắm như để ru mọi người ngủ.

       Sáng hôm sau, Nhạn dậy sớm lo bữa ăn sáng cho đoàn, vì ở đây làm gì có hàng quán. Nhóm lửa nấu nước với mớ cây ẩm cô làm khói um lên, khảo nước mắt vô cớ của rất nhiều người, trong đó có cô. Người huýt sáo mồm ban tối đến giúp cô một lúc thế là lửa cháy hực hở để nấu mì gói và sưởi, mọi người lại được no, ấm. Lúc đoàn của cô đến điểm cứu trợ, ngang qua một điểm khác cô lại thấy anh chàng huýt sáo mồm đang tích cực làm việc cùng với đoàn của mình. Buổi trưa, khi xe của cô về nơi nghỉ ngơi, Nhạn thấy anh ta bê bết bùn đang phát mì gói, phát gạo, quần áo cho bà con, đoàn của anh ta có ít người nhưng họ biết làm việc hiệu quả hơn đoàn của cô, trưởng đoàn cũng nhận ra điều đó. Sau khi ăn cơm trưa, trưởng đoàn hỏi ý kiến mọi người và đề nghị kết hợp với đoàn bên kia để công việc nhanh chóng hơn vì hàng cứu trợ còn nhiều.

      Hôm sau, Nhạn về cùng tổ với người huýt sáo mồm, bấy giờ Nhạn mới biết anh ta tên Bình. Trong bữa cơm anh ta ngồi gần cái nồi to tướng và bới cơm cho Nhạn. Nhạn mắc cỡ vì nhận ra mình ăn nhiều hơn thường lệ, có lẽ vì lạnh nên cô mau đói, làm việc nặng và đâu có dịp nào ăn vặt. Như thói quen, khi trò chuyện với Bình, Nhạn hỏi về nghề nghiệp, đó là thứ mà Nhạn tin rằng dễ xác định được thành phần xã hội của một người nhanh nhất, Bình trả lời rất tự tin thợ mộc khiến cô tràn trề thất vọng. Nhạn không thích giao du, kết thân với những người có trình độ thấp hơn mình. Cô cụt hứng không trò chuyện với anh nữa. Thế nhưng những giờ nghỉ giải lao, những lúc di chuyển trong gió bấc mưa phùn, ánh mắt ấy hướng về cô ấm áp như hai ánh lửa và nhất là những điệu nhạc anh huýt sáo mơn trớn trái tim Nhạn, làm nó trở nên mềm mại, run rẩy thật tội nghiệp… Một anh thợ mộc sao cảm được một dòng nhạc cao cấp, tinh tế dường kia?

       Khi Nhạn cương quyết từ chối một chàng trai theo đuổi mình khá lâu, ai biết chuyện cũng tiếc cho Nhạn, một người có nhiều điều kiện cho một cuộc sống ổn định. Anh ta có nhà cửa, có xe, biết làm ăn, bên cạnh một chức danh trong cơ quan nhà nước… Thế nhưng không hiểu sao cứ mỗi lần đối diện với anh ta Nhạn thấy lòng buồn vô hạn. Vài lần người ấy nồng nhiệt chộp lấy bàn tay Nhạn và định kéo cô vào lòng, Nhạn không hề rung động mà chỉ thấy dửng dưng, lạnh tanh, cứ va cham vào anh ta là cô nổi gai gốc… Thực sự Nhạn muốn lấy chồng, muốn thay đổi cuộc sống đơn thân nhàm chán nhưng không thể thuyết phục mình, càng không thể ép buộc mình được… Hình như người con trai khá chu toàn ấy không phải để dành cho Nhạn, mà cô lại rất tin ở linh cảm ấy của mình.

      Nhưng khi người ấy không còn theo đuổi nữa, Nhạn cũng hụt hẫng, cô đơn… Bạn bè cùng lứa lần lượt lên xe hoa khiến Nhạn càng thấy bơ vơ như một kẻ ở lại, cũng có một vài đồng nghiệp tìm cách bày tỏ tình cảm, người này người kia giới thiệu… Nhưng càng chín chắn Nhạn càng khó yêu. Mẹ dọa Chín quá coi chừng rụng đấy con à!” Nhạn cũng có một nỗi lo sợ mơ hồ …

      Nhạn nghĩ sẽ quên Bình dễ dàng khi về thành phố, cô tự nhủ rằng đó chỉ là một chút xao lòng nhưng lạ thay cô lại nằm mơ thấy Bình, với ánh mắt sâu đen, bàn tay gầy gầy và những giai điệu diễn tả bằng tiếng huýt sáo mồm. Nhạn có thể trốn anh trong đời thật nhưng làm sao trốn trong giấc mơ?

      Một lần Nhạn len lỏi trong dãy phố bán đồ lưu niệm tìm một món quà cho cô bạn thân mới dẫn chồng từ nước ngoài về sắp ra đi trở lại và đụng phải Bình trong một gian hàng chật chội. Nhạn kìm nén sự mừng rỡ hỏi Bình:

          - Anh làm gì ở đây?

          - Tôi đi giao hàng, còn cô?

          - Nhạn đi mua hàng …

       Cô còn kể nãy giờ chưa tìm ra được món quà ưng ý cho người bạn quý để chưng trên đàn dương cầm, trong căn phòng sang trọng ấm cúng theo phong cách châu Âu của bạn mà Nhạn đã thấy qua ảnh.

     Bình bảo hay theo anh về kho thử xem, có vài món anh không muốn bán nên vẫn còn. Nhạn líu ríu ra bãi xe lấy xe chạy theo Bình như một đứa trẻ. Đó là một cái xưởng mộc tồi tàn có chừng vài người đang làm việc say sưa, thấy Nhạn họ ngẩn lên chào rồi cúi xuống làm việc tiếp. Những món hàng sơ chế trông còn thô mộc đầy trên các dãy kệ và lăn lóc dưới nền nhà. Nhưng những gì trong kho chứa này với Nhạn là cả một kho báu, cô căng mắt ra ngắm nhìn. Nào tranh, tượng và những món để trang trí khác làm bằng gỗ quý rất tinh xảo, độc đáo mà cô không thấy bất cứ tiệm mỹ nghệ nào bán. Bình bảo đó là hàng đặt và một số là “gia bảo của anh chỉ để chưng chơi chứ không bán. Nhạn tự ái:

          - Vậy chứ anh cho Nhạn đến đây để làm gì?

          - Để tặng. Bất cứ món nào cô thích.

          - Tại sao lại được thiên vị như thế?

          - Vì hy vọng cô có đủ trình độ để thưởng thức nó.

          Hóa ra con người này cũng rất kiêu kỳ. Bản tính tham lam cái đẹp, Nhạn thấy nếu không nhận thì cũng phí, nhưng nhận cũng bất tiện. Mải mê săm soi từng món đồ gỗ, Nhạn loáng thoáng thấy anh lấy giấy bút chì ra vẽ, hình như anh đang vẽ cô. Nhìn lên tường thấy nhiều tranh bút chì, ký tên anh. Bất giác cô hỏi:

          - Anh là họa sĩ?

          - Trước đây tôi có học ở một trường người ta dạy vẽ …

          Nhạn ra về, cảm ơn Bình với lời “hăm dọa”:

       - Nếu lần sau anh không lấy tiền thì Nhạn không dám nhận một lần nữa đâu nha!

          Trời bắt đầu tối. Bình bảo đoạn đường này không an toàn cho phái nữ đi buổi tối nên xin phép đưa cô về. Anh luôn chạy xe phía sau cô, hai người không trò chuyện gì, Nhạn chỉ cảm nhận được ánh đèn xe ấy luôn chong về phía cô như dẫn đường. Đến ngõ Bình chỉ dừng lại một giây cho Nhạn kịp chào rồi quay xe.

       Một tuần sau đi làm về em gái Nhạn bảo có người gởi cho cô một món quà. Nhạn mở ra, đó là một bức phù điêu bằng gỗ chạm khắc một hình một cô gái mà không khó khăn lắm để cô nhận ra đó là chính mình. Nhạn đứng vòng tay, co ro như đứng trước gió lạnh, tóc dài bay dạt về phía sau, từng đợt như sóng nhấp nhô và óng mượt… Hình như Nhạn đã đứng như thế bên bờ sông hôm đi cứu trợ bão lụt và rất xúc động trước một dòng sông vẫn còn dấu vết hoang tàn của con nước hung hiểm vừa đi qua… Chắc hôm ấy Bình đã nhìn lén cô trong tư thế đó.

         Từ hôm đó Bình không xuất hiện, không tìm gặp, không mời Nhạn đi đâu đó, cũng không gọi điện mà chỉ thỉnh thoảng gởi cho cô một món đồ gỗ nho nhỏ, như một cái khung tranh, một cái hộp đựng đồ trang điểm, cái giá nhỏ để sách, một đôi guốc… Nhạn biết đây là những món Bình làm riêng cho cô chứ không có trong danh mục hàng hoá của ai đặt. Bình đã ẩn hình trong gỗ gởi đến cho cô bao nhiêu lời không nói. Và Nhạn như rơi vào một trạng thái tương tư đến quay quắt, làm việc gì cô cũng nghĩ đến Bình. Đi làm cô cũng mang theo một món nào đó của anh tặng để ngắm nghía, tiếng chuông điện thoại nào vang lên cô cũng hy vọng là của Bình, dù có số điện thoại của cô nhưng Bình tuyệt đối không gọi, chẳng lẽ cô gọi trước? Rồi một tiếng gió thoảng, một điệu nhạc văng vẳng đều khiến cô mơ tưởng đến tiếng huýt sáo mồm… Những món quà vẫn tiếp tục gởi đến cho cô mỗi tuần. Hơn ba tháng như thế, không gặp được Bình, cô cảm thấy ngột ngạt đến mức không thể chịu đựng nổi. Buổi chiều đi làm về Nhạn ghé vào nhà thay quần áo rồi chạy xe như điên dại đến chỗ Bình, cô đi để thoát khỏi sự nhớ nhung căng thẳng, để xác định tình cảm của mình chứ không hẹn trước, nên không tin rằng sẽ gặp được anh. Xưởng vắng tanh, Nhạn hồi hộp như thuở nhỏ chơi trò trốn tìm… Có lẽ mọi người đã ra về, trước khi lên tiếng gọi, Nhạn chợt nhớ ra phải tìm một cái cớ gì để nói với Bình khi cô đường đột đến đây.

       Bình ra, lúng túng trong áo may – ô và quần cụt liền xin lỗi Nhạn đi mặc quần áo. Chỉ trong giây phút ấy thôi, gặp được anh, người Nhạn như giãn ra, ấm áp lạ thường đến nỗi cô có thể yên tâm quay về như vừa nạp đủ năng lượng cần thiết. Bình trở ra, Nhạn nói, nói ngược ý mình như bao nhiêu cô con gái đang yêu khác:

       - Em đến đây để xin anh đừng gởi thêm những món quà ấy, em không chịu được …

      Nhạn nói như gió thoảng, gần như sắp khóc. Chỉ mong Bình nói một câu gì đó để ngăn bớt cảm xúc của cô nhưng anh lại không nói. Anh chỉ nhìn cô bằng đôi mắt sâu, nồng rực, như thiêu đốt…

 

Trở lại Mục Lục

 


Đôi lứa

            

        Vừa mới ra trường tôi được một người bạn của ba tôi, là thủ trưởng của một cơ quan lớn ở thành phố, ưu tiên sắp xếp vào làm việc ở đó, thế nhưng tôi lại không muốn nhận sự giúp đỡ ấy. Ai cũng bảo tôi khờ, ngu nữa là khác. Sau đó với nguyện vọng ghi hẳn hoi trên giấy “Đi bất cứ nơi đâu” tôi được phân công về một nơi cách thành phố khoảng năm mươi cây số. Vốn là dân tỉnh nên với tôi nơi ấy không có gì xa xôi hẻo lánh như đám bạn là dân gốc thành phố. Chẳng phải lâu nay tôi tự ví mình khi sống ở Sài Gòn, giống như một con cá cảnh sống trong bồn kiếng chật chội, tất cả cảnh vật, sự bình yên chung quanh dù không phải là giả nhưng cũng chưa phải là thật… Tôi phải ra với sông hồ, kênh rạch để sống đúng đời cá của mình, được bơi lội thỏa thích giữa rong rêu hay nước lũ, mưa nguồn. Tôi không ân hận gì việc phải đi xa thành phố. Vả lại nơi tôi làm việc tuy  đìu hiu xa làng xóm nhưng là một khu mới xây dựng khang trang gồm ba tòa nhà lầu ba tầng tọa lạc trên một vùng đồi thấp, xếp thành hàng chữ U nhìn ra một con đường quốc lộ trải nhựa óng ả. Có một dãy lầu dành hẳn làm khu nội trú cho cán bộ công nhân viên ăn ở sinh hoạt.

       Thời ấy, đất nước sau chiến tranh còn nghèo khó, được làm việc ở một nơi như thế thì không có gì đáng phàn nàn. Điều khiến tôi hoảng sợ nhất, sau một thời gian ổn định ở đây tôi mới khám phá ra, đó là nỗi cô đơn. Lúc nào nó cũng bao vây, rình rập cứ muốn ôm chầm lấy tôi, khi tôi đứng một mình bên cửa sổ ngắm ráng chiều hay sáng sớm tản bộ xuống cái mội nước bên kia con lộ để hái hoa dại, buổi tối đối diện với trang nhật ký… Công nhân viên ở đây hầu hết còn trẻ, nhưng qua công việc, họp hành, liên hoan và cả những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc riêng tư, tôi biết mình không thể sống lâu dài ở đây, càng khó có một tình yêu, dù có một vài người khác phái dành cho tôi tình cảm đặc biệt. Tôi kiêu quá chăng? Không hẳn vậy. Nếu nói rằng tôi không tìm được người đồng điệu thì đúng hơn. Những điều chủ yếu, đây là nơi để chúng tôi làm việc, rèn luyện, phấn đấu chứ không phải để yêu. Cho nên một cơ quan đông đúc, có nhiều người trẻ lại rất ít chuyện tình.

          Nhưng đó chỉ là riêng bọn làm việc văn phòng tụi tôi thôi chứ còn ở cánh hậu cần thì chuyện này có vẻ sôi động hơn. Vì không thể yêu, không được yêu nên tôi quan sát xem người khác yêu đương ra sao. Hàng ngày xuống nhà ăn lấy phần cơm, buổi tối đi lấy nước tôi hay để ý thấy các chị nuôi hẹn hò với những anh bảo vệ, lái xe và cả những anh cán bộ trẻ sau những đống củi xếp cao hình zic-zăc như những mê cung. Chị nuôi, là từ chúng tôi gọi chung những phụ nữ làm ở khâu hậu cần như đi chợ, nấu ăn, tiếp phẩm, giữ kho… Bọn tôi tuy lương cao hơn, xếp vào hàng có học, được gọi là trí thức nhưng cũng phải nể nang họ, nhiều khi phải nịnh bợ, không ai dám chọc giận họ để được phần cơm dẻo, canh ngọt, được phân phối nhu yếu phẩm đúng hạn. Như tôi chẳng hạn, lẽ ra phải đủ bốn người mới lấy được phần cơm về phòng riêng nhưng đôi lúc chỉ có hai người thì một mình tôi vẫn được lãnh cơm về, nhiều khi hai đứa chỉ báo một phần cơm là đủ. Bởi sợ mập là nỗi ám ảnh thường trực của tôi khi còn là một cô bé, tôi rất sợ mập giống mẹ mình dù bà không hề quan tâm đến điều đó.

