Người “định lượng” văn học sử
Phạm Quang Đẩu
Một hôm, tôi nhận được cuộc gọi điện thoại bàn giọng miền Trung, hình
như có cả thoáng cười lúc ấy: “Tôi là Phương Lựu. Đọc cuốn Một ngày là
mười năm dự giải hàng năm Hội Nhà văn của anh. Tôi bỏ phiếu cho anh,
song ban giám khảo bảo cuốn này đã được giải Mê Kông rồi. Cái câu của
nhân vật cựu chiến binh mở đầu cuốn sách thú vị đấy, tôi cũng tâm niệm
thế: Sống vô tư, ăn từ từ, đi đột ngột...”
Tôi chưa gặp, cũng chưa biết mặt bác Phương Lựu, chỉ biết tiếng bác ngày
đó là chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình của Hội Nhà vănViệt Nam, lại
vừa được đọc bài dài cả trang trên báo Văn Nghệ số mới về phê bình nữ
quyền sinh thái của tác giả “giáo sư, tiến sĩ khoa học Phương Lựu”. Song
cái tôi quan tâm lại không phải là lí luận
văn học kiểu như thế, bác chẳng đã có lần trả lời phỏng vấn “người sáng
tác mấy khi đọc lí luận”. Ngày đó cũng chưa thịnh hành điện thoại di
động thông minh như bây giờ, nên tôi cảm ơn GS. Phương Lựu đã chủ động
điện thăm hỏi cho biết thông tin và tôi xin số điện thoại, địa chỉ nhà
để trong một ngày đẹp trời sẽ đến diện kiến sư phụ.
Nhà bác Phương Lựu ở một ngách đầu đường Nguyễn Khánh Toàn, thuộc quận
Cầu Giấy. Mở cửa, hiện ra một ông già dáng tầm thước chắc khỏe, khuôn
mặt vuông vức, tóc muối tiêu.Tôi đã gọi điện báo trước, bác vui vẻ bắt
tay, xuề xòa gần gũi như quen biết từ lâu. Lại đập vào mắt tôi phía bên
trái buồng khách trần thấp nhưng rộng rãi(Chắc chủ cũ dành buồng này làm
ga ra ô tô), có cái bệ vuông vức xây sát tường trên đặt pho tượng bán
thân bằng đồng thoạt trông biết ngay tượng bác, cạnh có treo tấm bằng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Chủ lại biết ý khách,
liền “thuyết minh”: Năm 2006, mừng thầy thất thập cổ lai hy, học trò
mang đến tặng đấy. Rồi ngồi nói chuyện được một lúc, bác gái đi chợ về
xách cái làn nhựa to, bác trai giới thiệu đôi điều, nhân thể bảo luôn
với khách: Trưa anh ở đây ăn cơm với vợ chồng tôi nhé, rau dưa thôi có
bày vẽ gì đâu...
Ở Hội Nhà văn tôi toàn tiếp xúc với bạn bè sáng tác văn thơ, bác Phương
Lựu thành viên hiếm hoi là nhà lí luận. Mà lí luận xịn, kinh viện.Về sau
tỉm hiểu, tôi còn biết có khá nhiều điều độc đáo ở vị giáo sư văn học
không chỉ kinh viện, mà rất đời thường này. Năm 1954 tròn 18 tuổi, Bùi
Văn Ba (tên thật của bác Phương Lựu) được Đảng bộ Liên khu V chọn trong
số những học sinh gửi ra Việt Bắc để sang Trung Quốc học. Anh giỏi toán,
ghét môn văn, hồi còn học ở trường Trung học Lê Khiết, Quảng Ngãi thầy
Lê Trí Viễn cứ thấy bài luận làm sơ sài của Bùi Văn Ba, cho xơi trứng
ngỗng ngay. Có lẽ thầy “ghét” còn là do chữ anh xấu viết lí nhí nữa. Hồi
học sắp tốt nghiệp ở Bắc Kinh anh nhận được thư của nhà văn Hoài Thanh,
chê khéo: Có lẽ anh học bên ấy hơi lâu rồi, quen viết quốc ngữ theo kiểu
Hán tự nên tôi lần mãi không ra; một thầy Trung Quốc thì bảo, anh viết
chữ Hán giống như chữ Việt hay sao ấy nhỉ. Ngày đầu sang nước bạn, tổ
chức lại phân học văn. Buồn quá, lòng anh không khỏi miễn cưỡng, về sau
mới thích dần, ngấu nghiến hết từ Tây Sương ký đếnTam Quốc diễn nghĩa,
Những người khốn khổ, Jean Christophe...Hóa ra văn cũng hay chả kém
toán. Và năm 1960 Bùi Văn Ba tốt nghiệp xuất sắc Đại học Sư phạm Bắc
Kinh, về nước anh được phân công giảng dạy văn học Trung Quốc ở Đại học
Sư phạm Hà Nội, nhiều năm làm chủ nhiệm bộ môn lí luận văn học.
