Tư Duy Tiểu Thuyết Và Phê Bình Tiểu Thuyết Ở Việt Nam Hiện Nay
(Trường hợp tiểu thuyết
“Mối chúa” và “Đất mồ
côi” của Tạ Duy Anh)
Quách Hạo Nhiên
--- Phần 2
“Đất Mồ Côi”
– Tham Vọng Lý Giải “Căn Tính Dân Tộc”
1. Một chân “bước qua”, một
chân không nhấc nổi
Trong số các cây bút phê bình chuyên và không chuyên bàn về
“Đất mồ côi” trên mạng xã hội
thời gian qua, tôi đặc biệt chú ý đến bài của Ngô Văn Giá và Trương Huy
San. (Bên cạnh đó là các bài của Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Thế Hùng, Lưu
Trọng Văn, Nguyễn Phan Quế Mai, Vũ Ngọc Tiến, Đỗ Ngọc Thống…). Nhìn
chung, các tác giả trên đều ca ngợi và khẳng định tài năng của Tạ Duy
Anh trong “Đất mồ côi” đã
vượt “Bước qua lời nguyền”.
Tuy vậy, xem ra đa phần các bài viết chỉ dừng lại ở cái nhìn của trực
cảm giản đơn, vội vàng nặng tính đãi bôi với mục đích “giới thiệu sách”
chỗ bạn bè và đồng nghiệp hơn là khơi gợi, “kích thích” bạn đọc bằng
những luận giải đáng tin cậy.
Dẫu vậy, khác với “Mối Chúa”,
theo tôi “Đất mồ côi” là một
tiểu thuyết đúng nghĩa, đậm chất tiểu thuyết phi hư cấu, rất hiện đại và
khá độc đáo. Trong cái nhìn này thì Ngô Văn Giá là người đã có những
phát hiện cùng cách lý giải thú vị về
“Đất mồ côi” nhất. Theo đó,
Ngô Văn Giá cho rằng “Đất mồ côi”
là “bản điều trần về bạo lực”
của Tạ Duy Anh nhằm qua đó lý giải cái
“căn tính dân tộc” qua một số
phương diện như: “căn tính ý hệ”
và “căn tính bản năng” bầy đàn và tâm lý đám đông trong đó “căn tính
ý hệ” là “căn nguyên gây ra bạo
lực”. Để làm được điều này, theo Ngô Văn Giá, Cổ Viên – Tạ Duy Anh
đã “rất ý thức” trong việc mô
tả và nhất là cố tình tô đậm cái ác, cái xấu trong
“Đất mồ côi” ở hai cấp độ:
“cái ác được thực thi
như một việc phải làm, và cái ác được thực thi như một niềm thích thú”.
Từ đây, Ngô Văn Giá đi đến khẳng định
“trong lịch sử văn học Việt Nam
từ xưa đến nay chưa có một nhà văn nào miêu tả gương mặt Cái Ác lại chân
thực và sắc sảo như nhà văn Cổ Viên-Tạ Duy Anh”.
Và trên hết, qua tất cả những vấn đề trên, cũng theo Ngô Văn Giá, Tạ Duy
Anh muốn hướng đến việc “giải huyền thoại” “đồng bào” của người Việt
(Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ). Cái nhìn này của Ngô Văn Giá
tương tự như đặt vấn đề trong một bài viết khác của Trương Huy San: “có
lẽ vì không muốn tương lai bị tiếp tục hãm hiếp”, Tạ Duy Anh đã cố
gắng để “lột trần truồng quá khứ”
qua đó cho thấy “tham vọng tự
vấn, truy vấn lịch sử của tác giả là rất lớn”…
Đồng cảm với cái nhìn của Ngô Văn Giá và Trương Huy San về “tham vọng”
cắt nghĩa, lý giải “căn tính dân tộc” của Tạ Duy Anh trong
“Đất mồ côi” nhưng ở đây tôi
muốn bàn thêm một vài khía cạnh và phương diện khác với một góc nhìn
khác.