       Nhóm chị nuôi này có nhiều cô khá xinh và rất diện, nhiều anh trong hàng ngũ bọn tôi có trình độ đại học hẳn hoi muốn “cua” họ không phải dễ. Có một cô chị nuôi rất đẹp, thuộc hàng hoa khôi mà có lẽ không một người đàn ông nào không thèm muốn. Một anh mới tốt nghiệp đại học về làm được mấy tháng cũng mê cô và bước đầu anh tỏ ra thành công rực rỡ trước bao nhiêu đối thủ. Quả là một chiến thắng vinh quang. Mỗi buổi chiều cuối tuần họ hiên ngang chở nhau ra về, trước con mắt thán phục của bao nhiêu người. Nhưng họ chỉ tíu tít được một thời gian ngắn. Sau đó người đẹp bỏ rơi anh chuyển sang xe khác, đó là xe của anh tài xế riêng của thủ trưởng. Anh cán bộ trẻ đau khổ bơ phờ một thời gian. Riêng tôi thấy lạ, sao đàn ông có thể yêu hoặc lấy một cô gái có trình độ văn hoá kém xa mình đến như thế. Với tôi, đây là nguyên tắc bằng vàng. Tôi cho rằng một đôi lứa có thể chênh lệch nhau về nhiều điều như tuổi tác, tầng lớp hay khác biệt về tôn giáo, màu da, chính kiến nhưng trình độ văn hoá phải tương đồng mới có thể hoà hợp và hạnh phúc được. Bằng chứng là ba mẹ tôi. Ba tôi học cao, còn mẹ tôi mới lớp ba và vĩnh viễn dừng lại ở đó, chỉ có điều là bà rất đẹp… Cả một thời thơ ấu tôi đau lòng chứng kiến ba mẹ tôi sống với nhau như hai người ngoại quốc, có lẽ còn tệ hơn, cùng nói tiếng Việt nhưng không bao giờ người này hiểu người kia nói gì.

       Nhưng chuyện tình mà tôi chú ý hơn cả là chuyện của một người con gái trong đám chị nuôi ấy. Bởi trong đám mơn mởn xuân xanh ấy cũng có một người không đẹp, sự thật là xấu. Nếu tả cái xấu ra đây thì tội nghiệp cho cô. Bởi vẻ xấu của một con người tùy thuộc vào sự ban phát bất công của tạo hóa mà chưa ai có cách nào cải thiện được hay đấu tranh với ông ta về chuyện này, nếu Thượng Đế là đàn ông, bởi cái từ này  chỉ có giống đực, khi đàn ông vẫn còn đang làm chủ thế giới. Dù ai cũng biết rằng nếu chỉ có đàn ông thì đâu làm được trò trống gì trong chuyện  tạo ra con người. Nói một cách khoa học hơn là nếu xấu hay đẹp về dung nhan là điều không do người đó quyết định mà chủ yếu là do di truyền và những may rủi tình cờ trong cách đột biến gen di truyền. Không một cặp vợ chồng nào đẹp mà dám chắc chắn một trăm phần trăm sẽ sinh được con đẹp. Với những cặp vợ chồng xấu thì họ có quyền hy vọng “Cha mẹ cú sinh con tiên” và nhiều khi cũng toại nguyện… Cho nên khi chê một con người xấu tôi thấy có điều gì đó thật bất nhẫn. Nếu cười cợt, chọc ghẹo họ càng càng bạc ác hơn. Đâu ai muốn mình xấu, lỗi không phải của họ, xấu không phải là cái tội. Thực tế cũng chứng minh rằng nhan sắc và đức hạnh không phải lúc nào cũng đi chung với nhau. Thế nhưng đâu phải ai cũng chịu nghĩ như vậy. Con gái sinh ra xấu cha mẹ đã không ưng ý rồi, lớn lên ít được bạn bè chú ý, khó được mọi người nâng niu. Các chị nuôi vẫn gọi Sang là Thị Nở, dù tôi dám chắc nhiều người trong số họ chưa bao giờ đọc tác phẩm nổi tiếng ấy của nhà văn Nam Cao để có thể hình dung ra Thị Nở xấu xí ra sao.

      Nhưng tôi và nhiều đồng nghiệp nữ của tôi thì quý Sang hơn cả vì cô cần mẫn, hiền hậu, có vẻ lam lũ và cam chịu. Nhiều khi xuống nhà ăn tôi thấy các cô kia đứng tán dóc còn Sang vẫn làm việc. Sáng sớm dậy tập thể dục, hay thấy cô lui cui nhóm bếp lò bằng than tổ ong, tôi hỏi:

       - Sao chỉ mình Sang làm việc này vậy?

       - Các chị ấy còn ngủ, tính em hay dậy sớm…

          Tôi biết cô vẫn hay bị ăn hiếp, sai vặt và chịu những thiệt thòi khác và làm đề tài cho mọi người cười cợt. Ngay cả khi tôi mới về còn bị ăn hiếp nữa là. Trong một môi trường nội trú, phần nhiều là phụ nữ, lại xa cách cuộc sống bên ngoài, nhiều lúc tôi thấy nơi đây như một nhà tu kín, tù túng, kham khổ. Người ta không muốn ai hơn mình, hạnh phúc hay nổi trội hơn mình về bất cứ phương diện nào. Tôi học đàn cũng bị nói là “làm ra vẻ nghệ sĩ” còn đọc sách nhiều thì bị rêu rao rằng “làm ra vẻ trí thức”. Khi ở trường đại học, quen được thầy cô, bạn bè động viên, khen ngợi… Cho nên những lời nói biếm nhẽ, ác ý dù sau lưng ấy cũng làm tôi tổn thương ghê gớm. Vì thế tự trong lòng tôi thấy đồng cảm với Sang, tôi cũng có một cái “tội nào đó, tất nhiên không phải là tội xấu.

          Vẻ xấu xí của Sang tiếp tục bị đem ra bêu rếu và nó lên đến cao điểm khi cơ quan có thêm anh bảo vệ mới, họ lập tức được cặp đôi với nhau, không phải vì thiện chí mà vì ác ý. Bởi anh bảo vệ tên Củng ấy cũng cực kỳ xấu trai. Một khuôn mặt lởm chởm dấu tích của một thời mụn nhọt kinh hoàng lúc dậy thì, cái mũi gồ ghề với hai cánh mũi bên cao bên thấp, hai con mắt quá bé so với cái cằm lớn. Đôi vai rộng so với một đôi chân ngắn trông như hình ảnh người ta hay thấy trong những bức biếm họa tàn nhẫn vẽ một nhân vật nào đó. Hình thù của Củng càng chứng tỏ một điều là đấng Tạo hóa cũng có lúc làm ẩu không thể tả hoặc là đã hối lộ người kiểm định sản phẩm, dù là sản phẩm cao cấp nhất, để họ nhắm mắt cho ra lò mà không biết chất lượng ra sao, trong một nền kinh tế mà người tiêu thụ không còn lựa chọn nào khác. Đã thế trông Củng lại ngây ngô, khờ khạo, cái vẻ của một người quen ở vị trí thấp bé, mặc dù chiều cao thực sự của Cũng không đến nỗi tệ. Việc chính của anh ta là bảo vệ và được nghỉ khi hết ca trực nhưng anh bảo vệ kia vẫn hay ăn gian, đến thay ca trễ mươi phút hay gọi Củng ra thay mình sớm đến nửa tiếng. Các cô chị nuôi cũng hay sai anh chẻ củi, khuân hàng, đảo những chảo thức ăn to tướng, hứng những làn hơi nóng mịt mù thay họ hoặc mang rác đi đổ nếu anh ta lảng vảng gần nhà bếp… Khi bị ghép đôi với nhau họ tỏ ra rất xấu hổ. Những con người xấu xí vụng về này khi mắc cở cũng buồn cười lắm. Cứ ỏn ẻn, lập cập, ngẩn ngơ… Có lẽ họ cũng biết mình xấu xí, chẳng bao giờ được yêu nên cái vẻ mắc cở của họ lẫn một chút vui thích. Dần dần cả cơ quan đều biết đến cặp Chí Phèo - Thị Nở ấy, như một chuyện hài giải khuây ở một nơi xa vắng, buồn tẻ cho những con người bị nhốt ít có dịp vui ấy. Nhưng dần dần người ta phát hiện đó không phải là chuyện đùa. Một lần Sang bị cảm khá nặng, Củng đã ra tới khu nhà dân để hái một mớ lá xông mang về, vào bếp mượn nồi nấu rồi bưng vào tận phòng cho Sang xông, tất nhiên là mang một cách lén lút. Sau đó Sang khỏi bịnh, đôi má cô bắt đầu có màu ửng của một trái cây đang ngọt dần. Rồi anh bạn đồng nghiệp của Củng phát hiện ra trong chốt gác của họ có dấu cơm cháy rơi vãi. Thì ra sợ người yêu trực đêm đói bụng, Sang đã lén tiếp tế cơm cháy, thứ quà duy nhất mà cô có được. Bây giờ không chỉ các chị nuôi mà có thêm nhiều người trêu chọc họ, lần này không phải để cho vui, cho thỏa mãn niềm tự hào mình là những tạo vật hoàn thiện hơn mà vì họ không tin rằng kẻ xấu xí, kém cỏi, ngu ngơ ấy cũng biết yêu nhau. Họ chọc để đôi lứa ấy nhãng ra. Nhưng họ đã thất bại, trước những lời trêu chọc, Sang và Củng càng tỏ ra can đảm hơn, đứng hẳn cùng một phía, liên kết với nhau càng chặt hơn. Người ta bắt gặp họ ngang nhiên ngồi uống nước mía với nhau ngoài một cái quán ven đường quốc lộ lúc trưa vắng. Sự gắn kết của họ, chứng minh rằng nếu như vẻ đẹp ngoại hình bị ban phát rất bất công hay nhầm lẫn thì tình yêu là một thứ được ban phát rất công bằng. Những người khốn khổ, xấu xí hay khù khờ nhất vẫn được hưởng thứ mật ngọt ấy, thứ mà không  hiếm những ông hoàng bà chúa, những kẻ giàu sang, xinh đẹp, nổi tiếng nhất chưa chắc đã có được.

       Nhưng đôi tình nhân ấy đâu đã được yên thân, một lần nữa họ bị chia cách bằng một tin đồn hung hiểm: Củng đã có vợ. Tôi thấy đôi mắt của Sang u sầm và dại hẳn đi, gặp ai cô cũng cúi đầu. Câu chuyện đến tai thủ trưởng, ông yêu cầu người trực tiếp quản lý Củng và Sang bắt họ làm kiểm điểm vì tội “quan hệ nam nữ bất chính”. Họ tuân lịnh, nhưng bản kiểm điểm trở thành một bản báo cáo rằng họ thương nhau thật lòng và chuyện đồn đại về Củng chỉ đúng một nửa, anh ta đã bị vợ bỏ, giữa hai người không hề có giấy đăng ký kết hôn, chưa con cái. Họ khẳng định rằng họ yêu nhau và xin tổ chức chấp thuận cho sống với nhau. Thủ trưởng cười xòa “Cho nó lấy nhau cho xong chuyện chứ yêu đương gì!”.

      Họ về quê, nghe đâu là một làng quê ở miệt Dĩ An làm đám cưới rồi trở lại nơi làm việc, cũng có một vài người trong cơ quan đến dự. Đám cưới xong họ, họ được phân một căn phòng nhỏ trong dãy dành nhà cho những người đã có gia đình. Bây giờ, những cô gái sáng giá, xinh đẹp nhất lại thèm thuồng cái hạnh phúc nho nhỏ của họ. Hết giờ làm việc, vợ chồng Củng – Sang ra vỡ đất ở khu rừng chồi phía sau cơ quan. Nhiều sáng chủ nhật không về thành phố được, tôi đứng tựa cửa sổ từ trên lầu nhìn xuống thấy họ giữa ruộng rau, vườn khoai như một cặp vợ chồng nông dân trong những bức ảnh nghệ thuật hay tranh vẽ. Chồng vác cuốc đi trước, vợ cắp rổ đi sau, gió thổi lệch chiếc nón lá, người chồng đứng lại lấy nón ra thắt chặt quai rồi đội lại cho vợ, cô ngượng hất tay chồng, nũng nịu. Họ trồng được khoai mì, khoai lang, có đám rau xanh tốt. Chồng làm chuồng, vợ cho gà ăn… Họ luôn quấn quýt bên nhau, những lời chọc ghẹo giờ đây trở nên lố bịch nên nó tự im tiếng.

 

***

         

       Làm việc ở đây được gần bốn năm tôi muốn được chuyển về thành phố nhưng không có lý do chính đáng để chuyển vì không có gia đình ở đó, cũng không có hộ khẩu gốc ở thành phố. Thủ trưởng bảo nếu muốn chuyển thì phải có nơi nhận, nhưng tôi đã không tìm được nơi ấy, người quen biết có thể tiếp nhận tôi cũng qua đời đột ngột nên tôi đành bó tay. Giữa lúc tôi quay quắt, sắp chết rục vì cô đơn thì cơ quan có một đoàn cán bộ liên ngành về làm việc. Hôm ấy biết đoàn sẽ đến, cô bạn cùng phòng với tôi trước khi xuống bếp tập thể lấy cơm cho hai đứa đã dặn tôi hãy đóng cửa sổ phòng, vì cửa ra vào chúng tôi luôn khép kín rồi. Cô e rằng lát nữa ông trưởng phòng đi ngang thấy phòng chúng tôi còn thừa hai chiếc giường sẽ bố trí khách vào ở chung. Lúc ấy rất phiền vì chúng tôi phải đóng vai chủ nhà để báo cơm, hướng dẫn, trò chuyện với khách… Cô giải thích như thế nhưng tôi không nghe theo, cô vừa đi xong tôi làm ngược lại là mở toang cửa sổ. Đúng như cô bạn dự đoán, chỉ năm phút sau ông trưởng phòng đi ngang, thấy tôi, ông dừng lại gửi người khách nữ duy nhất trong đoàn. Cô bạn tôi về mặt mày bí xị vì thấy có khách, bị làm phiền, mất công chào hỏi nhưng tôi cứ làm ngơ. Bởi với tôi mỗi một người là một thế giới thú vị, tôi thích làm quen, kết bạn với tất cả, tôi luôn hy vọng tìm thấy những tân thế giới ở họ. Tôi dọn giường cho cô bạn mới, nhường chiếc gối duy nhất cho khách. Chiều xuống, cô bảo ở đây buồn quá, tôi đưa cô ra ngoài đi dạo, ngắm những cánh đồng bắp xa tít tắp, chim xõa cánh bay về từng đàn khiến cô có vẻ khuây khỏa. Đặc sản ở đây chẳng có gì ngoài trái điều và trái mít. Tôi vào vườn mua một trái mít chín khoảng năm, sáu đồng, hết một phần mười lương tháng của tôi lúc ấy. Tối đến, trước khi xẻ mít cô bạn mới đề nghị mời mấy anh trong đoàn của cô cùng ăn. Để có một buổi tối vui vẻ tôi chạy đòi lại cái đàn guitar của mình ai đó đã mượn mất, và chứng tỏ ở nơi khỉ ho cò gáy này cũng có người biết yêu âm nhạc. Và trong ánh đèn điện chập chờn của máy phát điện hay hỏng hóc của cơ quan, chúng tôi ca hát. Âm nhạc làm cho mọi người xích lại với nhau rất nhanh. Sau đó mấy ngày cùng làm việc, khi hỏi thăm về công việc, so sánh về những đãi ngộ của cơ quan mình, tôi biết được cơ quan của cô  bạn mới trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn thành phố đang thiếu một người có tay nghề như tôi. Thế là mấy người trong đoàn ấy xúi tôi gặp sếp của họ cũng sắp có mặt để xin chuyển công tác. Ông hứa nhận tôi không mấy đắn đo. Cánh cửa sổ để mở đã mở cho tôi về đúng nơi tôi cần. Đó là một sự kiện quan trọng trong đời tôi.

