13
Tháp tùng Bác Tôn Đức Thắng
sang đất trời Âu
Trong ký ức của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, không chi tiết nhiều khi gia
đình giai đoạn đầu tập kết ra sống trên đất miền Bắc, có thể bởi riêng
ông từng có ít nhất hai lần ở tại đây. Đó là lần đầu tiên năm 1931, Trần
Hữu Nghiệp ra Bắc học tại Trường Y khoa Đông Dương. Lần thứ hai năm
1946, ông cùng nhiều đồng chí của mình vượt biển từ Nam Bộ ra Hà Nội,
được gặp Bác Hồ và Trung ương Đảng. Nhưng với vợ con bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp, chắc chắn ai cũng cảm giác thật mới mẻ, sung sướng, tự do và
thanh bình. Thanh bình, tự do cả trên bầu trời đẹp như màu xanh cây lá,
không còn cảnh thường xuyên phải chạy địch càn di chuyển chỗ ở. Cũng
không còn nỗi sợ hãi máy bay, tàu chiến, phi pháo địch bắn đùng đoàng
ngày đêm, trong đó nhất là lũ trẻ Trần Kiều Dung, Trần Kiều Miên và Trần
Kiều Lan đều nhận ra điều ấy. Về thiên nhiên cũng dễ nhận biết, sự khác
biệt là khí hậu miền Bắc khác nhiều so với trong Nam là cái rét, tập
quán sinh hoạt văn hóa có đôi chút ban đầu ngỡ ngàng, vui vui và thú vị. Ở
miền Bắc sau khi ổn định chỗ ở cho gia đình xong, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp
được Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch (thời gian này ông thôi làm Bộ
trưởng. Năm 1958, Phạm Ngọc Thạch mới trở lại làm Bộ trưởng cho tới khi
mất tại chiến trường Nam Bộ năm 1968) bất ngờ mời lên giao nhiệm vụ làm
Trưởng ban huấn luyện Bộ Y tế, kiêm Ủy viên Ban biên tập Tạp chí Y học
thực hành. Thế nhưng, ít lâu sau lại thêm một bất ngờ nữa tham gia vào
đoàn “đội viên đội cải cách ruộng đất”. Một người như bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp chỉ biết chuyên môn, chưa bao giờ tham gia vào chính trị, mà
chính trị nó giống như trò chơi “xa xỉ” lại được chỉ định làm Cán bộ cải
cách ruộng đất? Nhưng sau mới biết, đấy là công việc “cực chẳng đã” mà
thôi. Số là từ năm 1954, Chính phủ thực hiện chính sách cải cách ruộng
đất, mục tiêu tịch thu ruộng đất của người giàu chia cho dân
nghèo với khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Chính sách lớn, trong
lúc lực lượng cán bộ có đủ tri thức, tài năng thuyết phục lại thiếu trầm
trọng, nên người như bác sĩ Trần Hữu Nghiệp tham gia cũng là một trải
nghiệm tốt. Sinh
ra lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long vừa tập kết ra Bắc, đụng ngay cái
rét như cắt da cắt thịt, phải dũng cảm lắm bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mới đủ
can đảm tung chiếc chăn, chui ra từ trong ổ rơm khi nghe tiếng gà gáy
trời đã sáng. Lấy tay dụi dụi đôi mắt còn đang ngái ngủ, nhìn trời hừng