Trước hết, theo tôi, có lẽ vì cái tham vọng muốn lý giải “căn tính dân
tộc” quá lớn nên Tạ Duy Anh trong nhiều trường hợp đã không tiết chế cảm
xúc nên ít nhiều làm cho “Đất mồ
côi” bị “rối” và luẩn quẩn cái vòng bạo lực của cái ác, cái xấu…
“Đất mồ côi” vì thế, theo tôi
vẫn chưa thể tạo ra đột phá để có thể
“giải
lời nguyền văn học, lời nguyền
tiểu thuyết” nước nhà nếu tính từ thời
“Nỗi buồn chiến tranh” đến
nay. Nói khác đi, với “Đất mồ
côi”, Tạ Duy Anh mới chỉ
“bước qua lời nguyền” được một chân, chân còn lại vẫn rụt rè, ngập
ngừng không nhấc nổi, vì thế cuối cùng vẫn không rút qua được.
2. Cái ác và tham vọng lý giải “căn tính dân tộc” trong
“Đất mồ côi” của Tạ Duy Anh
Ngô Văn Giá cho rằng “lịch sử văn
học Việt Nam từ xưa đến nay chưa một nhà văn nào miêu tả gương mặt cái
ác chân thực và sắc sảo” như Tạ Duy Anh trong
“Đất mồ côi”. Nhận định này
theo tôi cũng chưa thật sự bao quát cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nên nhớ,
trong văn chương nghệ thuật “chân thực” chưa chắc đã hay; “sắc sảo” chưa
hẳn đã thuyết phục. Những bậc “cao thủ” trong giới “võ lâm” thường ít
khi “phô diễn” mà có khi “ẩn mình” kiểu “ngọa hổ tàng long”, “chân nhân
bất lộ tướng”; hoặc khi lâm trận có khi sẽ lấy “hư chiêu” khắc “hữu
chiêu”. Văn chương cũng thế, không phải anh cứ tô cho thật đậm, thật chi
tiết thì mới bật ra “chân dung” của ai đó, trái lại, có khi chỉ cần vài
nét chấm phá là đã phác họa được cái thần vừa chân thực vừa ảo diệu,
không lẫn vào đâu.
Hãy thử nhớ lại gần đây, cái ác, cái xấu đã được các nhà văn nước nhà mô
tả như thế nào? Nguyễn Huy Thiệp có viết, có phơi bày cái ác, cái xấu
của người Việt không? “Chân dung” cái ác, cái xấu của người Việt hiện
lên ra sao? Riêng chỗ này, có thể nói theo tôi, Nguyễn Huy Thiệp là một
bậc thầy. Bởi gần như ông không cố tình tô đậm mà chỉ lướt qua bằng vài
tình huống, vài câu đối thoại, vài chi tiết, vài hình ảnh cũng đủ làm
cho tất cả chúng ta phải giật mình và ớn lạnh về cái ác, cái xấu của
người Việt (Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ, Cún….). Đọc
Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy cái ác hiện lên một cách sinh động và tràn lan
khắp mọi ngõ ngách xã hội Việt Nam lúc bấy giờ; nó tràn ngập và lộ hẳn
ra trên từng vẻ mặt người từ trí thức cho đến tầng lớp bần cùng vô
học…trong sự “vô tư” và “hồn nhiên”. Sở dĩ chúng ta nhìn thấy được điều
này là vì Nguyễn Huy Thiệp đang dùng “hư chiêu”: không cần dụng công mô
tả nhưng cái ác vẫn tràn ra ngoài trang sách rồi “găm” vào đầu bạn đọc;
vì một kẻ thủ ác mà không biết mình ác (thậm chí con rao giảng về sự
lương thiện) mới thật sự là đại ác - ấy là tài năng của Nguyễn Huy Thiệp
vậy.