 

****

 

     Về thành phố làm việc, mấy năm sau tôi lập gia đình, rồi chuyển sang công việc khác và ngày càng bận rộn, ít có dịp đi xa. Nhưng thỉnh thoảng tôi nằm mơ thấy mình vẫn còn làm việc ở nơi đầu tiên khi mới ra trường, với những thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần, những khắt khe vô lý, nhận thức ấu trĩ, hẹp hòi nhưng cũng đem lại cho tôi nhiều điều không vô ích, trái lại đã giúp tôi trưởng thành hơn. Chỉ có điều mỗi khi nằm chiên bao về nơi ấy tôi vẫn còn ám ảnh bởi nỗi cô đơn, tỉnh dậy chưa hết thảng thốt, sợ hãi. Nhiều lúc tôi định đi thăm, xem thử những đồng nghiệp cũ của tôi ở đó còn ai nhưng không có dịp. Mới đây tôi tham gia một chuyến đi thực tế khiến tôi nao nức, không hẳn vì nơi đến mà vì nghe được đi ngang qua con đường, nơi chốn mình đã từng gắn bó hơn bốn năm trời. Gần đến nơi của cơ quan cũ, khó khăn lắm tôi nhận ra vị trí của nó, vùng đất hoang sơ ấy đã thành khu công nghiệp lớn với những nhà máy đồ sộ mang tên Tây, tên Tàu, đường sá mở rộng thành đường cao tốc, có cầu vượt. Những dãy nhà lầu cao ngất ngày nào nay vì những cây non xưa kia bọn tôi trồng đã thành cây cao bóng cả che khuất hết mất dãy nhà. Bây giờ tòa nhà cũng chuyển cho một cơ quan khác, không còn  chức năng như cũ.

          Chuyến đi thực tế bình an, tốt đẹp, lượt về thong dong hơn nên chúng tôi dừng lại một quán nhỏ bên đường ở miệt Lái Thiêu có nhiều cây trái. Quán thu hút sự chú ý của chúng tôi bằng cái cổng phủ đầy dây tơ hồng. Quán nhỏ nhưng gọn gàng, ấm cúng, sau quán là một khoảng sân có hoa, có hòn non bộ, kế đến là một ngôi nhà khá khang trang, tươm tất. Lúc chủ quán ra hỏi dùng gì, mấy người bạn tôi gọi món này món kia còn tôi ngẩn ngơ vì thấy bà chủ trông quen quá. Chỉ một thoáng tôi nhận ra Sang. Đúng là Sang. Tôi gọi to tên chị, Sang chạy lại, ngỡ ngàng một lát mới nhận ra tôi. Tôi hối chị dọn thức ăn cho mọi người rồi hãy nói chuyện. Trong khi chị làm việc tôi không ngừng ngắm nhìn chị. Bây giờ Sang đã là một phụ nữ đứng tuổi và hơi đẫy đà. Lạ thay những nét thô vụng, gồ ghề thời thiếu nữ của chị được thời gian đẽo gọt, trông chị mềm mại, duyên dáng hẳn ra. Chị hỏi thăm tôi ríu rít rồi hối người phụ việc vào nhà gọi chồng. Anh bảo vệ cù lần ngày nào giờ đã ra dáng một ông chủ. Anh không nói nhiều như vợ, khi nhận ra tôi anh chỉ lẳng lặng vào nhà mang hũ rượu ngâm thuốc đặc biệt ra đãi đám khách nam giới cùng đi với tôi. Ăn xong vợ chồng chị mời tất cả vào nhà nghỉ nghỉ ngơi và đãi trái cây, bảo hai đứa con của họ ra chào khách. Hai thiếu niên khỏe mạnh, dễ thương hơn hẳn cha mẹ về dung nhan. Có khách mới vào quán, vợ chồng họ lại chạy ra  phục vụ. Ngồi dưới mái hiên phủ đầy dây leo, tôi kể cho mọi người nghe về “thiên tình sử” của họ. Một người trong nhóm liền kết luận. Như thế, nghĩa là một cặp vợ chồng xấu xí vẫn có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Và có khi ngược lại…

Trở lại Mục Lục

 

10


 

11

Sau ly hôn

 

       Sau bao nhiêu những ghen tuông, dằn vặt, đổ lỗi, hòa giải… rốt cuộc rồi tòa án cũng phải xử cho vợ chồng tôi ly hôn. Chúng tôi có đủ tài sản chia đôi mà không cần tranh chấp, vì trong thời gian còn êm ấm, tôi và anh ấy đã gây dựng được hai ngôi nhà khá bề thế, có giá trị gần bằng nhau. Điều khiến cuộc chia tay trở nên khó khăn, gay cấn là đứa con trai nhỏ mà ai cũng muốn giành phần nuôi. Thương con, ai mà chả thương, nhưng trong vụ này nếu giành được nuôi con là một thắng lợi, để chứng tỏ mình tốt hơn, đúng hơn và một cách trừng phạt người kia. Khi tòa hỏi “Con muốn sống với ai?” thằng bé không biết trả lời sao, cứ ngơ ngác nhìn hết mẹ rồi đến cha. Lâu nay tôi và ba nó đã ly thân, hai người ở hai nhà, việc ai nấy làm tiền ai nấy xài nhưng trong tâm hồn non nớt của thằng bé thì chúng tôi vẫn cứ là một, như trước đây, ngay cả khi nói với một người nó cũng gọi “Ba, mẹ ơi, con kể cái này…”

Nhưng rồi với tất cả sự quyết liệt, tôi giành được quyền nuôi con, như những thành công từ trước tới giờ luôn thuộc về tôi vì tôi là một phụ nữ giỏi giang, sắc sảo và kiêu hãnh. Không cần có anh ấy tôi cũng làm được tất cả, sẽ có tất cả như đã từng. Những người thân té ngữa khi biết vợ chồng tôi ly hôn. Khi rõ nguyên nhân, không ít người cho rằng chuyện ấy bây giờ có gì ghê gớm đâu. Tượng đài chung thủy mà người đời ca ngợi nay chỉ còn là một phê tích. Vả lại lăng nhăng là một thuộc tính của đàn ông, miễn là họ không bỏ bê vợ con. Người như tôi dư sức để chồng phải quay về tại sao không làm. Nhưng tôi không cần điều đó. Sự phản bội của anh ấy khiến tôi đau đớn, càng nghĩ càng uất giận. Không được yêu, với tôi còn là một điều nhục nhã ê chề và đó dường như là đặc tính của con người. Ngay cả những thai nhi còn trong bụng mẹ cũng được dự trữ bản năng tương tự. Tôi còn nhớ hồi đó, Khi biết mình có thai, đứa con mà vợ chồng tôi mong đợi tới hơn hai năm sau ngày cưới, khi tôi sốt ruột và bắt đầu nghi ngờ khả năng có con của mình lẫn của chồng, vì bạn bè đám cưới cùng lúc với tụi tôi đã tay bế tay bồng. Nhưng ngay khi tôi nhận được tin cơ quan xét cho đi công tác nước ngoài, tôi nhận biết mình có thai. Hồi đó đi nước ngoài không dễ như bây giờ, đó là cả một ân huệ khiến nhiều người phải ghen tỵ, mơ ước. Cái thai sẽ là một trở ngại, đến ngày đi nó đã khá lớn, nếu giữ lại tôi sẽ không được đi. Thế là chưa kịp báo tin vui cho chồng, tôi âm thầm đến bệnh viện phá thai. Đúng là sau lần đi tu nghiệp ấy con đường sự nghiệp của tôi được hanh thông… Thế nhưng mơ ước có một đứa con của tôi trở nên xa vời. Mấy năm sau dù áp dụng nhiều phương pháp mà tôi vẫn không thụ thai được… Nhưng kinh khủng nhất là nhiều năm sau tôi hay nằm mơ thấy đứa con bị bỏ đi từ trong trứng nước ấy luôn hiện ra trong giấc mơ, nhìn tôi bằng đôi mắt đầy căm hờn. Nó cứ lẽo đẽo theo tôi, cả những lúc tôi đi công tác xa, trong những giấc ngủ chập chờn, nửa mơ, nửa tỉnh. Càng lúc nó ám tôi như ám một kẻ thù vì tôi đã không cho nó làm người, vì tôi không thương yêu nó. Nó lồng lộn, vật vã vì sự nhục nhã ấy. Tôi yêu đương, ân ái, hưởng thụ rồi chối bỏ kết quả… Nó như một bóng ma bé bỏng, lạnh lẽo, u uất mang đôi mắt chứa đầy căm hờn khiến tôi càng lúc càng sợ hãi. Đến nỗi tôi rơi vào ảo giác, cứ thấy một đứa nhỏ đi lại trong nhà, thấp thoáng đâu đó trong phòng tắm, bước lên cầu thang nhưng tôi nhìn theo là nó biến mất. Có lúc ngồi xem tivi một mình nó còn đi ngang chạm vào tôi nữa, khiến tôi run lên. Buổi tối tôi không dám ở nhà một mình, nếu anh ấy có việc phải đi tôi bèn mở tất cả các đèn trong nhà và một tiếng động nhỏ cũng làm tôi giật mình, khiếp đảm. Nỗi sợ âm thầm không thể chia sẻ cùng chồng khiến tôi rơi vào sự trầm cảm suốt một thời gian dài. Rồi tôi trở thành mê tín, có lần tôi tìm đến một ông thầy bói. Ông ta càng khiến tôi hãi hơn khi phán rằng “Có một cái vong nhỏ, luôn đi theo cô. Cô phải lập bàn thờ, khấn vái, hương khói thì nó mới để cô yên”. Tôi lạnh toát cả người và làm theo lời ông ta răm rắp. Nhưng nó vẫn cứ hiện ra dọa dẫm tôi. Tôi nhận ra nó rất giống mình, từ khuôn mặt, cái miệng, cái mũi, nhất là cái tính khó tha thứ… Tôi cũng là đứa con từng bị ruồng bỏ. Hồi đó khi tôi mới mươi tuổi, ba mẹ tôi bỏ nhau, trước Tòa, ai cũng giành nuôi tôi, ai cũng cố chứng tỏ mình thương con hơn, có trách nhiệm hơn. Ba tôi được nuôi tôi vì ông có tài sản, thu nhập. Nhưng khi có vợ, người vợ mới này rất trẻ, không muốn sự hiện diện của tôi nên ông cho tôi được về với mẹ. Tôi yên ổn trong vòng tay yêu thương của mẹ một thời gian thì mẹ có nhân tình. Mẹ vẫn thương tôi nhưng tôi lại không thể có tình cảm với người đàn ông ấy, hiển nhiên vì tôi biết ông ta đang cướp mẹ của mình, nhất là khi ông ta ở lại với mẹ qua đêm, tôi phải ra ngoài phòng khách ngủ. Tôi khóc lóc, dằn dỗi cố chia rẽ hai người, nhiều khi ông ta đến tôi ra mở cổng và bảo mẹ không có nhà. Thế nhưng tôi không ngăn cản được việc họ sống hẳn với nhau. Khi mẹ có một đứa con trai kháu khỉnh, tôi thấy mình bị bỏ quên. Một lần tôi đến nhà ba chơi và chọc tức bà mẹ kế, như một cách để ba chú ý hay bênh vực mình. Không ngờ ông đuổi cổ tôi khỏi nhà, từ đó tôi xem ông như một người họ hàng xa, gặp hay không gặp chẳng còn là điều quan trọng… Người ta thường nói “Có con mới hiểu được lòng cha mẹ”, còn tôi thì ngược lại, khi có con tôi càng không thể hiểu nỗi lòng cha mẹ mình. Tại sao ba mẹ thương tôi ít vậy? Có lúc như chẳng thương gì cả, còn tỏ ra khó chịu vì tôi làm vướng chân khi họ muốn bước đi bước nữa. Trong khi tôi thương con ghê gớm, không một điều gì khiến tôi có thể xa rời con mình, kể cả tình yêu của một người đàn ông khác. Từ khi cha mẹ bỏ nhau tôi luôn có cảm giác mình là hậu quả của một sai lầm hơn là kết quả tình yêu, nhất là khi nhìn những đứa em khác cha hoặc khác mẹ sau này, tôi luôn thấy rằng chúng đều được yêu thương, nuông chìu rất mực. Cả sau này, khi có được một gia đình riêng, những lúc hạnh phúc bên chồng con, nhớ đến điều đó tôi cũng uất ức, nó như một vết thương không bao giờ lành, cứ ầm ỉ nhói đau. Tôi biết người mẹ nào cũng thương con nhưng chắc tôi thương con nhiều hơn họ, như thương bù, thương trả thù cho một tuổi thơ thiếu cha hụt mẹ. Bất cứ lúc nào nhìn con hay nghĩ đến con là lòng tôi lại dạt dào như sóng, biển Thái Bình trong tôi nào có bờ.