Thân mẫu của Bùi Văn Ba thời trẻ xinh đẹp đảm đang, chồng mất sớm, bao
người đến cầu hôn bà vẫn ở vậy nuôi dạy hai người con trai. Bà còn tham
gia hoạt động cách mạng.
Năm 1965, một hôm như thường lệ buổi sáng Bùi Văn Ba chạy quanh Bờ Hồ
một vòng, về nhà bỗng nôn thốc tháo, phải xoa dầu đánh gió, đắp chăn nằm
mất cả buổi. Mấy tháng sau, hôm đó vừa thức giấc đã thấy một phong thư
nhét qua cửa không có dấu bưu điện, chắc là theo một đường dây bí mật từ
miền Nam gửi ra, báo tin má anh đã hy sinh vào sáng ngày 1-8-1965, đúng
vào cái hôm anh bị cảm lạnh bất thường ấy. Một sự “ngoại cảm”, hay hồn
thiêng thoát xác của má bay ra báo tin cho con trai biết chăng? Thương
má, căm thù giặc dạo ấy anh đã xung phong vào miền Nam chiến đấu nhưng
không được chấp thuận vì gia đình đã có anh trai liệt sĩ chống Pháp.
Không được đi B thì đánh giặc “gián tiếp”. Anh là trung đội trưởng tự vệ
của trường Sư phạm, ngày 12-7-1972 khẩu 12,7 ly trực chiến của trung đội
anh đã góp phần vào chiến công chung, bắn rơi máy bay Mỹ khi xâm phạm
bầu trời thủ đô. Từ
sau ngày má mất(Bà được truy phong Mẹ
Việt Nam anh hùng), Bùi Văn Ba trong các bài hay sách nghiên cứu
lấy
bút danh Phương Lựu: Lựu, tên má ruột;
Phương là tên má vợ, ghép chung lại theo nghĩa Hán tự là một bông
hoa lựu đỏ và thơm. Bút danh này lâu nay đã trở nên quen thuộc với giới
nghiên cứu văn học, cũng đã hiện diện trong cuốn Đại từ điển Văn học
nước ngoài thế kỷ XX của Trung Quốc, do NXB Dịch Lâm, Nam Kinh ấn hành
năm 1999.
Tự học là đặc điểm nổi trội trong đời công tác của GS. Phương Lựu. Năm
1987, bác đã bảo vệ tiến sĩ bằng con đường tự học; tiếp đến 1991, cũng
bằng con đường tự học, bác trở thành tiến sĩ khoa học về văn học duy
nhất cho đến nay bảo vệ thành công học vị này ở trong nước. Như đánh giá
của Hội đồng chấm luận án Nhà nước, đề tài Góp phần xác lập hệ thống
quan niệm văn học trung đại Việt Nam: “Lần đầu tiên trong lịch sử nghiên
cứu văn học đã xác lập được hệ thống quan niệm văn học trung đại nước
nhà, với nội dung phong phú, kết cấu chặt chẽ, chứa đựng nhiều kết luận
mới mẻ...”. Và 100% thành viên Hội đồng bỏ phiếu tán thành bản luận án.