đông vội vàng không dám rửa mặt sợ nước lạnh buốt thấu xương, rồi ngồi
vào mâm cơm gạo thô khô khốc. Có bữa không đủ gạo phải độn thêm khoai,
thêm mì, bụng đói nhưng phải cố nuốt nếu không muốn gục ngã trên đồng,
hay bị nhồi cho cái bệnh đồ “tiểu tư sản”. Cơm ăn với rau muống luộc, lá
khoai lang, rau bí già vẫn còn hên. Ăn cơm xong uống vội bát nước lá
vối, loại lá cây này thanh nhiệt rất tốt, rồi vội vã theo bà con nông
dân ra đồng làm tới xế chiều mới về nhà. Công việc của bác sĩ của Trần
Hữu Nghiệp, nói theo cách lãnh đạo là đi “thực tế” là để “xâu chuỗi luồn
kim, bắt rễ” nghe nông dân kể khổ, rồi phát động tư tưởng cho họ tìm ra
một “tên địa chủ”, hay giả định nào đó đưa ra đấu tố. Đi làm cải cách
yêu cầu cán bộ cũng phải có lập trường, nhiệm vụ này tưởng dễ, nhưng té
ra không dễ, nên sống phải hòa đồng vào quần chúng, với nông dân gây cảm
tình may ra mới chộp được “bài tủ”. Nhưng một trí thức như bác sĩ Trần
Hữu Nghiệp, kiểu “cộng kham cộng khổ” đó còn khó khăn hơn leo núi, rồi
liều mạng nghĩ ra một chiêu “xé rào” chịu vi phạm nội qui của đội. Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp nhớ lại, “tôi lận lưng theo một gói đường tán, mỗi
khi đi làm đồng với nông dân, để đối phó với bệnh học - cơn hạ đường
huyết thường xảy ra vào lúc ban trưa, mà có một nhà thơ cổ gọi là - lửa
đốt ruột, dao hàn cắt da”. Tất nhiên vì lý do chính trị mà bác sĩ Trần
Hữu Nghiệp phải tìm cách nuốt vụng, khi giả bộ đi tiêu hay ngồi nghỉ xả
hơi trong bụi cây làm bộ ghi ký chú. Thật may, chuyện bắt đầu thay đổi.
Khi số đường tán để dưới đáy ba lô gần cạn, lúc còn đang hoang mang thì
bất ngờ có “sứ giả” từ trên Hà Nội xuống, mang theo công văn gởi đội cải
cách xin Trần Hữu Nghiệp về, nội dung do công tác đột xuất của Bộ Y tế. Về
Hà Nội sáng sớm vừa ngủ dậy, nghe tiếng gõ cửa “cọc, cọc...” cũng thấy
lạ, vì nhà lâu nay ít khi thấy ai đến gọi sớm như thế. Trần Hữu Nghiệp
vội vã bước ra mở cửa, thật bất ngờ đứng trước cửa là Phạm Ngọc Thạch.
Bạn bè quen biết, không kiểu cách, rồi nói:
-
Ủa anh Tư.
Phạm
Ngọc Thạch cười rổn rảng, khen:
-
Trông mày săn
chắc hơn rồi đó. Biết
Phạm Ngọc Thạch đùa, nên Trần Hữu Nghiệp đáp lại:
-
Nhờ anh cả đó.
-
Đi cho biết,
Chính phủ đang cần tao mới để mày đi làm nông dân tí chút, không lẽ cứ
làm tên trí thức tư sản mãi à? Thôi đùa vui tí, mặc đồ vào đi ăn sáng
với tao, rồi ta nói chuyện tiếp. Bữa
sáng đó, Phạm Ngọc Thạch lái xe đưa bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vào ăn phở ở
phố Quán Sứ, chọn một cái bàn đặt sâu bên trong ít người qua lại, tranh
thủ thời gian vừa ăn, vừa nói chuyện. Tư Thạch nói:
-
Lát nữa mày đến
văn phòng Bộ, tao dặn anh em đưa giấy giới thiệu đi may đo quần áo, đóng
giày mới nghen.