 

***

Tôi dọn về căn nhà mới được sơn sửa lại khang trang, sau một thời gian dài cho thuê nên khá xuống cấp. Căn nhà rộng rãi, tươi đẹp nhờ thiên nhiên được đưa vào tận phòng tắm, tận nhà bếp và tiện nghi hơn nhưng con trai tôi buồn hẳn. Nó chỉ tươi lên khi nhận được điện thoại của ba nó. Đêm nào cũng vậy, khi nhận được lời chúc ngủ ngon vào khoảng chín giờ tối của ba thì nó mới yên ổn đi ngủ. Nhưng nhiều lúc ba nó vì bận rộn, vì quên hay vì gì đó có trời mà biết, thì thằng bé đâm ra quay quắt và thức rất khuya… Thường vào cuối tuần, ba nó đến đưa nó về nhà, dường như để hâm nóng lại tình phụ tử. Ở với ba, đến giờ đi ngủ thằng bé cũng gọi điện về chúc tôi ngủ ngon. Nó biết tôi khó ngủ, mà khó ngủ thì hôm sau tôi đâm ra bơ phờ, tính tình cáu hẳn, công việc kém hiệu quả và trông tôi héo rũ, xấu xí hẳn đi. Thật ra chứng bệnh ấy chỉ xuất hiện sau khi vợ chồng tôi ly hôn. Tôi vốn đứa rất dễ ngủ, cứ nằm xuống là ngủ, như trẻ sơ sinh, chủ yếu là tôi không có thì giờ để ngủ vì ham công tiếc việc. Như bạn bè tôi thường trêu, tôi thuộc về tầng lớp của những kẻ thừa ăn thiếu ngủ… Nhưng xa tôi vài hôm nó cũng không chịu được, thật là một thằng bé giàu tình cảm. Cứ thế, chiều thứ bảy nó mỏi mắt chờ ba còn chiều chủ nhật thì mong được về với mẹ. Mà đoạn đường từ nhà này đến nhà kia khá xa, đến vài chục cây số và thường xuyên kẹt xe… Những lúc thằng con đi rồi, vì buồn nên tôi thường mời bạn bè đến nhà chơi, nhậu nhẹt, nhảy nhót hoặc đi đâu đó với họ, hưởng chút tự do mà lâu rồi tôi mới có được. Những người đàn ông trước đây từng theo đuổi khi tôi chưa chồng, cả những người dành cho tôi tình cảm đặc biệt dù biết tôi đang có chồng, họ vẫn hay mời tôi đi uống cà phê, đi ăn. Giờ biết tôi bỏ chồng thì lại trốn biệt. Tôi tự cười cợt mình “Đừng tưởng bở! Đó, tìm được người yêu mình thực lòng đâu phải dễ”. Hình như vụng trộm với phụ nữ có chồng cũng là cái thú của không ít đàn ông. Họ đong đưa vui chơi vậy thôi chứ không thích gắn bó, càng không muốn có trách nhiệm… Dù sao những người đàn ông ấy cũng lấp được phần nào khoảng trống trong tôi, có những người rất thú vị, mỗi người mỗi vẻ. Nhưng dần dần tôi thấy mình càng trống trải hơn, hầu hết ông nào cũng có vợ con… Bây giờ tôi mới nhận ra rằng cuộc sống thiếu sự âu yếm, ân ái của một người đàn ông là điều không hề dễ dàng chịu đựng, nhất là với người đàn bà từng ghiền hơi hướng của chồng như tôi. Trước đây, những lúc căng thẳng vì công việc thì chuyện gần gũi vợ chồng giúp tôi nạp được một nguồn năng lượng đáng kể, tìm lại được sự cân bằng. Tôi luôn tự hào vì năng suất làm việc lẫn tần suất yêu đương của mình và xem đó biểu hiện của tuổi trẻ, dù tôi đã ngoài bốn mươi…

Tôi với chồng cũ cố giữ lời hứa khi chia tay, phải cư xử làm sao để con trai thấy rằng nó không mất mát, vẫn còn đủ cha mẹ. Chúng tôi muốn thực hiện một cuộc ly hôn văn minh, theo kiểu “Xem nhau như bạn và cùng lo cho con”. Bây giờ tôi thấy điều đó rất khó, thằng bé khi về với mẹ, khi ở với ba, càng khoét sâu thêm cuộc sống bất thường của nó. Chúng tôi từng chúc nhau hạnh phúc nhưng đó là câu giả dối hoàn toàn. Ai cũng muốn người kia phải cô  đơn, trả giá hay khó khăn, thất bại trong cuộc hôn nhân kế tiếp thì mới hả hê. Ai cũng muốn độc quyền rằng chỉ có mình mới có khả năng mang đến hạnh phúc cho người kia, dù khi còn sống chung họ chỉ mang đến cho nhau toàn đau khổ. Có lúc đến nhà anh đón con, tôi không kiềm được tò mò về cuộc sống của anh sau khi tôi dứt áo ra đi. Dù không muốn vào nhà, căn nhà thân yêu mà tôi thuộc lòng từng vết ố bẩn trên tường giờ lạ lẫm vì không còn thuộc về tôi nữa. Đứng ngoài sân giục con ra nhưng tôi cũng liếc mắt vào, xem bây giờ anh sống ra sao, đánh hơi thử có mùi đàn bà khác chưa… Đó, không có bàn tay của tôi thì cuộc sống của anh vậy đó. Có lần anh đến chỗ tôi đón con, kịp thấy mặt tôi sau một đêm mất ngủ, chưa trang điểm, chắc trông nhợt nhạt, bèo nhèo lắm. Vậy mà anh ấy còn hỏi tôi có khỏe không. Tôi rất ghét câu thăm hỏi đạo đức giả ấy. Nếu từng biết quan tâm đến tôi như thế thì đã không xúc phạm đến tôi bằng cách lăng nhăng với người đàn bà khác. Vừa hỏi anh vừa nhìn xoáy vào thân thể tôi qua chiếc áo ngủ mỏng manh mà anh quá quen thuộc, tôi hiểu rằng anh nghĩ lâu nay tôi sống thiếu đàn ông, hẳn khó chịu lắm, đói khổ, thèm khát lắm… Quả thực trong những người đàn ông quen biết lâu nay, có lúc tưởng như rất thân thiết, với những phút rung động tựa như tình yêu, không ít người muốn cùng tôi thưởng thức chuyện chăn gối, giống như mời tôi đi nghe một buổi hòa nhạc hay ăn tối, vậy thôi… Thực lòng tôi mến họ, thậm chí đôi lúc mềm lòng vì vẻ mẫn tiệp hay tâm hồn đa cảm hoặc vẻ lịch lãm, cốt cách cao nhã của họ nhưng tôi không thể lên giường với họ được. Hình như ở phái nữ chúng tôi rất khác đàn ông về chuyện ứng biến trong tình dục. Nếu như các ông thường hứng khởi trước một thứ “của lạ” thì đàn bà chỉ an tâm, tìm được sự hoan lạc với người đàn ông quen thuộc, của riêng mình, người mà họ biết chắc rằng mình vẫn được yêu thương, tôn trọng, gắn bó sau chuyện ân ái.

Thằng con tôi, để được sống bình thường như mọi đứa trẻ, vẫn được gần cha, gần mẹ thì nó phải chạy qua lại như một con thoi giữa hai ngôi nhà. Gần như mỗi tuần nó phải đi xuyên qua cái thành phố rộng lớn này, nhà cha ở quận Tân Phú còn nhà mẹ ở quận 2. Đường xa và còn hay bị kẹt xe, rồi khói bụi, chứng kiến những tai nạn giao thông thảm khốc, chịu mưa nắng thất thường quả là quá sức chịu đựng với một người lớn chứ nói gì một đứa bé. Chưa kể cha mẹ nó gặp nhau có vui vẻ gì đâu, nếu không lịch sự một cách lạnh lẽo, giả dối thì cũng hờn dỗi, móc méo, dò xét soi mói nhau một cách kín đáo. Từ tình bạn có thể chuyển thành tình yêu, tình vợ chồng chứ khó có tình yêu, tình vợ chồng chuyển hóa được thành một tình bạn thực sự. Cũng như hạt có thể thành mầm chứ mầm làm sao trở lại thành hạt.

Một lần, trước mặt cả hai người thằng bé nói một câu bất ngờ:

      - Sau này lớn lên có sẽ cố kiếm cho thật nhiều tiền!

Tôi sững người vì chưa bao giờ dạy con làm giàu là mục đích khi lớn lên. Dù tôi là đứa ham làm giàu. Có nhiều tiền tôi mới thực hiện được những ước mơ, lấy lại những gì bị cuộc đời tước đoạt, có quyền lực hơn và trở nên hấp dẫn hơn. Ngay cả ba tôi sau này cũng nhìn tôi với con mắt khác, ông ngưỡng mộ ra mặt đứa con gái ông từng bỏ quên. Điều đó khiến tôi nở nang từng khúc ruột mỗi khi nghĩ tới. Nhưng tiền bạc đã choáng hết tâm trí của tôi, khiến tôi quên nhiều thứ đẹp đẽ từng được nuôi dưỡng chắt chiu, gieo trồng trong tâm hồn mình, kể cả quên luôn chồng. Và sự cớ xảy ra khi anh ngã vào vòng tay của một người đàn bà khác. Tôi không thích câu “cái gì cũng có giá của nó” vì đã được dùng đến mòn nhẵn, nhưng hóa ra lúc nào cũng đúng.

Hình như ba nó cũng hoảng sợ ý nghĩa làm giàu đến quá sớm với thằng con bé bỏng nên liền hỏi:

  - Kiếm tiền nhiều để làm gì vậy con?

        - Để con mua cho ba mẹ hai căn nhà ở gần nhau, để mình đi qua đi lại cho gần!

     À ra thế, tôi nhẹ cả người nhưng lại ứa nước mắt. Chẳng phải là chúng tôi từng ở thật gần nhau đó hay sao, ngay trong một nhà. Nó chỉ quờ tay một cái là chạm vào ba hoặc đụng vào mẹ. Khi dọn nhà về đây, tình cờ tôi đọc lại những trang nhật ký cũ của mình, có đoạn ghi khi con trai mới vài tuổi mà nó đã biết thích thú trước cảnh cha mẹ vui vẻ, đùa giỡn với nhau. Ánh mắt nó phấn khích, tràn ngập sự hân hoan và nói “Ba mẹ làm nữa đi!”. Từ khi vợ chồng chúng tôi lục đục, ánh mắt nó già hẳn. Chẳng hạn như câu nói hôm nay, trẻ con thường nghĩ đến chuyện mua đồ ăn, đồ chơi chứ sao lại nghĩ đến chuyện mua nhà. Anh ấy cũng vội liếc nhìn tôi và quay đi thật nhanh, nhanh đến mức tôi không kịp phân biệt đó là cái nhìn xấu hổ hay ân hận… Đến giờ, tôi ray rứt về việc lần đầu tiên có thai, chưa kịp báo tin vui cho chồng đã phá bỏ để được đi nước ngoài. Tôi cứ tưởng mình bị trừng phạt. Mãi rất lâu mới có thai lại, tôi cảm thấy như nhận được một hồng ân quá lớn, chỉ được ban phát một lần trong đời. Nó là đứa con đẹp hơn tôi mơ ước, chỉ lựa toàn những ưu điểm của cha mẹ mà giống. Nhiều khi bắt gặp tôi đang ngây ngất ngắm nhìn con, tán dương từng vẻ đẹp trên thân thể con, anh thường cười bảo, người mẹ nào mà chẳng thấy con mình là đẹp nhất.

    Dù sao nhờ câu nói ấy của thằng bé, chiều thứ bảy sau khi anh đến đón con, tôi không để anh đứng ngoài cổng chờ rồi mới đưa thằng bé ra mà mời anh vào nhà uống nước, ăn trái cây để sẵn trên bàn, tôi nhận ra thằng bé vui sướng đến như thế nào, chắc hai cha con bàn tính gì đó rồi nó hồn nhiên bảo “Hay ba ở lại đây ngủ rồi rủ mẹ đi chơi công viên nước với mình nghen ba!” Chả là nó biết tôi chưa đến đó lần nào. Bù đầu ở công ty, tôi đâu có thì giờ vui chơi, những trò hồn nhiên trẻ con như thế. Thằng bé chưa đủ lớn khôn để hiểu rằng cuộc chia tay của chúng tôi là một sự cắt đứt quyết liệt, một sự trừng phạt lẫn nhau cho thỏa lòng tự ái, là một sự giải thoát để mỗi người được sống theo ý muốn của mình mà quên rằng điều đó gây ra nỗi bất an trong lòng lòng đứa con nhỏ, được kết tinh từ máu thịt, tình yêu của hai người, của một thời đã xa. Anh đi vòng qua cái bàn ăn rộng, đi về phía tôi và nói “ Ngày mai em cùng đi nhé!”. Tôi cảm thấy đắc thắng như một đứa trẻ vượt bạn trong một ván cờ xoàng. Ngày mai tôi có cuộc hẹn với một nhóm bạn cũ học cùng lớp. Từ chối buổi gặp đó không khó chỉ cần một cú điện thoại, nhưng tôi lại muốn chứng tỏ sự quan trọng của mình bằng cách nói dối rằng tôi có một cuộc họp đột xuất với hội đồng quản trị của công ty.

      Tối hôm đó ở nhà một mình, tôi đọc một mớ báo cả tuần dồn lại để chìm vào giấc ngủ… Tôi vừa đọc vừa nhớ lại câu nói của anh ban chiều, thế là tôi không ngủ được. Tôi có quá quắt không khi không thể tha thứ cho anh về cái tội hầu hết đàn ông hay mắc phải ấy, và ngay cả đàn bà ngày nay, không đi ăn vụng như phái nam thì họ cũng thích “ăn vặt”, khi được ngồi bên một người đàn ông tình tứ mà họ thích, những lời tán tỉnh, mắt liếc tình đưa... Tôi cảm thấy thật khó khăn nếu bây giờ, trong ngôi nhà nầy xuất hiện một người đàn ông khác, tôi lại lẩn quẩn giống như mẹ mình. Không biết con trai tôi rồi có chấp nhận một người cha khác hay không. Nằm mãi cũng vô ích, tôi vùng dậy bật đèn mở máy tính làm việc. Sau thời gian dài mất ngủ tôi có kinh nghiệm chữa mất ngủ là hãy uống đủ nước và làm việc, làm cho đến khi thật sự mệt mỏi sẽ dễ ngủ hơn là tự ru mình bằng cách nầy hay cách kia chỉ tổ mất thời gian. Trước hết tôi vào mạng check mail. Lướt qua hộp thư tôi thấy mail của anh. Khi có chuyện cần nói với nhau chúng tôi chỉ có thể trao đổi bằng cách này là tiện nhất. Máy móc vô hồn khiến chúng kìm chế bớt những bực bội còn sót lại hoặc những lời xúc phạm nhau khi có ai đó tự ái hoặc nổi nóng. Anh viết cho tôi, nói vòng nói vèo như bản tính của anh, chỉ có một câu làm tôi chú ý, đọc đi đọc lại “Cho đến nay anh cũng không biết lỗi thuộc về ai. Nhưng điều đó cũng không còn quan trọng nữa. Chỉ một điều chắc chắn rằng anh và em có lỗi với con vì đã gây ra sự tan vỡ này, hình như chúng ta không vì con như chúng ta tưởng…”

      Lá thư khiến tôi không còn làm được việc gì  nữa. Tôi tắt laptop vào giường nằm và thức trắng đêm.

 

Trở lại Mục Lục

 


 

Đêm qua đi đâu

 

 

  

     Tôi thật bối rối, xấu hổ khi đứng trước mặt trưởng đoàn, một nhà văn lớn tuổi, vui vẻ, trẻ trung nhưng cũng rất nghiêm khắc :

      - Cô đi suốt đêm mà không báo với đoàn? Làm ai cũng lo lắng, không biết chuyện gì  đã xảy ra với cô. Thôi cô về phòng, chuẩn bị đi ăn sáng rồi báo cho anh em biết đêm qua cô  đi đâu…

    Nói đến đây miệng anh nhếch một nụ cười hóm hỉnh, trêu chọc… Tôi hiểu, chuyện đêm qua tôi biến mất và điện thoại luôn trong trình trạng mất liên lạc, “ngoài vòng phủ sóng” khiến mọi người lo lắng cho tôi đã đành mà chắc chắn nó đã biến thành đề tài “sáng tác” cho mọi người cười vui và chơi chữ. Mấy hôm trước, có một nhà văn khá nổi tiếng tham gia chuyến đi này, trong một buổi lửa trại anh đã làm quen với một cô gái địa phương và sau đó nghe dẫn được cô vào một tiệm Internet dạy cô cách vào mạng, gởi email... Nghe tin ấy, một chàng thi sĩ có vầng trán hiền triết và nụ cười trẻ thơ chậm rãi lên tiếng:

      - Chà… Chắc là muốn khai hóa cho nàng!

      Không kìm được, tôi cười ré lên như bị chọc lét :

      - Trước khi khai hóa phải… khai hoang đã chứ!

      Một người nào đó, hình như là nhà văn K.  nói tiếp :

  - Sau đó thì chờ… khai hoa!