Có thể nói, ý hướng và tham vọng truy nguyên cội nguồn quá khứ để lý
giải “căn tính dân tộc” là một cố gắng trong nhận thức và là điểm sáng
của Tạ Duy Anh trong “Đất mồ côi”.
Nói khác đi, đọc “Đất mô côi”
chúng ta thấy ở đó sự trăn trở khôn nguôi của tác giả về các vấn đề liên
quan đến văn hóa, đạo đức xã hội và con người Việt Nam từ khởi thủy đến
nay. Đây là tinh thần và thái độ phản tư, phản tỉnh đáng trân trọng của
người cầm bút có trách nhiệm. Nhưng có lẽ, do cái tham vọng muốn “cắt
nghĩa”, “lý giải’ cá “căn tính dân tộc” với mầm mống bạo lực quá lớn đã
làm cho nhà văn vô tình thành kẻ tham lam, ôm đồm và cứng nhắc, “căng
cứng” trong cách thể hiện?
Tạ Duy Anh hẵn đã đọc, đã nghiên cứu, đã biết sự tàn khốc của những màn
đấu tố thời cải cách ruộng đất từ lịch sử và các trang viết của đồng
nghiệp như Dương Hướng, Tô Hoài, hay gần đây là Phan Thúy Hà... Vì thế,
theo tôi, lẽ ra ông nên nói khác đi,
“phải khơi những nguồn chưa ai
khơi..” thay vì nói lại những gì người nhiều người trước đó đã nói.
Nhưng nếu buộc phải tô đậm thì nên tô đậm cái ác ở phương diện “bạo lực
tinh thần” vì nỗi đau về tinh thần mới thật sự là nỗi đau dai dẵng và
khó lành của con người.
Đáng tiếc là trong “Đất mồ côi”
Tạ Duy Anh lại chủ động và cố ý tô đậm những chi tiết cận cảnh bạo lực,
“tàn ác, vô nhân đạo, thú tính
bằng một thứ ngôn ngữ cực thực, rùng rợn, đẫm máu – một thứ “bạo ngôn”
trắng trợn, không che đậy, gây chấn thương tâm lý người đọc” (Ngô
Văn Giá).
Bên cạnh đó, nếu như chủ ý thật sự của tác giả muốn qua việc mô tả và
tái hiện thật chi tiết sự tàn bạo, rùng rợn và dã man của con người
trong thời cải cách ruộng đất để lý giải cho cái “căn tính” bạo lực của
dân tộc thì về tư duy lịch sử có khi lại rơi vào phiến diện. Bởi, những
vấn đề này gần như chỉ diễn ra trong giai đoạn ngắn và nhất là chỉ ở
miền Bắc những năm từ 1953 đến 1956. Quan trọng hơn, nếu tác giả cho
rằng nguồn cội, quá khứ của dân tộc bị có khi “bóp méo” hay “thất lạc”
cần phải truy nguyên và “lột truồng” nó ra với mong muốn để người Việt
hôm nay“không lúc nào thôi thao
thức về bản thân mình” có khi lại rơi vào một cái nhìn phiến diện và
một chiều khác – lấy trong quá khứ, xem quá khứ như một nguyên nhân duy
nhất nhằm lý giải, cắt nghĩa thực tại và tương lai.
Lịch sử văn hóa dân tộc luôn vận động và biến đổi theo thời gian. Căn
cước, nguồn cội của một cá nhân, một cộng đồng là điều không ai có thể
chối bỏ nhưng
“mục đích”, “động cơ” và thái độ
sống cá nhân và cộng đồng ấy trong hiện tại cũng vô cùng quan trọng.
Người Việt, dân tộc Việt cho đến hôm nay không phải không có ý thức và
tinh thần phản tỉnh. Vấn đề quan trọng là chúng ta đã phản tỉnh, đã nhận
ra, đã nhìn thấy tất cả nhưng vì những “động cơ”, “mục đích” sống khác
nhau (để được an toàn hay vì sự ích kỷ của bản thân) nên có rất ít người
dám thay đổi theo chiều hướng tích cực, trái lại còn cam tâm tình nguyện
vo tròn, tự an ủi, tự vỗ về bản thân trong cái vỏ bọc do chính mình và
người khác tạo ra.