Trần
Hữu Nghiệp, tay đang cầm chiếc muỗng đầy nước phở suýt làm rơi xuống
bàn, vì tin bất ngờ quá, rồi hỏi Tư Thạch:
-
Tôi phải đi đâu
à? Thứ
trưởng Phạm Ngọc Thạch bỏ đôi đũa xuống, rồi nhoài người qua phía Trần
Hữu Nghiệp mỉm cười, nói nhỏ:
-
Tao sẽ gặp mày
ở Văn phòng Bộ, nhưng nói gọn thế này để mày chuẩn bị trước. Chủ tịch
Quốc Hội Tôn Đức Thắng, được Trung ương cử đi sang chúc thọ Chủ tịch Vim
Hem Pick tròn 80 tuổi, xong Cụ về Liên - Xô lãnh giải thưởng hòa bình
Quốc tế Lênin tại Moskva. Đúng
là một tin hấp dẫn, giây phút đó bác sĩ Trần Hữu Nghiệp muốn reo lên. Đã
16 năm, Trần Hữu Nghiệp chưa trở lại Châu Âu kể từ khi tốt nghiệp đốc tờ
tại Paris nước Pháp, rồi về nước hành nghề và lần này có cơ hội để xem
Châu Âu sau chiến tranh thế chiến II có gì thay đổi. Vui thật, sướng
thật, nhưng vẫn phải nói với Phạm Ngọc Thạch:
-
Anh Tư, nhưng
tôi chưa phải Đảng viên? Cũng chẳng phải bác sĩ riêng được phân công
theo dõi sức khỏe Bác Tôn. Làm vậy, các anh chị em khác họ có thắc mắc
không anh Tư? Thật
ra Trần Hữu Nghiệp nói cũng phải, lại có lý nữa, nhưng không ngờ bị Phạm
Ngọc Thạch trợn mắt nhìn đầy tức giận, rồi nói:
-
Đừng có giở trò
chín hấu mại hơi! Quen nhau lâu trước ngày đi kháng chiến, tao biết rõ
tẩy của tụi mày. Nếu để tao quyết định thì mày còn đi cải cách mút mùa,
mới rủ sạch được cái nợ cuộc sống quá sung sướng trước cách mạng tháng
tám. Nhưng tao phải thi hành lệnh của Cụ Hồ, theo đề nghị cụ thể của Bác
Tôn. Bác sĩ theo dõi sức khỏe của hai cụ chính là tao! Nói cho mày biết,
Bác Tôn chẳng có bệnh tật gì cả, còn rất khỏe. Cử mày đi theo Bác, tức
là cử mày đi du hí ăn hút. Nhiệm vụ Bộ giao chỉ có hai việc: Tránh nhiễm
lạnh và can Cụ nhậu ít ít thôi. Rõ chưa cha nội. Trời
đất, Tư Thạch mày tao nói hết ruột gan của mình với Chín Nghiệp. Tuy
lệnh đi là của Cụ Hồ và Bác Tôn, nhưng vai trò của của Thứ trưởng Bộ Y
tế bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đâu có nhỏ. Nói xong liếc nhìn đồng hồ, Phạm
Ngọc Thạch đứng bật dậy rồi trước khi đi sang Bệnh viện A làm việc, còn
nói thêm một câu giọng như ra lệnh :
-
Rõ chưa cha
nội?
-
Thưa anh, tôi
rõ! Thế
nhưng đáp lời Phạm Ngọc Thạch xong, rồi bỗng nhớ lại chuyện cũ ngày ở Mỹ
Tho cách đây mười năm, khi Trần Hữu Nghiệp còn mở phòng mạch tư. Cuối
tháng 8 năm 1945, khi Sài Gòn quân Pháp đã tràn ngập và cuộc kháng chiến
chống Pháp quyết liệt rồi, nhưng tỉnh Mỹ Tho quân Pháp vẫn chưa tới,
cuộc sống bên bờ sông Tiền vẫn thanh Bình, tin ta thắng trận sôi nổi
địch thua chạy tan tác. Phía Nam Sài Gòn có “đệ tam sư đoàn” oai hùng
của Nguyễn Hòa Hiệp trấn giữ, chưa kể một sư đoàn có tin đồn ta dàn sẵn
ở Bến Lức – Gò Đen, làm cho giặc Pháp không dám kéo xuống. Nào ai ngờ,
về sau bọn giặc Pháp đánh úp theo đường sông Tiền lên hôm đó Trần Hữu
Nghiệp chạy bán chết, may là nhà làm nghề thầy thuốc nên chúng chưa làm
gì. Rồi một bữa sáng, bỗng thấy anh Ba Tiếp (Nguyễn Văn Tiếp) Chủ tịch
tỉnh Mỹ Tho, vội vã đến gặp bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nói: “có anh Hai
Thắng (Tôn Đức Thắng) là bạn thân của tôi về đây, nhà anh rộng cho tôi
gởi ở đậu ít bữa và xem luôn anh Hai Thắng có bệnh gì không chữa luôn
giùm?”, Ba Tiếp nói xong rồi đi. Đón Hai Thắng vào nhà, bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp dành cho Bác Tôn một buồng riêng. Những ngày ở nhà Trần Hữu
Nghiệp công việc của Bác Tôn rất bận rộn, sáng dậy sớm sau ăn điểm tâm
là đi đâu đó, chiều tối mới về ăn cơm rồi đi ngủ. Theo lời dặn của Ba
Tiếp, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng khám sức khỏe cho Bác Tôn, nhưng không
thấy có vấn đề gì nghiêm trọng, chỉ tranh thủ thời gian ở nhà mình chích
cho Bác Tôn mấy ống Campolon thuốc bổ, loại thuốc thời ấy rất hiếm. Tuy
vậy, cũng có khoảng thời gian để Bác Tôn và Trần Hữu Nghiệp ngồi lai rai
vài chai la – ve với khô mực, hay nem chua trước khi cầm đũa vào bữa cơm
chính. Bác Tôn ở nhờ tại nhà bác sĩ Trần Hữu Nghiệp độ một tuần, một bữa
có người đến đón Bác Tôn đi luôn cho tới ngày hôm nay.