      Cả xe cười rần rần. Đoàn đi sáng tác ở Lâm Đồng đợt ấy của Hội Nhà Văn Tp. Hồ Chí Minh có mười ba người, con số theo người phương Tây là xui xẻo nhưng chúng tôi chưa thấy có chuyện gì xui mà chỉ thấy tòan chuyện vui. Cùng nghề nghiệp, cùng mối quan tâm và cùng độ tuổi như nhau cả nên thật là đồng điệu. Ai cũng rất nhạy cảm với chữ nghĩa, một từ được dùng, được hiểu với vô số tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa, vì thế có vô số chuyện cười, có khi cười đến chảy nước mắt. Đồng thời cũng có vô số thông tin liên quan đến nghề nghiệp, dư luận của giới viết lách. Có nhiều chuyện nóng hổi được tung ra, cập nhật hoặc được đính chính… Đúng là một cái chợ trời văn học nghệ thuật nóng sốt, ai cũng chộp được một cái gì đó rồi mang về xào nấu tùy theo nhu cầu và cái tạng của mình, để mang ra chiêu đãi bạn bè lúc trà dư tửu hậu hay chế biến thành bút ký, truyện ngắn, truyện dài không chừng. Một vài tuần nữa thôi, những món ấy sẽ tung lên trang văn nghệ của các báo. Thật ra, ngày thường ở thành phố chúng tôi vẫn có dịp gặp nhau trong những buổi hội họp, hội thảo, giao lưu, hoặc ở những quán cà phê cóc chung quanh trụ sở của Hội… Thế nhưng  không khí ở đó vẫn có một cái gì khô khan, gò bó, chật chội và có phần giả tạo so với những tâm hồn văn chương hướng tới sự phóng khoáng, bay bổng. Cho nên đi sáng tác thế này, tôi cảm thấy như sống được với con người thật của mình, bộc lộ những cảm xúc của mình, mà không sợ bị hiểu lầm, nhưng dù có bị hiều lầm thì cũng không… sợ. Cho nên chuyến đi còn vài ngày nữa mới kết thúc nhưng mọi người đánh giá là đã thành công. Sao là thành công? Vì rất vui. Được là những người An Nam thực thụ, gì cũng cười, tất cả đều được chế biến thành văn chương, qua lăng kính hài hước.

      Ai cũng biết rằng nhà văn không phải là gà công nghiệp, cứ cho ăn đầy đủ hàng ngày thì… cục tác ra quả trứng. Nhà văn sáng tác là nhu cầu tự thân, là nhà văn thứ thiệt. Còn đi đâu đó mới sáng tác được là nhà văn “công nghiệp”. Có khi đi rất nhiều vẫn không viết được gì ra hồn nhưng ở một chỗ mà nhạy cảm, suy nghĩ sâu sắc, trăn trở nhiều với cuộc sống, nhất là khi tư tưởng không bị áp bức hay tự mình nô lệ hóa, như đeo bám vào một hệ tư tưởng nào đó hay phụ thuộc tiền bạc, sự nổi tiếng… thì họ vẫn viết tốt, lay động được lòng người. Nhưng thời buổi này, những nhà văn sống ở thành phố, trừ một số ít sống bằng nghề viết văn, toàn tâm toàn ý với nghề thì đa số bận bịu với những công việc khác như kinh doanh, làm quản lý, xuất bản, làm báo, biên tập viên và cả thất nghiệp… Nên khi đi thực tế quả là một liều “doping” để họ nhớ mình là người… sáng tác. Tôi không dám tin rằng những chuyến đi như thế này giúp tôi viết được cái gì ra hồn mà thường giúp tôi có thêm bạn bè, hoặc sau đó trở thành thân thiết hơn. Nhưng dù thế nào có đi thì phải có viết, nếu không lỡ lần sau giám đốc nhà sáng tác không cho đi chơi nữa thì nguy…

      Lâu nay tiểu thuyết vẫn được xem là ngành “công nghiệp nặng” của văn học, nó thường được in ấn thành những cuốn dày cộm, trông đúng là những tác phẩm “vĩ đại”. Ở nhà vừa vác vừa đọc nghĩ cũng ớn lắm rồi, đâu ai dám mang nó ra đọc trước công chúng. Tôi có vài cuốn tiểu thuyết được đài phát thanh chọn đọc trong chương trình “Đọc truyện đêm khuya” nhưng rồi chính tôi cũng không đủ thời gian và kiên nhẫn để nghe cho hết tác phẩm của mình. Còn trong những buổi trà dư tửu hậu thì thơ được lên ngôi, dù là những bài thơ hay, đầy ám ảnh hay chỉ để cười cợt cho vui. Nghĩ mà ghen tị với các nhà thơ. Đi đến đâu cũng có giao lưu thơ, thật bất ngờ khi những nhà thơ không chuyên là cán bộ lãnh đạo địa phương hay những nông dân sống ở vùng sâu vùng xa rất mê thơ và làm thơ rất… thơ. Như ở huyện Lam Hà có một nông dân lên đọc một bài thơ của ông sáng tác, rất hay, khiến tôi phải cảm phục. Tất nhiên các nhà thơ ở thành phố có dịp tung tẩy những tác phẩm của mình, trình diễn bằng cảm xúc của mình nên thơ thường hay hơn khi tôi đọc họ trên báo hay những tập thơ gởi tặng. Đêm họp mặt với giới viết lách địa phương ở Nhà sáng tác tại Đà Lạt, một biệt  thự khá rộng tọa lạc ở khu phố tĩnh lặng nhưng không quá xa khu trung tâm thành phố. Hội trường ấm cúng có cả đàn Piano, trong không khí thân tình và rất tao đàn hôm đó tôi quyết tâm không để các nhà thơ “độc diễn” nên đã liều đọc một đoạn tùy bút của mình. Tôi được vỗ tay nhiệt liệt, không phải vì văn của tôi hay mà vì tôi đã làm một cuộc “cách mạng”: Đọc văn xuôi. Nhà văn Nhật Chiêu rất phấn khích trước sự…can đảm ấy của tôi và ân hận rằng không mang theo tập truyện ngắn mà anh vừa xuất bản để đọc chơi. Và anh đã “bù lỗ” bằng cách đọc một bài thơ Đường do anh dịch. Một số nhà văn hôm đó quyết tâm, từ nay mình sẽ đọc văn trước công chúng… Thúy Ái thấy phỗng mũi nghĩ mình là người tiên phong dám đọc văn.

   

      Đánh trống lảng một hồi rồi tôi cũng đành phải xin lỗi mọi người vì không thể giải thích được chuyện tôi đã “bốc hơi” tối hôm qua, làm mọi người lo lắng lẫn nghi ngờ tôi sa đà vào một vụ yêu đương nào đó. Tôi hứa sẽ đền một chầu cà phê khi về thành phố. Còn chuyện ấy thì một lúc nào qúy vị cũng sẽ biết.

 

 

***

 

     Hôm ấy đoàn đến thăm một nông trường. Nơi đó như một cái làng lọt thỏm giữa núi rừng nhưng khá đầy đủ tiện nghi như điện, điện thoại, truyền hình cáp, máy tính nối mạng Internet. Có trường học, công viên, quán cà phê vườn, sân vận động và các khu vực làm nghề. Nhiều người thích thú với cái xưởng sản xuất tơ tằm nơi đây, người đến xem thư viện, xưởng chế biến cà phê, trà, thăm vườn hoa… Còn tôi lân la ở mấy dãy trường học, cái gốc gác giáo viên dường như cựa quậy trong tôi. Sau một hồi lang thang trong sân trường và ước gì những ngôi trường ở thành phố cũng có cái sân chơi rộng rãi hay có được cái không khí trong lành như ở đây để các em học sinh chạy chơi, hít thở. Ngắm nhìn, ước mơ hão huyền chán tôi đến đứng ở cửa sổ của một phòng học để “dự giờ”. Trúng mấy lớp đang dạy những môn tự nhiên tôi chẳng hiểu gì, bước tiếp tôi nhìn thấy đề một bài thơ quen thuộc ghi trên bảng. Giờ văn đây rồi, tôi thầm reo lên và dừng lại. Lớp học không đông, chỉ hơn mười người nhưng cô giáo giảng say sưa, hào hứng như trước một giảng đường đông đúc, học viên chăm chú nghe dường như không quan tâm lắm đến sự có mặt không chính thức của tôi. Bài thơ này tôi từng dạy đi dạy lại nhiều lần lâu lắm rồi… Tôi định bỏ đi nhưng lại nấn ná, hình tôi bị cuốn vào lớp học. Cô giáo này dạy hay đây, cô cảm được bài thơ. Đó là một phát hiện vui sướng vì lâu nay tôi biết nhiều học sinh, kể cả các con tôi rất chán môn văn. Vì bản thân người dạy không cảm được cái hay cái đẹp của bài văn thì làm sao truyền thụ được điều đó cho người học? Sự dối trá thì không thuyết phục được ai. Chưa kể có những bài giảng văn được chọn dạy không phù hợp với lứa tuổi, các em không hiểu nổi nên đâm ra chán ghét văn chương. Tệ hơn nữa là người ta “chính trị hóa” văn chương thay vì làm ngược lại để các em thích thú và dễ nuốt… Thế là tiết học hấp dẫn ấy giữ chân tôi đến cuối giờ, cũng là tiết học cuối cùng của buổi chiều. Đợi cô giáo ra khỏi lớp tôi đến chào cô và định khen cô  một câu.

       - Chào  em ! Em giảng bài hay lắm, đến dạy ở đây lâu chưa ?

  Cô nhìn tôi e dè. Trả lời như một học sinh nói với cô  giáo :

       - Dạ thưa cô, được khoảng bảy, tám năm rồi…

   - Vậy quê em ở đâu ?

   - Dạ thưa cô  ở thành phố…

      Tôi “à” lên một cách ngạc nhiên lẫn thích thú. Một phụ nữ còn khá trẻ, dáng dấp con gái thành phố lại chịu gắn bó với một nông trường giữa chốn núi rừng này quả là điều lạ. Vừa đi vừa trò chuyện tôi hỏi thăm về cuộc sống, công việc của cô ở đây và cô cũng hỏi thăm đôi điều về cái nghề viết lách của tôi và bảo rằng hồi nhỏ cô cũng từng mơ trở thành nhà văn. Cô hỏi thăm tôi về một vài nhà văn viết cho thiếu nhi mà hồi nhỏ cô hay đọc và rất ngưỡng mộ. Tôi bảo trong chuyến đi này có nhà văn K., cô thích gặp chị ấy lắm nhưng tiếc là chị đã đi thăm một nơi khác từ sáng sớm và nghe rằng đang kẹt ở nơi đó, chưa về với đoàn được. Chợt nhớ trong máy ảnh của tôi có mấy tấm vừa chụp chung với chị  ở thác Voi hôm qua, tôi mở ra và zoom  để cô  xem cho rõ. Chị ấy cũng là nhà văn tuổi thơ của tôi nhưng đến nay chị ấy vẫn còn khá trẻ. Trước khi định chia tay tôi hỏi tên, cô  xưng là Kim, và nói thêm, nhà ba mẹ cháu ở quận Ba đó cô, gần Hồ Con Rùa… Hả? Sao nghe quen quá vậy? Tôi cũng từng sống ở gần đó đến hai chục năm chớ ít đâu, trong một căn hộ ở tầng cao nhất của một cư xá và gọi nó bằng cái tên thơ mộng “Căn nhà trên đồi” trong bài viết về không gian sống của mình trên một tạp chí chuyên  về nhà cửa. Tôi cũng từng có một chị bạn sống ở khu Hồ Con Rùa, một cái hồ chẳng thấy con rùa nào cả. Tôi với chị làm cùng một cơ quan, sau đó chị về hưu, tôi tôi chuyển đi nơi  khác.Tuy không đến nhà nhau nhưng mỗi khi đi chợ, gặp nhau chúng vẫn hay nói chuyện về con cái, sức khỏe. Tôi biết chị có cô con gái tên Kim vì có lần chị kể về cô bé ấy khi cô còn học lớp 11 và định gởi cho ông xã tôi dạy kèm cho cô môn tiếng Anh, không hiểu sao đó cô bé không đến học. Nhưng lâu nay tôi được biết rằng cô  ấy đang ở rất xa và hình nhưng chị có điều gì đó giấu mọi người, thỉnh thỏang có gặp chị nhưng tôi không dám hỏi chuyện con gái chị. Không kìm được tôi hỏi vội:

     - Có phải mẹ cháu tên Hoàng không ?

     Có một điều gì đó làm tôi xúc động nên tôi không rõ cô gái đang bối rối hay mừng vui vì gặp được người quen.

     - Dạ …

      Kim lững thững bước đi còn tôi không nói được gì… Chợt điện thoại trong túi tôi reng lên một tiếng ngắn rồi im bặt. Thôi chết rồi, hết pin. Mới sáng nay còn đầy, tôi chỉ gọi có vài phút... Có lẽ do liên tục dò tìm sóng khiến máy mau hết pin. Tôi hốt hoảng xem đồng hồ, tôi đã trễ giờ hẹn ra xe để cùng về, từ đây ra nơi xe đậu ít nhất đi bộ mất hai mươi phút. Kim đưa điện thoại cho tôi mượn nhưng tôi có nhớ số của ai đâu. Nhạy cảm với ngôn từ bao nhiêu thì tôi rất khó thuộc những con số bấy nhiêu. Tôi ít thuộc số điện tho ại của ai, ngay cả số của tôi mà ai hỏi bất ngờ, đôi khi tôi cũng ấp úng một chút mới nhớ ra được… Trễ cho trễ luôn, tôi có ý nghĩ ở lại nên nhận lời ngay khi Kim mời :

      - Hay cô nghỉ lại nhà cháu rồi sáng mai hãy về…

      Chuyện một cô gái “mất tích” cách đây nhiều năm giờ lại xuất hiện ở đây khiến tôi bất chấp sự lo lắng của mọi người và tự trấn an rằng ai cũng biết tôi ở lại một nông trường thanh bình như thế này thì không thể chết đói hoặc phải ngủ bờ ngủ bụi. Tối đó tôi có tìm cách liên lạc được với khu nhà nghỉ của huyện để nhờ họ báo giùm với trưởng đoàn của tôi nhưng sau này tôi mới biết không hiểu sao lời nhắn ấy lại không đến được…

 

***

   

       Mấy ngày qua di chuyển liên tục, miên man qua không biết bao nhiêu là đồi chè, rẫy cà phê ngút ngàn, những cánh rừng mới trồng lẫn những cánh rừng bị tàn sát trên diện rộng và chắc là còn bị như thế về lâu về dài. Nhà thơ P.  có sáng kiến chụp hình kỷ niệm với một cánh rừng đang hấp hối, tôi thấy hay nên cũng bắt chước. Tôi chợt nhớ đến những câu hát của Trịnh Công Sơn và nghĩ rằng ông không chỉ là một nhạc sĩ tài hoa, là một nhà thơ với ý tưởng lẫn cách dùng câu chữ đầy sáng tạo, mới lạ và sang trọng mà còn là một nhà tiên tri khi viết ra những câu hát cách đây vài chục năm lại ứng nghiệm vào hiện thực hôm nay. Chẳng hạn ông từng biết thành phố Sài Gòn sẽ bị ngập nước kinh khủng mỗi khi trời mưa nên đã viết “Sài Gòn mưa rồi chợt nắng” và “phố bỗng là giòng sông uốn quanh”. Chuyện phá rừng hồi ấy chưa đến nỗi nào nhưng ông đoán đúng chóc “Rừng đã cháy và rừng đã héo, em hãy ngủ đi. Rừng đã khô và rừng đã tàn em hãy ngủ đi…” Tôi quá thương xót cho những cánh rừng. Giá có nhiều tiền tôi sẽ bỏ ra mua vài cánh để dành, bảo tồn cho con cháu mai hậu còn biết thế nào là rừng chứ. Nhạc sĩ ấy còn biết trước nước mình sẽ gia nhập tổ chức WTO nữa cơ. Vâng, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Thật là một thiên tài đa dạng… Ngồi nhiều trên xe, ngoài những lúc cười đùa, trêu chọc bạn bè tôi không làm được gì nên cũng oải lắm, lại không được nghỉ  trưa theo thói quen nên tối về đến nhà nghỉ tắm táp xong lên giường là tôi híp mắt lại dù cô bạn nhà văn cùng phòng hơi khó ngủ và chỉ muốn tỉ tê trò chuyện. Nhưng về đến nhà Kim, ăn uống xong, khi bọn trẻ ngủ say, hai cô cháu mới vào nằm ở chiếc giường bên cạnh, người tôi cứ tỉnh như sáo dù giọng kể của Kim đều đều…