Giỏi tiếng Trung, bác tự học sử dụng thạo thêm tiếng Pháp và Nga. Một
đồng nghiệp đàn em của GS.Phương Lựu là PGS. TS La Khắc Hòa đã viết: “Ở
Việt Nam số học giả viết khỏe, viết nhiều như Phương Lựu có thể tính đếm
trên đầu ngón tay...Ông từng làm chủ biên và tham gia biên soạn trên
dưới 30 cuốn sách, trong đó có nhiều bộ giáo trình thuộc đủ loại. Năm
2005, Phương Lựu Tuyển tập ra mắt bạn đọc, 3 quyển tổng cộng 1747 trang
in khổ lớn. Người Trung Hoa có thói quen đếm số chữ để ghi nhận công lao
của một nhà hoạt động văn hóa, bắt chước họ tôi thử đếm và làm tròn số
thì thấy chỉ riêng bộ Phương Lựu Tuyển tập, nhà nghiên cứu này đã viết
70 vạn chữ(chính xác 674.784 tiếng). Đó là kết quả lao động liên tục,
bền bỉ không biết mệt mỏi trải dài hơn 40 năm của một nhà giáo mà hình
như lúc nào cũng ham mê đọc sách và xem viết lách là sinh thú lớn nhất ở
đời... Trước kia ông thâu tóm vào những công trình nghiên cứu của mình
toàn bộ tinh hoa lý luận văn nghệ phương Đông. Nay tư duy lý thuyết của
ông hướng sang phương Tây và khi đã đủ tư liệu, ông hướng tới sự so sánh
thi học phương Tây- phương Đông”. Một đồng nghiệp, từng về Khoa Văn với
nhau ngay từ buổi đầu là GS.Nguyễn Hải Hà đã có tổng kết khá cô đọng về
con người bạn: “Có thể nói GS.TSKH nhà giáo nhân dân Bùi Văn Ba hội tụ
đủ 5 yếu tố tạo nên sự thành đạt của mỗi con người: Tài, Đức, Sức, Khéo,
May. Sức là sức khỏe;Khéo là khéo giao tiếp, ứng xử;May là may mắn, cơ
hội, gặp dịp”.
Dẫu tôi mới tiếp xúc với bác Phương Lựu và chỉ được đọc một số công
trình lí luận văn học của bác, cùng những bài viết của đồng nghiệp, học
trò song cũng phần nào cảm nhận được các phẩm chất mà người bạn lâu năm
của bác đã chỉ ra ở trên. Trước hết về “Tài”. Ai cũng biết, trong nghiên
cứu khoa học có hai phần định tính và định lượng đề tài và bao giờ việc
định lượng cũng có vai trò quyết định chất lượng của nghiên cứu. Và
trong khoa học xã hội, vấn đề tìm hiểu thường “mờ”, rất khó nắm bắt để
định lượng được rạch ròi. Bác vốn có khiếu về toán học(Hồi ở Trường
trung học Lê Khiết, thầy Hoàng Tụy dạy toán khen Bùi Văn Ba là Tiểu
Pitago-Petit Pythagore), rồi lớn lên tình cờ chuyển sang lĩnh vực mà bác
cho là mình không có sở trường, thực ra trong suốt cuộc đời lao động
chuyên cần, nghiêm túc, do tự thân có tư duy logic của toán học, hay có
thể gọi đó là trí thông minh trời cho, đã được bác vận dụng thành công
vào việc nghiên cứu văn học. Nhận xét của GS. Bùi Văn Nguyên, người phản
biện luận án TSKH của bác: “...tác giả đã dựng lên được một hệ thống lớp
lang về quan niệm văn chương cổ Việt Nam làm cho người đọc không khỏi
ngạc nhiên, hóa ra ông cha ta cũng có cách lý luận riêng của mình, mà
cũng gần như đầy đủ cả”. Đây chính là một đánh giá nghiên cứu sinh đã
định lượng thành công về văn học trung đại Việt Nam. Nhìn lại cả một quá
trình nhiều năm nghiên cứu của GS. Phương Lựu, việc “định lượng” cũng đã
thể hiện khá nhất quán từ công trình
đầu tay về Lỗ Tấn(1977) đến gần đây nhất, năm 2021 về Hậu lý
luận. Nhà nghiên cứu có cái nhìn bao quát văn học Đông-Tây đương đại, ấy
là điều hiếm gặp với giới lí luận phê bình văn học thời nay và cũng giải
thích vì sao đã hơn 30 năm trôi qua kể từ luận án của Phương Lựu bảo vệ
đến nay chưa thấy có thêm luận án TSKH khác thành công trong nước(Gần