Chuyện đã qua hơn 10 năm, Bác Tôn hoạt động ở Nam Bộ một thời gian sau
đó ra miền Bắc làm việc bên cạnh Bác Hồ, rồi giữ tới chức Chủ tịch Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Công lao của Bác Tôn được nhà nước,
Quốc tế công nhận và trao giải thưởng vì Hòa bình. Tính
ra thời gian bác sĩ Trần Hữu Nghiệp từ Nam Bộ ra lại miền Bắc chưa được
một năm, không ngờ Bác Tôn vẫn nhớ nên đề nghị cho đi “rong chơi” cùng
một chuyến, sao nói không phấn khích và vui mừng chớ? Có thể nói, với
bác sĩ Trần Hữu Nghiệp là tin ngoài mong đợi.
* Thời
ấy đi Tây chủ yếu theo đường xe lửa tới Bắc Kinh trước. Chuyến đi của
Bác Tôn, dù là một chính khách lớn cũng không ngoại lệ. Công tác tổ chức
đều có lịch trình rất sớm, vé tàu cho Bác Tôn được bố trí trong một ca
bin mà đáng lẽ dành cho bốn người nằm hai tầng. Đoàn đi tháp tùng phục
vụ có hai phiên dịch, một anh chàng nói tiếng Đức là lính lê dương đào
binh sang hàng đội ngũ ta từ năm 1946, hiện có vợ Việt Nam. Một phiên
dịch khác nói tiếng Nga. Một thư ký riêng của Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức
Thắng, và người theo dõi sức khỏe là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Thật bất
ngờ khi tàu xuất phát từ ga Hà Nội, Bác Tôn gọi bác sĩ Trần Hữu Nghiệp
sang ca bin dành riêng cho Bác, rồi bảo: “nằm chung cho vui”. Là người
Nam Bộ cả hai hợp gu, dễ trò chuyện để quên đi đoạn đường dài. Đúng vậy,
cả hai vui buồn nhắc lại trong giai đoạn hồi kháng chiến chống Pháp ở
Nam Bộ, có khi quay sang nói chuyện tiếu lâm, Tam quốc Đông Chu và cả
tiểu thuyết Hồ Bửu Chánh theo trí nhớ của từng người. Sang
tới Bắc Kinh vào buổi sáng ngày thứ hai, và ở lại đây mấy ngày vì Bác
Tôn là khách của thị trưởng Bành Chân, kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội Trung
Quốc. Ở đây chủ nhà bố trí cho đoàn tại khách sạn Quốc tế gần Thiên An
Môn, và dành riêng cho Bác Tôn tới ba buồng lớn, gồm cả phòng khách và
phòng làm việc. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nói vui, mình là kẻ “ăn theo” sát
nhất. Với tư cách là bác sĩ riêng, nên ra vào phòng Bác Tôn thoải mái và
được xếp riêng một buồng cũng có kẹo, nho, thuốc hút, trà Thiết Quan Âm,
khoái gì xài nấy. Cảnh mới tiện nghi sang trọng mà chợt nhớ chuyện xưa
bên Tàu thời Tam Quốc, khi Quan Công phò nhị tẩu sang Hứa Đô, Tào Tháo