      -  … Khi cái thai được hơn bốn tháng thì mẹ cháu mới biết. Nó quá lớn để phá bỏ, bệnh viện khuyên giữ lại để khỏi ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh mạng của cháu. Cháu tuy hoảng loạn nhưng không muốn bỏ đi giọt máu của mình. Mẹ cháu khóc ròng vì đứa con gái duy nhất quá dại dột, trong khi anh trai của cháu đang học ở nước ngoài, cha cháu đang đi công tác ở Hà Nội. Mẹ dàn xếp cho cháu rời nhà trước khi ba cháu về. Ba cháu nghiêm khắc lắm cô à. Ông ấy quá bận rộn vì những chuyện lớn lao nên không có thời gian quan tâm đến con cái. Nhưng mỗi khi anh em cháu có biểu hiện gì không đúng ý ông, lập tức mẹ cháu bị kết án “Con hư tại mẹ”. Mẹ luôn sợ ba cháu dù nhiều khi bà không có lỗi. Anh trai cháu cũng từng dính vào ma túy may là mẹ cháu phát hiện kịp thời để chữa trị và đẩy ra nước ngoài du học, giống như đi tỵ nạn vậy.Theo kế hoạch, cháu lên sống trong gia đình một người quen của mẹ ở đây, sau khi sinh xong cho đứa bé để cháu rảnh rang làm lại cuộc đời… Sinh được hơn mươi ngày, có một phụ nữ ngoài bốn mươi sống đơn thân, đang làm việc ở một nông trường được bí mật giới thiệu đến nhận đứa bé về làm con nuôi. Mẹ cháu lúc ấy có lên đây để chuẩn bị tinh thần cho cháu, nhưng cháu gần như ngất xỉu khi người ta đưa tay đón cháu bé… Thế là kế hoạch phải dời lại vì sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của cháu và bầu sữa căng của cháu khiến ai cũng thấy quá nhẫn tâm khi con bé phải rời vú mẹ. Mẹ cháu thất vọng ra về còn cháu càng lúc càng thấy rằng mình không thể sống thiếu con. Chị Giàu, tên người phụ nữ ấy, trở lại mấy lần cũng không đạt được giấc mơ làm mẹ… Nhưng cũng vì thế mà chị trở nên thương cảm cháu. Mỗi tuần chị thường đến thăm cháu bé và gợi ý cháu lúc nào cứng cáp có thể xin vào làm việc ở nông trường, chị sẽ giúp đỡ. Thực sự lúc đó cháu không muốn trở về  thành phố, cháu chẳng là cái gì ở đó nữa, nhất là ba mẹ cháu rất khó chấp việc cháu không có chồng mà có con. Giải pháp của chị đưa ra quá tốt cho cháu nên mẹ cháu đồng ý.

       Ở nông trường này, từ khi mới mở đã quy tụ nhiều số phận, nhiều người làm lụng rất giỏi nhưng thất học, có người từng vướng vào tội lỗi, tuy vậy khát vọng làm lại cuộc đời của họ thật mãnh liệt. Một lớp bổ túc văn hóa được mở ra, nhiều người muốn đi học nhưng thiếu người dạy. Khi ban giám đốc nông trường đọc bản khai lý lịch của cháu, họ chú ý ngay vì thấy cháu khai đã  học xong chương trình phổ thông. Ban đầu cháu e ngại vì người đã hư hỏng như mình thì còn dạy dỗ ai, thế nhưng một cô gái quen sung sướng như cháu ra lao động chân tay làm sao chịu nổi, đành liều ra đứng lớp. Cháu nhận ra rằng những học viên ở đây tuy lớn tuổi nhưng cũng ganh điểm nhau như  bọn học trò trẻ con khiến cháu thấy họ thật dễ thương, gần gũi với cháu. Họ cũng run khi bị truy bài mà không thuộc, cũng hãnh diện khi được điểm cao hay cô giáo khen ngợi… Con gái cháu được hai bà mẹ chăm sóc, hồi ấy chị Giàu chưa làm phó giám đốc, chỉ giữ một chức vụ nhỏ trong nông trường, nhưng bấy nhiêu cũng đủ cho cháu có một chỗ dựa về vật chất lẫn tinh thần... Năm con gái cháu ba tuổi, cháu được cử đi học tại chức ở trường sư phạm của tỉnh. Thời gian này nhiều người theo đuổi cháu lắm cô à. Có ông cán bộ cao cấp ở tỉnh mê cháu đến mức đòi bỏ vợ lấy cháu nhưng cháu sợ lắm, họ bày ra đủ trò để chiếm đoạt cháu. Hình như cháu càng sợ họ càng thích hay sao ấy. Nhưng rồi cháu cũng nghiệm ra rằng cái đích của bọn đàn ông là chỉ muốn lên giường với cháu mà thôi. Có người chức vụ, danh vị hẳn hoi, lừa cháu vào phòng làm việc, thô bạo lột hết quần áo của cháu, vật vã hôn hít, liếm láp cháu không chừa một chỗ nào vậy mà không làm gì được cháu, cô có tin không? Cháu quyết liệt chống trả, cháu cấu cắn, vùng vẫy la hét khiến ông ta mất hứng. Bây giờ nghe chuyện mấy cô gái bị hãm hiếp cháu ít tin lắm, khi người phụ nữ quyết tâm chống trả thì bọ dâm tặc  ấy không làm được gì đâu, trừ khi bị giết hay bỏ thuốc mê. Cháu mà có quyền lực, cháu ra lệnh tử hình hết mấy thằng cưỡng bức tình dục, bọn hiếp dâm. Hồi đó cháu dại thiệt nhưng bọn cháu yêu nhau. Nhưng vì anh ấy còn trẻ quá, cháu lại dễ dãi nên anh ấy chán…

  Lúc này tôi chen vào được một câu :

        - Chưa thấy ai độ lượng với người làm dang dở đời mình, bỏ rơi khi mình đang mang thai như cháu… Nhưng cho cô hỏi thiệt, nếu yêu nhau sao các cháu không cưới nhau khi lỡ như thế ...

        Giọng Kim trầm hẳn xuống, cô nói rất nhỏ:

       - Vì khi đến với anh ấy cháu đã lỡ dại một lần… Cháu cứ tưởng anh cũng đâu còn “trong trắng”gì, nhưng anh lại không chấp nhận khi biết cháu không còn cái  “lễ vật” ấy...

      Không biết để an ủi cô hay khẳng định thêm sự dại dột của cô  mà tôi lại nói :

       - Nhiều năm giữ mục tư vấn về tình yêu – hôn nhân trên một tờ báo lớn, nhận được rất nhiều thư của độc giả, cả nam lẫn và nữ, cô nhận ra rằng tâm lý của đàn ông thật lạ, cứ muốn phá hủy cái thứ mà họ kiếm tìm…

      Trong ánh đèn ngủ mờ ảo, tôi thấy mặt Kim dường như nhăn lại vì đau đớn.

      Cô kể tiếp:  

      - Rồi những cô gái ở nông trường xôn xao vì có một thành viên mới… Tuy họ không nói ra nhưng cháu cũng đoán hẳn là đó là một đàn ông còn trẻ hoặc đẹp trai, có một sức hấp dẫn nào đó. Cháu biết vì cách họ rất giống như mỗi khi xem phim hay thấy trên tivi có ai đẹp trai là họ trầm trồ, rồi ngẩn ngơ. Còn cháu, từ lần vấp ngã ấy cháu rất sợ những người đàn ông đẹp trai. Nhưng trong một lần tò mò cháu cũng tìm xem thử người ấy ra sao. Lúc ấy cháu thấy như đất sụt lở dưới chân, máu trong người cháu như đông hết lại. Cô đoán biết người ấy là ai không ?

     Lúc đó cháu chỉ nghĩ được một điều, làm sao mình dẫn con tìm một nơi khác để sống. Nhưng  rồi cháu thấy mình làm vậy là hèn nhát, thế là cháu ở lại, nén hết mọi uất giận, khổ đau quặn trào để làm tốt công việc của mình. Cháu xem anh ta như không hề có mặt ở đó. Anh ta cũng giả lơ như không hề quen biết cháu. Có lần anh ta cùng ban lãnh đạo nông trường đến dự giờ thăm lớp đúng tiết dạy văn của cháu, cháu hoảng hốt vô cùng. Nhưng không hiểu sao thay vì mất bình tĩnh, cháu lại sôi lên, cháu đã dạy say sưa, hết mình giống như được hưởng một ân huệ cuối cùng trong đời. Sau tiết dạy, được mọi người khen quá trời nên cháu cũng có chút hả dạ. Nhưng khổ tâm nhất là những lúc vì công việc, họp hành cháu phải đối diện với anh ta. Rồi những lúc lớp mẫu giáo nghỉ, không có ai gởi con, con bé theo lẩn quẩn bên cháu, cũng may không ai nhận ra nó rất giống anh ta. Có lần cháu thấy anh ta len lén nhìn con bé nhưng không dám đến gần khiến cháu càng khinh. Và cháu quyết định xin chuyển đến một đơn vị khác nhưng không được ban giám đốc chấp thuận vì không có ai thay công việc của cháu, họ bảo chờ. Đến nước này cháu làm đơn xin nghỉ việc. Lúc ấy anh tìm gặp cháu và hẹn một buổi nói chuyện  riêng, cháu không đồng ý gặp nhưng anh vẫn cứ đến, cháu cứ ngồi như một cục đá, không thèm nói một lời... Chỉ mình anh ta nói. Những lời nói ấy như những nhát cuốc xới vào cái bờ mà lâu nay cháu cố công dựng lên quanh mình và cố thủ trong đó. Bao nhiêu thống khổ, nhục nhã như một túi bùn vỡ ục ra, tuôn tràn theo nước mắt. Sau đó về nhà cháu còn khóc rất nhiều. Nhưng rồi sau cơn khóc như thác lũ ấy lòng cháu trở nên khô cạn, vô cảm khi đối diện anh ta. Khi ấy trong con mắt mọi người, anh ta đang theo đuổi cháu, ai cũng nói vào vì cho rằng bọn cháu rất đẹp đôi. Đặc biệt là con bé quấn quýt anh ta  một cách kỳ lạ, cháu không thế hiểu nổi. Nhưng anh bảo rằng bây giờ anh đến với cháu không phải chỉ vì con mà vì anh bắt đấu thấy yêu cháu, một tình yêu mới, hoàn toàn khác trước, chính anh cũng bất ngờ vì điều đó. Anh bảo hôm đầu tiên dự giờ của cháu anh biết rằng phải tìm cách “cua”lại cháu…

      Đứa con trai nhỏ ú ở trở mình tìm mẹ, Kim vội sang giường của hai đứa nhỏ lên tiếng dỗ con và cháu bé lại ngủ say. Trẻ con nằm ngủ trông thật đáng yêu. Ngắm nhìn con trẻ bao giờ cũng thật hạnh phúc. Tôi đưa ra một nhận xét mà từ lúc mới vào nhà đã nhận ra :

      - Hèn chi hai chị em chúng trông rất giống nhau.

   Kim cười:

      - Ở đây ai cũng bảo hai đứa con cháu khác cha sao giống nhau như đúc. Nhưng cháu vẫn giấu điều bí mật ấy. Anh ấy bảo sau đợt đi công tác này về anh sẽ làm lại thủ tục khai sinh cho con bé để nó mang họ cha… Hồi đó cháu cho nó mang họ mẹ…

       Vì thức quá khuya khiến tôi khó dỗ giấc ngủ trở lại, một phần vì lạ chỗ và câu chuyện của Kim khiến tôi cứ suy nghĩ, liên tưởng đến nhiều vấn đề. Tôi rón rén dậy uống nước trong khi Kim và hai đứa nhỏ ngủ say. Nằm xuống định cố ngủ một chút lấy sức để mai còn tiếp tục đi, tiếp tục cười giỡn nhưng tôi lại tỉnh hẳn khi trong đầu lóe lên một ý tưởng, đây là câu chuyện mình có thể viết để nộp theo đơn đặt hàng của trưởng đoàn như ngay từ đầu anh đã nói “Quý vị cố gắng nộp bài vào giữa tháng năm, trễ lắm là vào cuối tháng năm”. Vì thế mà tôi cứ im lìm, ra vẻ bí mật khi bị mọi người tra vấn “Đêm qua đi đâu vậy?”.

 

15 - 5 - 2008

Trở lại Mục Lục

 

12


 

13

Trở về Lệ Chi viên   

 

      Sau tết Đoan Ngọ, vải chín ửng khắp vườn. Loại trái này vào cuối mùa tuy trái nhỏ hơn nhưng ngon ngọt hơn và màu chín hiện ra bên ngoài vỏ cũng đẹp một cách kỳ lạ bởi sự pha trộn màu không đều trải lên lớp vỏ xù xì khiến cho trái vải trông vừa ngon mắt, vừa ngon miệng ngay cả khi chưa bóc vỏ… Chưa có năm nào vải được mùa như năm nay. Ức Trai  tiên sinh ra lệnh cho đám gia nhân không được hái hết vải trên cành mà phải chừa lại trên khắp cả vườn, làm sao để cây nào trông vẫn trĩu quả. Không chỉ những loài hoa, mà vẻ đẹp của quả cũng khiến lòng ông hửng lên một niềm vui. 

          Từ ngày xa rời việc quan về ẩn dật nơi này, Ức Trai tiên sinh tưởng như thoát khỏi những phiền toái, phức tạp trong triều đình. Nhưng ông lại không thoát khỏi nỗi muộn phiền của lòng mình. Càng hòa mình vào thiên, quan sát cuộc sống của cây cỏ ông càng chiêm nghiệm sâu sắc về sự tồn vong, thịnh suy của cuộc sống, của một triều đại. Ông càng ngán ngẫm cho việc xâu xé, thu tóm quyền lực trong triều. Bao nhiêu công thần bị Lê Lợi bắt giam và bị giết, chính ông cũng bị người mà ông hết lòng phò tá ấy giam vào ngục tối, may mà giữ được mạng sống… Lâu nay tâm hồn ông có phần yên tĩnh hơn nhờ việc trước tác. Có lẽ đó chính là lối thoát, cũng là lúc ông được sống thật với con người của mình. Thi ca giúp tâm hồn ông trẻ lại, dạt dào cảm xúc. Năm nay tiên sinh gần  lục tuần, đã trót một đời người. Với dân thường, ở tuổi ấy, họ chuẩn bị lễ lên lão để sống cuộc đời của một ông già thực sự, an phận thủ thường, vui vầy với con cháu, với cảnh điền viên. Còn với ông, dù không cần làm lễ lên lão nhưng trong con mắt tôn kính của con cháu, của đám gia nhân, của dân chúng và những kẻ sĩ ưu thời mẫn thế, từ lâu ông đã là một ông già với tất cả sự cao qúy của nghĩa ấy vì những gì ông đóng góp cho sơn hà xã tắc. Một vị khai quốc công thần, một thi tài lồng lộng như sao Khuê, họ xem ông như một thần nhân. Với họ, Ức Trai tiên sinh là một con người ưu tú của dân tộc mà dễ đến cả trăm năm, thậm chí nghìn năm mới được sinh ra… Cũng có lúc Nguyễn Trãi muốn mình thực sự già đi, để dễ sống hơn. Chả là lâu nay ông tập trung vào việc soạn thảo Quốc Âm Thi Tập để răn dạy con cháu và người đời sống sao cho hợp đạo lý. Mọi đau khổ, bất hạnh của con người cũng do việc sống trái với Đạo mà ra. Đạo cũng chính là quy luật của cuộc sống vậy...