đây nhất, phiên họp lần thứ VIII của Hội đồng giáo sư nhà nước, nhiệm kỳ
2018-2023, ngành Văn học không có ứng viên nào). Bác đã được trao Giải
thưởng Hồ Chí Minh cho cụm 3 công trình xuất sắc nhất. Thực ra nghiên
cứu của bác khá đều tay, có thể kể tên những công trình quan trọng như:
Từ văn hóa so sánh đến thi học so sánh; Phương pháp luận nghiên cứu văn
học; Vì một nền lí luận văn học dân tộc-hiện đại; Khơi dòng lí thuyết;
Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc; Mười trường phái lí luận
phê bình đương đại phương Tây...Do
khả năng “định lượng”, mà có những vấn đề cơ bản của lí luận văn
học lâu nay vẫn bị nhầm lẫn, Phương Lựu đã thẳng thắn chỉ ra. Một thời
kỳ khá dài văn nghệ nước ta trong đường lối, nghiên cứu, phê bình, sáng
tác...đều lấy định nghĩa gốc ở Điều lệ Hội Nhà văn Liên Xô khởi thảo từ
năm 1934, rằng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vừa là phương pháp
sáng tác, vừa là phương pháp phê bình. Tác giả Phương Lựu viết: “Làm gì
có phương pháp chung cho khoa học và nghệ thuật... Rất tiếc là, ở nước
ta từ đồng chí lãnh đạo đến nhà lí luận phê bình trong suốt nhiều thập
kỷ không thấy rõ, mà cứ lặp lại sai sót này”. Hay quan niệm về “văn dĩ
tải đạo” lâu nay cũng có những lầm lẫn, thường được dẫn chứng bằng câu
thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy
thằng gian bút chẳng tà. Trong công trình Tinh hoa lí luận văn học cổ
điển Trung Quốc, Phương Lựu đã vạch ra sự lầm lẫn tai hại này: “Thật ra
Văn dĩ tải đạo là một quan niệm tiêu cực về nội dung ‘đạo’ và sai lầm về
phương pháp ‘chở’. Nó đã từ một phía khác, triệt để tách rời giữa nội
dung và hình thức trong văn học. Nó chỉ là một đặc sản của Tống Nho, là
sản phẩm của Chu Trình. Khổng Tử chưa hề nói như vậy...” Hóa ra chữ
“văn” ở đây là thuyết minh cho kinh kệ, nó không cần phản ánh sự thật và
có tác dụng thẩm mĩ; còn “đạo” lại càng không phải là nhân đạo, đạo lí
như nghĩa thông thường mà chính là giáo lí của Tống Nho duy tâm thoái
hóa, phản nhân đạo.
Người làm khoa học, kể cả khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên,
khó mà ngay từ đầu được đông đảo đồng nghiệp thừa nhận, hưởng ứng (Văn
mình vợ người mà!). Song lâu nay các nghiên cứu của Phương Lựu khi “tung
ra”, hầu như không có sự phản bác nào, số đông tán đồng, có không ít
công trình đã vào đi thẳng vào sách giáo khoa ở bậc đại học và trên đại
học. Đôi khi nghĩ về GS.Phương Lựu tôi nảy ra một câu hỏi “lẩn thẩn”:
Nếu ngay từ đầu chàng sinh viên quê Quảng Ngãi Bùi Văn Ba được học theo
sở trường là toán học, liệu sự nghiệp sau này có thành đạt được như với
văn học? Rồi tôi tự trả lời: tuổi trẻ cộng với tư chất thông minh, sự nỗ
lực phấn đấu vươn lên không ngừng nghỉ thì chắc “Petit Pithagore” sẽ
thành công thôi, biết đâu cũng được như người thầy của mình là GS.Hoàng
Tụy, nổi tiếng trong lĩnh vực toán tối ưu toàn cục. Và như thế ta lại
không có một GS. Phương Lựu nổi tiếng về lí luận văn học dân tộc, hiện
đại. Âu cũng là... “huề”. Trường hợp Bùi Văn Ba/Phương Lựu chỉ càng minh
chứng cho một thực tế đã xảy đến với một số người, cái gốc thiên bẩm
toán học sẽ giúp ích được rất nhiều ở các ngành nghề khác. Nên nhớ là vị
giáo sư của ngành khoa học xã hội này, còn phải có sự từng trải cùng khổ
luyện mới có được nhiều thành tựu như thế!