Nhân vật “tôi” ở cuối truyện sau khi đã được các bác sĩ giải thích về
mối quan hệ giữa mình và đứa con nhưng anh ta có thoát ra được mối hoài
nghi về sự phản bội của vợ mình không? “Mục đích” và “động cơ” của anh
ta là gì sau khi khi đã truy tầm nguồn gốc của mình trong quá khứ và mối
quan hệ với vợ và con anh ta trong hiện tại? Đây theo tôi mới thật sự là
“vấn đề lớn” và quan trọng nhất
- vấn đề “động cơ” và “mục đích” của mỗi cá nhân người Việt trong xã hội
hôm nay - nhưng tiếc thay lại là vấn đề mà Tạ Duy Anh chưa/không đặt ra
trong “Đất mồ côi”.
Nguồn cội, quá khứ dẫu sao cũng là cái đã qua khó mà níu kéo, tương lai
là sự bất định chỉ có thể phỏng đoán chứ không ai biết chắc sẽ ra sao.
Vậy nên, “vì không muốn tương lai
tiếp tục bị hãm hiếp” mà “lột
truồng quá khứ” nhưng bỏ qua mục đích ở hiện tại nếu không phải là
một sai lầm cũng là điều phiến diện, không tưởng.
3.
“Đất mồ côi”
hay là sự ôm đồm và lạm dụng kỹ
thuật tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
Ngoài vấn đề trên, theo tôi, có ba vấn đề liên quan đến kỹ thuật tiểu
thuyết mà Tạ Duy Anh cũng quá ôm đồm và không tiết chế cảm xúc nên ít
nhiều làm giảm đi tính thuyết phục của
“Đất mô côi” như sau:
Thứ nhất, theo tôi, giá như
tác giả đổi ngược chi tiết nhân vật người mẹ bị hãm hiếp bởi “chú Tỉnh”
và “lão Đỗ” thì sẽ phù hợp với tâm lý nhân vật và nhất là sẽ kịch tính
hơn. Nghĩa là, trong tình cảnh ấy, “chú Tỉnh” sẽ là người “vô trước”
thay vì “lão Đỗ”. Bởi theo mạch truyện và tâm lý nhân vật thì “chú Tỉnh”
là người ở chung nhà, hiểu nỗi “khát thèm đàn ông” của chị dâu mình,
thường xuyên rình rập, nhìn trộm chị dâu mình vì nỗi bất hạnh khi cưới
phải người vợ “vô mao”…Trong tình cảnh ấy, cái động cơ chiếm đoạt của
“chú Tỉnh” chắc chắn phải cao và thường trực hơn so với “lão Đỗ”. Vì
thế, việc tác giả để cho “chú Tỉnh” đứng ngoài nhìn chị Dâu mình bị lão
Đỗ chiếm đoạt trước, rồi lấy đó làm cái cớ để hăm dọa, ép chị dâu mình
tiếp tục giao hoan thêm lần nữa là rất gượng gạo.
Khi xây dựng chi tiết này dụng ý chính của tác giả là cố tình tạo nên sự
hiểu lầm, “không biết đứa trẻ” sau khi ra đời là con của ai. Vậy nên, ở
đây nếu tác giả để cho hai gã đàn ông vì muốn chiếm đoạt người phụ nữ
lao vào hỗn chiến với nhau để giành quyền “vào trước” có khi còn kịch
tính và hấp dẫn hơn chăng?