          Nhưng sáng nay có một việc xảy ra khiến Ức Trai tiên sinh cảm thấy tâm hồn mình bị xáo trộn. Như mọi ngày, sau buổi trà sớm, ông thăm đám hoa kiểng của mình rồi vào thư phòng đọc sách. Giữa buổi ông nghỉ ngơi một lát rồi đi dạo. Hôm nay ông muốn ngắm cho thỏa vẻ đẹp của những trái vải cuối mùa. Là một nghệ sĩ, ông hiểu rằng Tạo hóa chính là người nghệ sĩ vĩ đại  nhất, sáng tạo đến vô cùng và tận tụy nhất. Ngoài kiệt tác là con người, Ngài đã kỳ công tạo tác ra mọi thứ với trí tưởng tượng và óc thẩm mỹ kỳ diệu. Từ hình dáng màu sắc của những bông hoa, chiếc lá, từng loại cây trái, đến từng vẻ đẹp của những con cá, con tôm sống dưới nước cũng đều hoàn hảo, hài hòa và không trùng lắp. Mỗi tạo vật là một tuyệt tác và chỉ được tạo ra một lần duy nhất… Một nét bút của Tạo hóa, cả nghìn năm con người chưa bắt chước nổi. Tiên sinh vừa đi vừa suy nghĩ miên man. Nắng sớm tháng năm rực rỡ, chan hòa khắp vườn khiến tâm hồn u uẩn của ông có phần ấm lại nên đi một lúc, có lâu hơn thường lệ ông vẫn chưa thấy mệt. Bất chợt ông nhìn ra phía cổng có một nữ gia nhân đang chọn chiếu để mua của một người bán chiếu rong. Chuyện này vẫn thường xảy ra nên ông không để ý và định lui gót, vào thư phòng tiếp tục công việc. Nhưng chưa kịp vào, người nhà mua chiếu ban nãy đến trước mặt ông vòng tay cung kính:

- Thưa ngài, có cô bán chiếu con vừa mua còn đứng ngoài kia, thấy quả vải nhà mình nhiều và tốt quá nên xin ngài ban cho một ít, để cô mang về làm quà cho cha mẹ.

Ông ngoái nhìn, quả là cô bán chiếu còn đứng đó, có ý chờ đợi. Ông định gật đầu, bởi vải chín trong vườn lâu nay ông thường sai gia nhân đem biếu cho họ hàng thân tộc, chiêu đãi mọi người là chính. Bỗng ông đổi ý:

- Thôi, ngươi cứ mang chiếu vào nhà đi, để ta đem ra cho họ…

         Trên chiếc đôn ngoài hiên, sáng nay ông lão bộc đã chọn sẵn một mâm vải quả được cột thành từng chùm rất khéo để chủ nhân đãi khách vào chiều nay. Nguyễn Trãi chọn hai chùm vải ưng ý nhất rồi đi nhanh ra cổng. Chính ông cũng ngạc nhiên khi nhận ra sự nhanh nhẹn khác thường ấy của mình, trái với phong cách chậm rãi thư nhàn của ông lâu nay. Bởi người con gái bán chiếu trong bộ áo tứ thân đơn sơ và chiếc khăn mỏ quạ sùm sụp trên đầu như mọi cô gái quê khác, nhưng là người nhạy cảm với cái đẹp nên tiên sinh nhận ra đó là dung mạo của một mỹ nhân, vóc hình trẻ trung và thon lẳn. Thấy ông, cô gái gần như run lên. Ức Trai tiên sinh, với một giọng nói âm vang nhưng dịu dàng và ân cần rất mực để cô gái khỏi sợ, ông bảo:

- Đây ta ban cho …

Ông ngập ngừng không biết gọi cô gái là “ngươi” hay “nàng”, bởi tuy vẫn còn run rẩy, người con gái đưa hai tay đón nhận chùm vải chín mọng như nhận một ân huệ từ bậc thiên tài. Đôi mắt đen dài lúng liếng dưới lần khăn kia nhìn ông e ấp nhưng không kém phần dạn dĩ, lẳng lơ, rung động của một người nữ nhìn người đàn ông, tuy lớn tuổi nhưng phong thái sang cả, uy nghiêm mà vẫn chan chứa tình, người mà cô từng nghe tiếng từ lâu, vả lại dinh cơ này của Nguyễn Trãi đại thần, người dân nào mà không biết.

- Em xin tạ ân ngài…

       Chữ em ngọt ngào ấy của cô gái trẻ đẹp như một dòng nước mát rót vào lòng tiên sinh, giữa cái nắng bắt đầu lên cao, oi nồng. Ông tự hỏi, chẳng lẽ trước mặt cô không phải là một vị đại thần già nua, một bậc hiền triết mệt mỏi với thế thái nhân tình? Tiếng “em” ấy khiến ông không thể quay vào ngay. Tiên sinh hỏi tiếp:

-  Vậy quê cô em ở đâu …

          Cô trả lời nhưng ông không kịp ghi nhớ vì bận tâm hỏi tiếp một câu nữa:

         -  Vậy năm nay cô em được bao nhiêu xuân xanh rồi?

         -  Dạ thưa ngài, em vừa đến tuổi trăng tròn lẻ…

    Ông hơi mỉm cười vì một cô bán chiếu cũng nói năng văn hoa gớm, chắc cô cũng biết ông là một nhà thơ. Cô này thông minh đây. Có thể nghi ngờ điều này, nhưng một điều ông chắc chắn, đó là cô gái đẹp, đẹp lắm. Đôi mắt đen láy, lấp lánh dưới một hàng mi rợp mát, làn da trắng nõn ửng hồng vì nắng. Chiếc yếm nâu, cũ và chật không ép được vồng ngực căng, đầy sức sống… Nhan sắc này nếu được sống trong nhung lụa, được kẻ hầu người hạ và nhất là được khai tâm mở trí bằng chữ nghĩa thì chẳng thua kém những bậc nữ lưu cao quý, những quận chúa, mệnh phụ phu nhân trong triều đình. Nghĩ thế ông không ngần ngại hỏi tiếp :

        - Thế cô em được mấy con rồi?

        Đôi mắt cô gái càng sáng lên khi được hỏi câu này, như một thí sinh được vị giám khảo hỏi đúng vào câu mà mình đã chuẩn bị kỹ:

       - Dạ thưa ngài, em còn chưa có chồng, làm chi có con ạ.

      Người hỏi cũng thấy hài lòng không kém gì người trả lời. Thấy đứng lâu ngoài đường, nói chuyện với một cô gái dân dã thế này không tiện nên Ức Trai tiên sinh đành phải từ biệt cô với lời dặn.

        - Khi nào dệt được chiếu đẹp, mang đến cho ta xem nhé.  

          Quả là Ức Trai tiên sinh chưa bao giờ tự tay chọn chiếu cho mình. Dù cuộc đời ông từng trải qua thăng trầm, có lúc phải xa quê hương, khốn khó, không được sống đúng với vị thế cao quý của mình. Nguyễn Trãi sinh ra ở đất Thăng Long, mẹ ông là một tiểu thư dòng tôn thất, con gái yêu của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Ông là kết quả của một cuộc tình duyên say đắm và dám vượt khỏi lễ giáo nghiêm khắc thời ấy. Mẹ ông lỡ có thai với người học trò nghèo, biết đó là một cái tội phạm thượng nên người học trò ấy phải trốn đi. Quan Tư đồ biết được và độ lượng tác hợp cho họ nên vợ nên chồng. Sau này cha của ông là Nguyễn Phi Khanh mới thi đỗ tiến sĩ. Nguyễn Trãi từ nhỏ được sống trong dinh phủ với ông ngoại. Trang viên rộng lớn, nơi Ức Trai tiên sinh lui về ẩn dật thường gọi là Lệ Chi viên cũng là cơ ngơi lâu đời của một giòng họ danh giá bậc nhất, là nơi vui thú khi quan tể tướng Trần Nguyên Đán về hưu. Vì thế việc Nguyễn Trãi đứng nói chuyện, ban tặng phẩm vật cho một cô gái bán chiếu ngoài đường, chưa biết rõ lại lịch khiến đám gia nhân xì xầm, đến tai cả con cháu ông.

    Nỗi xao xuyến của Ức Trai trước cô gái đẹp tuy mãnh liệt nhưng ông nghĩ rằng việc ấy sẽ qua. Ông lại rơi vào nỗi cô đơn và chỉ chú tâm vào việc soạn sách, làm thơ là chính. Nhưng thật bất ngờ, chưa đến một tuần trăng sau, cô gái bán chiếu ấy lại đến và xin dâng lên Ức Trai tiên sinh một đôi chiếu rất đẹp. Gia nhân dâng lên cho ông xem, ông rất ưng ý nhưng khi gia nhân trả tiền cô không nhận. Nghe thế, tiên sinh bảo người nhà vào kho lấy ban cho cô một tấm lụa thì cô xin nhận. Lần này ông mới biết được tên cô, Nguyễn Thị Lộ và nắm rõ quê quán của cô gái.

     Thị Lộ về rồi, mấy ngày sau Nguyễn Trãi chưa hết ngẩn ngơ khi nhận ra sự thay đổi của mình. Trong ông tràn dâng một sức sống mới, giống như thời trai trẻ. Vì sao? Vì trong đôi mắt cô gái ấy, tiên sinh thấy mình không già, cái cách liếc mắt đưa tình, cái cách e ấp làm duyên của cô khi đứng trước ông đã nói lên điều đó. Vẻ thanh xuân của cô như san sẻ bớt tuổi già của ông. Còn sắc đẹp ư? Đó quả là một liều thuốc thần cho hầu hết đàn ông. Người đàn bà đẹp thường khiến nỗi khao khát yêu đương ở đàn ông dấy lên mãnh liệt. Thảo nào không hề ngẫu nhiên mà hai chữ sắc dục lại đi đôi với nhau. Khi những cuộc gặp gỡ của Nguyễn Trãi và Thị Lộ mỗi ngày một nhiều thì người trong gia đình, những gia nhân, công bộc trung thành lâu năm, có người sống từ thời cụ quan họ Trần cũng tỏ ý bất mãn khi biết Ức trai tiên sinh định cưới một người vợ lẽ kém ông quá nhiều tuổi, chỉ đáng con cháu, lại xuất thân trong một giai tầng thấp kém, có lẽ bao đời không biết đến chữ nghĩa thánh hiền. Nhưng họ không không thể không công nhận rằng cô gái ấy có đủ tinh khôn, ma lực để làm Ức Trai tiên sinh mê mệt, bỏ qua mọi lời can gián. Trước khi đưa Thị Lộ về điền trang, để nâng cao giá trị cô gái sắp chung chăn gối với mình Ức Trai đã ra mấy câu thậm dở mà tương truyền là cuộc xướng họa đầu tiên giữa tiên sinh với Thị Lộ, để chứng tỏ người phụ nữ ấy cũng có thi tài.

Cô ở đâu mà bán chiếu gon

Hỏi thăm chiếu ấy hết hay còn

Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi

Chồng có hay chưa, được mất con?

 

     Và bài họa cũng là của ông:

Quê ở Tây Hồ bán chiếu gon

Cớ sao ông hỏi hết hay còn

Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, có chi con

 

      Văn tài Ức Trai có thể chế tác ra những bài xướng họa hay hơn gấp nhiều lần, nhưng ông phải hạ thấp mình xuống như thế cho vừa với con gái dân dã, chỉ quen đối đáp trong những buổi ngồi dệt chiếu hay giã gạo … 

    Một người như Ức Trai tiên sinh, từng cùng Lê Lợi xây dựng đường lối chính trị, quân sự, đấu tranh ngoại giao với giặc, người từng thảo bản “Thiên cổ hùng văn”, được đời đời truyền tụng … thì việc thuyết phục những người thân, giúp họ vượt qua sự lo lắng, e ngại để ông lấy Thị Lộ chỉ là chuyện nhỏ. Và Thị Lộ đã không làm Ức Trai thất vọng, cô rất thông minh, tiếp nhận ngay được những bài học đầu tiên từ người chồng già dạy. Cô cũng rất thích thú với văn chương thi phú và những giai thoại văn chương. Có dịp đàm đạo với Thị Lộ, không ai nghi ngờ rằng, chỉ một thời gian ngắn, từ một cô gái bình dân, mù chữ đã lột xác thành một bậc nữ lưu quý tộc mà vẫn tràn đầy sức sống, sự sinh động của người lao động. Đó là nền tảng để sau này Nguyễn Trãi dám hạ mình xin cho cô được sung chức “Lễ Nghi Nữ Học Sĩ” trong triều, một thứ hư khoa vượt xa thực học của Thị Lộ, để tăng lên sự môn đăng hộ đối cho cuộc hôn nhân chênh lệch về nhiều mặt ấy. Có lẽ đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời Ức Trai làm một việc trái với lòng lành của mình, nhưng ông lại chặc lưỡi, tự đánh lạc hướng lương tâm rằng, việc ấy chẳng hại gì ai.