Về “Đức”. Dẫu tôi tiếp xúc với bác chưa lâu, nhưng thấy gần gũi thân
quen lắm. Số tôi hợp với bác chăng? Nếu vậy thì số bác hợp với rất nhiều
người, bởi bác luôn được đánh giá là một người bạn, người thầy, người
anh tốt bụng, thông tuệ, riêng đức tính ấy đã đủ sức hút với người mới
quen như tôi rồi. Có một nghĩa cử của bác, chính là
cái đức trong con
người bác, đó là tấm lòng thiện nguyện. Hãy nghe lời tâm sự thật của nhà
văn, GS. Phong Lê, một người bạn lâu năm của nhà văn, GS. Phương Lựu:
“...một cái hơn khác rất đáng nể trọng-đó là Giải thưởng Hồ Chí Minh về
khoa học anh nhận năm 2011, với một khoản tiền lớn anh biếu tặng Quỹ
Chất độc da cam. Hẳn chẳng còn ai lạ gì tình cảnh chung của giới trí
thức chúng ta, số rất đông chẳng ai được gọi là giàu, mà chỉ mong đủ ăn,
nếu như con cái không là doanh nhân thành đạt. Tôi là thế, hình như anh
cũng thế. Nhưng có một khoản tiền thưởng lớn anh lại dành hết cho việc
thiện-đó mới là điều khiến tôi khâm phục, khẩu phục đến hai lần”(Phương
Lựu, sự nghiệp khoa học, tấm lòng giáo sư,NXB Đại học Sư phạm 2016). Tôi
còn nghĩ: ngay pho tượng bác do các học trò mừng thọ thầy, cũng nói lên
cái nhân đức của sư phụ lâu nay đã lan tỏa tới mọi đệ tử, thân hữu xung
quanh. Con người không coi trọng đồng tiền bằng đạo lý nhân nghĩa, đáng
được tạc tượng lắm chứ ngay cả khi đang sống!
Còn cái “Khéo” thì sao? Tôi nghĩ, người khéo đến đâu cũng trước hết phải
thực lòng. Bao kẻ giả vờ khéo, chỉ một thời gian ngắn là tòi cái “giả”
ngay. Khéo của GS. Phương Lựu đi cùng với sự chân tình, vui vẻ của bác.
Mấy học trò cưng(đều do bác hướng dẫn TS) đã kể lại câu chuyện định mời
thầy ra quán làm vại bia, thì thầy cười mà bảo: Các cậu không biết chứ,
tớ sướng nhất vẫn là cái thú về nhà, ngồi vào bàn tổ chức các...cuộc
họp. Tớ kéo từ cụ Marx, Engels, Lenin, Lỗ Tấn, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm
đến các cụ Hegel, Kant, Freud...về họp, nghe các cụ phát biểu. Mà các cụ
đã khiêm tốn lại rất vô tư nhá. Phát biểu xong là lặng lẽ về chỗ, không
đòi hỏi phong bao phong bì bao giờ... Đúng là bác từ chối khéo không ra
nhà hàng, cũng đúng là lâu nay bác lao động trí óc một cách say sưa
nghiêm túc, lấy sách vở là niềm vui và từ lâu bác đã là một học giả có
kiến thức đông tây kim cổ.
Gần đây ở tuổi ngoài bát thập bác có một tâm sự xa xa với bạn bè: Cũng
thú thật, còn một tẹo phần chìm của tảng băng nữa, để dành cho may mà
lên được đầu chín, còn có chuyện nói thêm. Nhưng nếu số trời đã định, âu
cũng là sắp xong một kiếp người, thì xin hãy tạm xem đây là những trang
phụ lục không đến nỗi đơn điệu của một cuộc đời bình dị, không được tròn
vạnh, nhưng cũng có dáng vẻ vuông vức riêng. Vậy cứ xin mến thương chào
trước tất cả. Hẹn gặp lại, nếu quả thực còn có một thế giới bên kia!
Đến hôm nay “đầu chín” đang hiện hữu với bác. Được quá đi chứ với một
trái tim yêu thương, một trái tim khỏe mạnh. Tôi chúc bác còn hơn thế
nữa, sống vui sống khỏe tới
tận bách tuế cơ, để đến đó rồi sẽ được như kiểu câu nói nhân vật của tôi
mà bác tâm đắc: Sống vô tư, ăn từ từ, đi đột ngột !
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 14-3-22 |