muốn mua chuộc nên xử sự cực kỳ lịch sự. “Năm ngày bày yến, ba bữa đải
tiểu diên”, liên hệ Trần Hữu Nghiệp nói “Tôi phò Bác Tôn còn sướng hơn
Vân Trường nhiều”. Để chứng minh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cho biết, ngoài
yến tiệc linh đình, thời xưa “ông” phải cỡi ngựa Xích Thố đi trong phố,
còn mình ngồi xe hơi Mercedès êm như ru, xem kinh kịch, Việt kịch và
nghệ sĩ kinh kịch Mai Lan Phương biểu diễn. Chưa hết, cũng có lần chủ
mời đoàn đi dự tiệc trưa trên Vạn Lý Trường Thành mà thời Quan Công cũng
đã có, nhưng “Ông” chưa hề được đến xem bao giờ. Làm
khách của Bành Chân được một tuần, đoàn lên đường đi Liên – Xô vẫn bằng
tàu lửa, nhưng phải đổi tàu chạy trên đường ray hẹp từ mét hai sang
đường ray một mét tư. Trần Hữu Nghiệp không thể quên một chi tiết nhỏ
nào, niềm vui sướng tràn ngập của mọi người khi tàu vượt qua thị trấn
Mãn Châu Lý của Trung Quốc, trước mắt nhìn thấy một chiếc băng rôn lớn
viết bằng chữ Nga: “Liên bang
Cộng hòa Xô Viết kính chào và chúc sức khỏe các bạn”. Hồi hộp, sung
sướng quá vì lần đầu bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đi trên đất nước của Lênin.
Trần Hữu Nghiệp nói vậy! Một tuần dài ngồi trên tàu lòng đầy háo hức,
hết ăn lại nằm, nhìn ra bên ngoài cửa sổ tuyết phủ trùng trùng, rừng bạt
ngàn điệp điệp cây Bạch Dương cao vút, nhưng trụi lá bởi mùa đông tuyết
phủ. Đường thì dài và hàng trăm
cây số mới có một nhà ga nên hành khách đi tàu rất ngại xuống.
Ngoài trời giá lạnh nhiệt độ tới hai mươi độ âm, ai muốn đi phải chuẩn
bị áo rét, mũ trùm đầu, còn trong tàu nhiệt độ vẫn duy trì độ ấm ở hai
mươi độ dương. Sự thay đổi nhiệt độ quá lớn trong một thời gian ngắn,
rất có thể bị sốc nhiệt gây nguy hiểm cho tính mạng. Sang ngày thứ tư,
khi tàu gần đến Moskva Bác Tôn gọi bác sĩ Trần Hữu Nghiệp sang buồng
riêng của mình, rồi đưa vắn tắt vài ý kiến, xong Bác nói:
-
Chú dựa vào ý
kiến đó, rồi viết sẵn vài bài đáp từ bằng tiếng Pháp. Mình phòng trước
nhỡ có ai đón và đọc lời chào mừng. Nếu họ cần mình đưa văn bản để khỏi
bị động nghen. Qua
cách suy nghĩ đó, Trần Hữu Nghiệp hiểu thêm Bác Tôn là con người rất kỹ,
thận trọng, tinh tế và sắc sảo trong ngoại giao của một con người có tầm
vóc lớn. Cũng qua chỉ thị trên, mà Trần Hữu Nghiệp còn hiểu thêm kiến
thức tiếng Pháp của Bác Tôn rất vững, sau 17 năm nằm tù ngoài Côn Đảo.