      Mặc dù Ức Trai tiên sinh từng nhiều lần cưới vợ, như những người đàn ông cao sang, danh vọng thời ấy. Nhưng tất cả những bà vợ kia, tuy gốc gác danh gia vọng tộc hay bình dân thì họ đều có một đặc điểm rất giống nhau trong chuyện chăn gối. Đó là họ gần như hoàn toàn thụ động khi ái ân cùng chồng. Còn Thị Lộ, chỉ sau một thời gian ngắn làm vợ, người đàn bà trẻ này không chỉ biết hưởng ứng, hòa điệu cùng ông trong khúc nhạc ái ân mà còn biết cách chủ động, gợi tình và đẩy chồng lên cao trào… Có lẽ lâu lắm rồi, Nguyễn Trãi thấy mình sung mãn đến như vậy. Ông hài lòng người vợ trẻ về nhiều mặt, không như lo lắng của mọi người. Chỉ một điều tiên sinh lấy làm lạ, là từ khi về sống ở Lệ Chi viên, Thị Lộ chưa một lần về thăm nhà, dù ông có ý khuyến khích. Nhưng Thị Lộ vẫn tỏ rõ là một người con hiếu thảo. Nàng vẫn sai người mang bạc vàng về cho cha mẹ tu bổ lại nhà cửa, tậu thêm ruộng vườn, cưới vợ cho em. Khi nhà Lê vời Nguyễn Trãi ra làm quan trở lại, bổng lộc được phục hồi thì anh em, họ hàng Thị Lộ cũng hiển vinh theo, được phong chức quan lớn, quan nhỏ tùy theo mức độ thân sơ với mình. Trong ngoài Lệ Chi viên đều biết uy quyền và sự ảnh hưởng của Thị Lộ với quan Thừa Chỉ Viện hàn lâm Nguyễn Trãi. Bản thân nàng được lui tới triều đình nhờ chức danh Lễ Nghi Nữ Học Sĩ cũng có tác dụng tích cực tới vị trí của người chồng. Vị vua trẻ tuổi lúc ấy là Lê Thái Tông cũng say mê Thị Lộ, không chỉ vì vẻ yêu kiều mà còn vì sự thông minh, ứng biến tài tình của nàng. Nguyễn Trãi biết điều nhưng vẫn phải làm ngơ. Vả lại việc vì vua trẻ tuổi biết xét lại, biết công trạng, tài năng của ông đã xuống chiếu phục chức cho ông. Với Ức Trai đó là một ân huệ quá lớn, giải được phần nào oan ức lẫn minh chứng được danh dự của ông trong con mắt những người ganh ghét chỉ muốn vùi dập ông lâu nay. Ngay cả ông biết rằng, Thị Lộ, dù không có việc gì vẫn cứ ở lại trong cung nên có điều tiếng xì xầm, ông đắng lòng nhưng vẫn phải chịu đựng. Khi ra làm quan trở lại, tuổi cao, việc lớn, Nguyễn Trãi luôn muốn hết lòng với sự tín nhiệm của vua nên lúc nào cũng mệt mỏi vì làm việc quá sức, thức khuya, lao tâm khổ trí vì dân, vì nước, vì ơn cao dày của Thiên tử… Chuyện ấy không phải không ảnh hưởng đến khả năng chăn gối của ông, với một người vợ trẻ phơi phới xuân tình. Ông biết mình không đáp ứng đủ nhu cầu dục tình của vợ. Quan ngự y là người thân thiết với Nguyễn Trãi, có giúp ông bài thuốc nổi tiếng “Nhất dạ ngũ giao”, tiên sinh có dùng nhiều nhưng thực tế thì “ngũ dạ nhất giao” ông cũng không làm nổi. Thuốc thang nào cũng chịu thua trước luật sinh, lão...  Nên dù Thị Lộ ở đêm trong cung, nhiều khi ông lại thấy dễ chịu. Ngay cả trước đây, đám gia nhân xì xầm, khi có dấu hiệu của một tên trộm đột nhập vào Lệ Chi viên, hay rình rập ở khuê phòng của Thị Lộ, không chỉ một lần nhưng vì xem xét thấy không mất gì nên không làm to chuyện.  Chỉ có Ức Trai tiên sinh thấy lo trước việc bí ẩn ấy…

***

     Mùa hạ năm đó, vua đi duyệt võ ở Chí Linh. Lệ Chi viên nhận được tin vui là trên đường trở về, nhà vua cùng đoàn tùy tùng sẽ nghỉ lại ở gia trang một đêm. Từ chủ nhân cho đến đám gia nhân của trang viên rộn rã trước vinh dự lớn lao này. Họ trang hoàng, giăng đèn kết hoa, tỉa tót cây kiểng, đánh bóng những bộ lư đồng và ướp xạ xông hương cho các gian phòng mà vua sẽ chọn để nghỉ đêm. Khi xa giá vua đến nơi, mọi người mới biết chuyến đi này không có thị nữ theo hầu, nếu có thì chỉ là những thị tì làm công việc phục vụ bên ngoài, nên không ai khác hơn để nâng giấc mình rồng là người vợ lẽ xinh đẹp của Ức Trai tiên sinh, vốn cũng là bạn tri âm của nhà vua trẻ lâu nay. Nhưng bất hạnh thay đó lại là giấc ngủ sau cùng của ngài.

***

       Đó là một vụ án lịch sử, oan ức và đau lòng, làm ray rứt nhiều đời sau, cho cả người chết và người bị xử tội. Nguyễn Trãi và Thị Lộ bị kết án âm mưu giết vua, riêng Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc.

      Trong lòng thần dân và cả những đời vua Lê nối ngôi sau này đều biết Nguyễn Trãi bị oan. Một bậc anh tài, đức độ như ông giết vua để làm gì, ông không bao giờ có ý nghĩ ấy, cả lúc bị thất sủng. Thị Lộ thì càng không, vì đó chính là lúc cô gái quê, ít học nhưng đầy tham vọng ấy đạt đến đỉnh cao danh vọng, chỉ nhờ vào sắc đẹp và chút khôn ngoan, toan tính. Chính Thị Lộ làm một cuộc đổi đời nhanh chóng cho mình và cả giòng họ mình, họ hàng nhà cô ai mà không ngưỡng mộ và trĩu nặng ân sủng với bà phu nhân quyền quý vốn là con em của họ.

       Khi Thị Lộ gánh chiếu đến Lệ Chi viên, cô đã hơn mười bảy tuổi, một năm trước đó nhà cô đã nhận lễ dạm ngõ của một người con trai nghèo cùng làng. Đó là một cuộc hôn nhân đặt để, như hầu hết những cuộc dựng vợ gả chồng thời ấy. Gã trai trẻ ấy khỏe mạnh, cao lớn nhưng Thị Lộ không ưng vì gã nghèo là lại có tính hung hăng di truyền. Cô từng biết cha gã đánh mẹ gã chết đi sống lại vì những lý do vu vơ, nhất là khi say rượu. Anh em gã cũng có cái thói vũ phu ấy. Nhạy cảm, khôn sớm, Thị Lộ biết mình đẹp và hiểu rằng đó là sức mạnh của nữ nhi, vì người đàn ông nào cũng háo sắc, càng giàu sang phú quý họ càng tăng thói háo sắc háo dâm.  

      Đã nhiều lần đi ngang Lệ Chi viên, Thị Lộ len lén nhìn vào chốn quyền quý ấy với một lòng thèm muốn vô hạn. Được sống trong ấy, dù với vị trí nào cũng là cao sang với mình lắm rồi. Cô  cũng biết tiếng vị quan lớn từng làm quan trong triều về đây ở ẩn lâu nay. Những  ông quan dù về hưu đều muốn có thêm vợ, khi người vợ trước già, cũ đi một chút là họ tìm vợ mới. Thị Lộ từng hy vọng vào nhiều cổng quan phủ khác hé mở cho mình nhưng cô chưa gặp may. Đó cũng không  phải lần đầu gia nhân của Lệ Chi viên ra mua chiếu hay đặt chiếu nhưng Thị Lộ không bao giờ thấy mặt được chủ nhân. Mỗi sáng, gánh chiếu ra đi, Lộ đều thắp hương khấn vái mong được gặp gỡ một người đàn ông quyền quý nào đó và được lọt vào mắt của ông ta.

     Vận may đã đến với Thị Lộ khi cô gặp được một văn nhân vốn nhạy cảm với cái đẹp, dù cái đẹp ấy được dấu trong quần áo nghèo nàn. Việc Nguyễn Trãi muốn cưới cô làm lẽ khiến gia đình cô nghe như tiếng sét ngang tai.  Việc đó ngoài sức tưởng tượng nhưng họ cũng thấy ngay nguy hiểm cho cô gái. Hề, gã chồng chưa cưới của Thị Lộ biết chuyện này chắc chết cả nhà. Nhưng rồi nhờ có vàng bạc, họ cũng thỏa thuận được với Hề. Nhận mấy nén vàng, gã đồng ý nhượng vợ lại cho người khác. Mọi việc tưởng như êm đẹp, Thị Lộ về trang viên sống đời mệnh phụ. Thế nhưng thỉnh thoảng hắn vẫn tìm cách ghé qua nhà cha mẹ cô gây chuyện, nhằm kiếm thêm mấy nén bạc để uống rượu. Nếu không hắn dọa sẽ đến trước trang viên, nói cho mọi người rằng Thị Lộ là quân lộn chồng. Dù gì cũng đã ăn đồ dạm ngõ của hắn.  Chính vì thế mà từ khi về nhà chồng, Thị Lộ dù rất nhớ cha mẹ cũng không dám bén mảng về thăm. Cô luôn nằm mơ thấy mình mặc áo thêu, đeo vòng ngọc, ngồi trong kiệu hoa lộng lẫy, có kẻ hầu người hạ về quê, cho dân làng, phường bạn dệt chiếu, bán chiếu ngày xưa của mình lác mắt. Nhưng đó cũng chỉ là trong mơ. Thị Lộ luôn sợ gặp lại Hề.

     Vàng bạc cũng không làm nguôi mối hận mất vợ ở Hề. Có lần hắn lén trèo vào trang viên, tìm đến khuê phòng của Thị Lộ, nhưng bị động hắn tìm cách thoát nhanh. Như bị ma quỷ dẫn đường, dù sợ nhưng  gã cũng cứ mò đến gia trang. Nhiều lúc gã rình thấy được cảnh vợ chồng họ ân ái, hắn điên lên muốn nhào vô bóp cổ Ức Trai cho rồi, nhưng nghĩ lại hắn không dám. Từ đó Hề thông thuộc lối vào ra trang viên một cách an toàn. Thị Lộ cũng linh cảm có hơi hướng Hề bên ngoài phòng loan nên luôn đề phòng, sợ Ức Trai tiên sinh biết sự thật. Chính những lúc vào cung là lúc Thị Lộ thấy yên ổn nhất, lại được ở bên mình rồng, một vị vua trai trẻ, phong tình.

     Hề biết sẽ có việc lớn ở Lệ Chi viên, khi thấy nơi ấy giăng đèn kết hoa. Rồi cảnh binh mã rầm rộ xuất hiện, binh lính kiểm soát chặt chẽ khắp nơi, các vị quan địa phương ra lệnh cho người dân không được bén mảng đến  gần trang viên. Nhưng từ xa trên một đồi sim, Hề cũng nhìn thấy xa giá cùng đoàn tùy tùng của vua xuất hiện với trống đánh cờ giong rợp trời. Không  kìm được tò mò, đêm khuya hắn len qua những bụi rậm, vườn cây mò dần đến trang viên. Lúc ấy bọn lính hầu ngủ gục. Như một con rắn, hắn trườn vào theo lối bí mật quen thuộc của mình, không một tiếng động. Tất cả như chìm trong giấc ngủ, duy chỉ  trước một sảnh lớn có hai người lính đứng gác. Hắn biết đó là nơi vua nghỉ ngơi. Hề men qua khuê phòng của Thị Lộ, không có nàng ở đó. Còn ánh đèn trong thư phòng, hóa ra Nguyễn Trãi còn thức đọc sách. Vậy Thị Lộ ở đâu? Trong thâm tâm, người đàn bà ấy vẫn còn là của hắn. Hề thấy như sôi lên. Như một cái bóng, hắn liều lĩnh vòng ra phía sau căn phòng có lính gác. Qua khe của chiếc cửa sổ tròn nhỏ, bằng gỗ chạm trổ hình chim hạc rất tinh xảo, nhìn vào, hắn  thấy một cảnh mà nếu sau đó còn sống, hắn sẽ nhớ đời. Mình rồng đang ở trần trùng trục, phủ lên thân thể ngọc ngà của Thị Lộ, cũng không một mảnh vải che thân. Cả hai người ra sức tận hưởng lạc thú với tiếng kêu phát ra từ Thị Lộ như tiếng mèo cái lúc động đực. Thù hận, ghen tuông, hắn lồng lộn như một con thú, chỉ muốn cắn xé tình địch, còn hơn lần từng nhìn thấy Nguyễn Trãi và Thị Lộ trong một cảnh tương tự. Từ lần ấy hắn luôn mang theo một liều độc dược trong người, để dành khi cần đến. Nhưng  sau đó Thị Lộ vào cung, hắn chưa có dịp gặp lại cảnh đó, đủ để kích thích lòng ghen tuông cho hắn dám nhúng tay vào tội ác. Lần này thì hắn bắt gặp vua với nàng, cái cách dâm ô của nàng mới ghê gớm làm sao. Hắn gầm lên trong lòng “Con dâm phụ!”. Hắn nhìn xuống ngạch cửa, hắn biết quá rõ bề cao cái ngạch cửa này, chỉ khoảng hơn một gang tay. Hắn thử một lần rồi. Nhưng hôm nay sức ép của hận thù khiến hắn ép mình nhỏ lại một cách không ngờ. Hai kẻ say sưa trong hoan lạc nào có hay gì, vả lại họ yên tâm có lính gác, đây là một vùng đất thái bình trong một triều đại đang thời thịnh trị. Lọt vào được bên trong rồi, ngồi thụp xuống trong một góc, Hề nhìn thấy cái bình ngọc và chén ngọc trên bàn, Hề hiểu đấy là đồ dùng riêng của vua, lập tức hắn lấy ra trong người một cái gói nhỏ bằng đầu ngón tay, mở mấy lớp lá chuối khô, rồi rắc thứ bột màu xám vào bình, vào chén. Loại độc dược này chỉ cần lỡ vấy ngón tay cho vào miệng cũng đủ chết người. Xong việc nhưng hắn không thể chui ngạch trở ra được, hắn thấy mình to lớn quá. Không sao, hắn nhanh trí đến cửa sổ, nhẹ nhàng hất cái then gỗ, vọt ra và biến đi trong đêm tối. 

    Xét xử vụ án này, các quan lớn, quan nhỏ của Tòa Đại Hình đều biết Nguyễn Trãi bị oan. Suốt đêm ấy ông đọc sách và ngủ thiếp đi vào lúc sáng sớm. Vả lại không  ai dại gì lại để vua chết tại nhà mình. Nhưng tang chứng khá rõ ràng là nhà vua có dấu hiệu bị đầu độc. Ai hại ông? Bởi Ức Trai tiên sinh không dù phải được tất cả mọi người yêu mến, vì người tài thường bị ghen ghét, nhưng ai cũng nể phục tài năng, đức độ của ông. Chỉ trừ ông có cái tội quá yêu những phụ nữ đẹp, nhưng đó là chuyện chung của các đấng mày râu, ai mà nỡ ghét.

     Những ngày cuối cùng trong ngục chờ ra pháp trường bị xử trảm cùng với ba họ, Nguyễn Trãi suy nghĩ nhiều về công, về tội của mình. Ông thấy mình không có lỗi gì với dân, với nước. Suốt cuộc đời ông đã dốc sức, hết lòng cho sự độc lập của sơn hà, sự thịnh vượng của xã tắc. Tư tưởng nhân nghĩa của ông luôn hướng về nhân dân. Nhưng một thiên tài, một bậc minh triết như ông phải thọ tội, một trọng tội thế này ắt ông đã phạm một sai lầm cực lớn. Rồi ông cũng lờ mờ nhận ra rằng một bậc văn tài như ông phải giúp triều đình dựng nước, chăn dân là đúng. Nhưng ông sai khi ra tham chính, làm quan, hưởng bổng lộc của triều đình, đứng về phía nhà cầm quyền và thân thiết với họ. Mà lẽ ra vai trò cao quý của ông, một nhà văn hóa lớn, phải là đối trọng với người nắm giữ quyền lực trong tay, để cảnh tỉnh, giúp họ thấy được những cái sai của mình mà sửa. Cái sai thứ hai của ông, là khi tuổi đã cao, sức đã xuống đi lấy một người vợ quá trẻ, chỉ đáng tuổi con cháu, lại thiếu một nền tảng văn hóa lẫn giáo dục từ tấm bé. Hai điều sai lầm ấy đã đưa ông đến mối bất hạnh khủng khiếp nhất của một kiếp người. Nhận ra điều đó, lòng Ức Trai tiên sinh thanh thản hơn, ông hiểu rằng mọi sai lầm đều phải trả giá. Trong những khoảnh khắc cuối cùng, giấc ngủ trở nên bình yên và hồn mộng của Nguyễn Trãi thường trở về Lệ Chi viên, với những ngày tháng u nhã và thái hòa, được sống với thơ, có hoa cỏ làm bầu bạn …

 

 Trở lại Mục Lục

 

 

 

 

Lên trang này ngày 8-11-08