Thứ
hai, liên quan đến chi tiết “nhân vật xưng tôi” khi còn là một linh
hồn chưa đầu thai. Đây là chi tiết có tính huyễn tưởng – một sự sáng tạo
thú vị của tác giả. Dẫu vậy và thật đáng tiếc là, tác giả đã phạm phải
sai lầm nghiêm trọng khi lựa chọn ngôi kể để khắc họa cái bi kịch thèm
khát đàn ông của người mẹ.
Nỗi khát thèm tình dục của người phụ nữ (lại là phụ nữ Việt nam thời
chiến) là nỗi thèm khát sâu kín và đầy tủi nhục (chuyện này thì Dương
Hướng đã nói quá hay trong Bến
Không chồng, hay gần đây là Nguyễn Quang Lập trong
Tình cát). Chưa hết, người
phụ nữ ấy sau này là mẹ của linh hồn hứa hẹn đầu thai làm đứa con, vậy
nên, việc tác giả đã chọn cách để cho nhân vật xưng tôi “nhìn” thấy và
xuyên thấu hết nỗi “thèm bố” của người đàn bà hứa hẹn sẽ là mẹ mình
không những rất “thô” mà còn quá lộ liễu. “Thô” là vì những trang mô tả
cận cảnh nỗi thèm khát tình dục của người mẹ mà sự chứng kiến và lời kể
lại là một “linh hồn” chuẩn bị đầu thai làm con. Còn lộ liễu là vì cái
sự “thô” kia vô tình làm phá sản, phản bội cái ý đồ nghệ thuật có tính
huyễn tưởng mà tác giả cố tình sáng tạo ra. Đến những trang viết liên
quan đến quyển nhật ký của người mẹ, dù tác giả có rào đón
“mẹ tôi viết ra như thể thú tội
với trời đất” thì đó vẫn là sự gượng gạo, hay chính xác hơn tác giả
đang “nhét chữ vào miệng” người phụ nữ đáng thương trong một xã hội đầy
định kiến và tàn nhẫn.
Sex là điều bình thường của con người, đưa sex vào trong văn chương Việt
Nam từ lâu cũng không còn là điều cấm kỵ Tuy vậy, đưa như thế, nào mô tả
như thế nào có lẽ vẫn là vấn đề khá khó khăn và là giới hạn chung của
các nhà văn Việt Nam lâu nay. Trong cái nhìn so sánh, riêng vấn đề này,
tôi đánh giá cao Bảo Ninh và Nguyễn Quang Lập hơn Tạ Duy Anh. Điều này
bạn đọc có thể kiểm chứng qua cách miêu tả sex của Nguyễn Quang Lập
trong “Tình cát”.
Cuối cùng,
đúng như Ngô Văn Giá nói, trong
“Đất mồ côi”, Tạ Duy Anh đã đầu tư rất nhiều vào nghệ thuật trần
thuật “với những sắp đặt, lắp
ghép các phần ngoại truyện, chính truyện, lời giữa sách, mấy lời viết
thêm cuối sách, chuyển giọng…”. Tôi cho rằng sự đầu tư này, trước
hết cho thấy sự nghiêm túc, công phu của tác giả nhưng có lẽ vì ôm đồm
quá mà ông đã làm “khổ” chính mình và bạn đọc. Đặc biệt, phần chính luận
- lời giữa sách - theo tôi, thật sự đã làm hỏng, đã phá đi cái “chất”
của tiểu thuyết phi hư cấu. Thật ra, ở đây nhà văn không cần phải cắt
nghĩa hay lý giải gì thêm nữa mà hãy cho cho bạn đọc tự khám phá.
4. “Đất mồ côi”: Sự căng
cứng, đơn điệu, một màu của tiểu thuyết Việt?
“Nhà văn lớn đồng thời là một nhà tư tưởng lớn”
– ai đó đã nói như thế. Tuy nhiên, “tư tưởng lớn” không phải và có lẽ
không bao giờ đồng nghĩa với việc dụng công “mô tả”, “tái hiện” thậm chí
phô trương cái hiện thực rộng lớn hoặc rùng rợn, gian ác, dã man của con
người trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa, xã hội của một cộng đồng,
dân tộc.
Không những vậy, “tư tưởng lớn” không nhất thiết lúc nào cũng phải trình
bày bằng một văn phong “nghiêm trang”, “nghiêm nghị” “nghiêm trọng” tạo
cảm giác “căng cứng”, căng thẳng, mệt mỏi… cho bạn đọc. Xéc - van - téc
đã cười đùa dân tộc Tây Ban Nha như thế nào trong “Đôn Ki hô tê”; Lỗ Tấn
đã “bốc phốt” người Trung Quốc ra sao trong
“A. Q chính truyện”?
Trong cái nhìn này, tôi thật sự lấy làm lạ và không hiểu sao văn chương
nước nhà từ sau Nguyễn Công Hoan với hàng loạt truyện ngắn hoạt kê, đặc
biệt là Vũ Trọng Phụng với Số đỏ
lại thiếu hẳn những tiếng cười trào lộng, hóm hỉnh, duyên dáng; rất ít
nhà văn Việt Nam hôm nay dám sử dụng tiếng cười, sự giễu nhại như một
thủ pháp nền để đời sống văn học nước nhà thêm phần sinh động, mềm mại,
tươi trẻ, bớt nghiêm trọng hơn (như Phan An trong gần đây trong“Trời
hôm ấy không có gì đặc biệt”)?
“Căng cứng”, “nghiêm trang”, “nghiêm nghị”, “nghiêm trọng”… như
“Đất mồ côi” cũng được thôi
(vì đó là quyền của tác giả) nhưng nhìn rộng ra, nếu chúng cứ một màu
như thế thì rất nhàm chán. Có lẽ nào, các nhà văn của cúng ta hôm nay
không thể phản tỉnh, “giải thiêng”, “giải huyền thoại”… bằng tiếng cười
trào lộng, bằng sự hài hước, hóm hỉnh, duyên dáng hay sao?
5. Thay lời kết
Là nhà văn tiếng tăm lại là biên tập viên - người gác đền tại nhà xuất
bản hẳn Tạ Duy Anh có điều kiện “trải nghiệm” và “kết nối” với đồng
nghiệp xa gần trước hết là thông qua các bản thảo. Có lẽ vì thế, mà tác
phẩm của ông vừa xuất hiện ngay lập tức được các bạn bè, đồng nghiệp
trong bối cảnh bùng nổ thông tin hôm nay, giới thiệu khá rầm rộ. Khoan
nói đến những lời giới thiệu ấy có xác đáng không, chỉ biết biết rằng
đây trước hết là một lợi thế của ông để sách có thể mau chóng đến với
tay bạn đọc trong bối cảnh văn hóa đọc nước nhà nhìn chung vẫn còn khá
tù đọng.
Dẫu vậy, với riêng tôi, cả “Mối
chúa” và “Đất mồ côi” đều
cho thấy sự miệt mài, cần mẫn và sự “khổ tâm” của tác giả trên con
đường sáng tạo nghệ thuật. Trên hết, có lẽ còn là tâm thế và thái độ của
một nhà văn muốn tạo ra một sự bước phá nhằm thoát khỏi lời nguyền có
tính định mệnh đã và đang níu kéo gây ra sự trì trệ cho cả dân tộc lâu
nay trên con đường đi tìm chính mình trong bối cảnh chung của thế giới
đương đại.
Riêng với,“Đất mồ côi”, xét
trong mặt bằng chung hiện nay, vẫn là tiểu thuyết có sức lôi cuốn và ám
ảnh cả về phương diện kỹ thuật lẫn “thông điệp” mà tác giả muốn gửi gắm.
Dĩ nhiên thông điệp ấy có thuyết phục bạn đọc hay không còn tùy thuộc
vào góc nhìn và quan điểm tiếp cận của mỗi cá nhân trong thưởng thức và
thẩm định.
CT, 06/03/2021
Q.H.N
|