Bác Tôn đã “sửa lưng” Trần Hữu Nghiệp một tú tài Tây từng viết luận án Y
khoa tiếng Pháp, ở nhiều đoạn dùng chữ không chính xác. Ví dụ, khi Trần
Hữu Nghiệp viết câu “nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình” ra thành
“aimant la paix”, Bác gạch bỏ chữ “aimant la” và thay vào “espris de
paix”… . Thấy Trần Hữu Nghiệp có lúc mặt đỏ bừng vì “ngượng”, Bác Tôn an
ủi: “Tại anh ít đọc báo chánh trị đó thôi. Ngôn ngữ chánh trị khác hơn
nói chuyện”. Tàu
đến Thủ đô Moskva 10 giờ tối chủ nhật, trong chuyến này Bác Tôn đi chỉ
là khách mượn đường để qua Béclin, vì vậy cũng không có cuộc đón tiếp
công khai rùm beng báo chí nào cả. Trung ương Đảng Cộng sản Liên – Xô
biết, nhưng chỉ xem Bác Tôn như là người trong gia đình đi xa về. Bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp nói thế. Nhưng thật ra khi đoàn xuống tàu, vẫn có hai Ủy
viên Trung ương ra đón tại sân ga, qua đó vẫn cảm nhận rất rõ tình cảm
giản dị mà đậm đà anh em đồng chí. Không có diễn văn, không có thiếu nữ
tặng hoa nào cả, mà sau khi ôm hôn Bác Tôn thắm thiết, một đồng chí nói
qua phiên dịch: “biết hôm nay đồng chí đến và ở Việt Nam ai cũng thích
ăn cá hơn thịt, nên suốt ngày tôi đục băng ngồi câu cá giữa sông, tóm
được mấy con béo mập. Tôi đã giao cá cho bà quản gia, đồng chí muốn ăn
cách nào bảo cho đầu bếp nấu”. Còn bất ngờ thêm, sáng hôm sau khi Trần
Hữu Nghiệp đang ngồi uống trà cùng với Bác Tôn, nghe có tiếng gõ cửa
cồng cộc thấy một anh chàng thợ hớt tóc, tay xách một cái hộp đựng dao
kéo tông đơ, phía sau là một người thợ may, họ đề nghị cho kiểm điểm lại
áo quần xem đủ và bảo đảm cho độ ấm, chống chịu nổi cái rét ở Matxcơva
hay chưa. Cuối cùng là hai nữ bác sĩ còn khá trẻ, xinh đẹp như tiên bước
vào, thấy vậy Trần Hữu Nghiệp giới thiệu mình là bác sĩ riêng của Bác
Tôn, nhưng hình như hai nàng vẫn tỉnh bơ như chưa nghe thấy. Rồi lần
lượt các công việc của một thầy thuốc rất bài bản, đo huyết áp, tiếp
theo nghe tim phổi, điện tâm đồ, lấy phân và nước tiểu, xong xuôi trước
lúc đi ra về làm xét nghiệm, rồi nở nụ cười tươi rói. Kỳ thiệt, đang ở
Moskva mà ký ức bổng tràn về xa xăm, hồi còn sống trong vùng kháng chiến
Nam Bộ chín năm. Phải lo tự sống để công tác tốt, với hai giạ lúa và một
cân muối hằng tháng như mọi anh em mình thời đó, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp
thông thạo thêm nhiều nghề chưa hề có ai dạy như ở trường Đại học, nào
phải chỉ riêng kỹ thuật mà còn có nấu ăn, nuôi heo, chèo xuồng, xay lúa,
giã gạo, bửa củi, cắm câu, đặt ống trúm, dặm cù, bắt ba khía. Đoàn đi
cùng Bác Tôn được tổ chức Đảng Cộng sản Liên – Xô giữ lại đón lễ Nô En
năm đó, do sinh nhật của Chủ tịch Vinhem Pick mãi đến ngày 3-1-1956.
Trong những ngày này thật ấm cúng tình bạn của những người Xô-Viết, dù
không nghi lễ nhưng lúc nào bạn cũng sắp xếp hẳn một chương trình đưa đi
xem, ngắm cảnh thành phố những nơi nổi tiếng ở thủ đô Moskva. Đầu tiên
là viếng lăng Lênin bên cạnh là Stalin. Thăm cung điện nơi làm việc của
Lênin, và nơi sống những ngày cuối cùng ở ngoại ô phía Nam thành phố.
Hôm ấy Trần Hữu Nghiệp nhìn thấy Bác Tôn đứng lặng lẽ rất lâu trước
giường nằm của Lênin, trên tường treo một tấm lịch ghi ngày 21 tháng 1
năm 1924, tuyển tập Jack London mà phu nhân đang đọc cho người nghe
trang viết về Tình yêu cuộc sống. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp liên tưởng tới
Bác Tôn, hình như cũng đang nghĩ về Bác gái ở Việt Nam đã chung thủy với
mình như thế. Moskva rất lạnh, nhưng cảm giác tình bạn rất thân tình ấm
áp. Sau
ngày Nôen tuyệt vời, ngày 27 đoàn tùy tùng đi cùng Bác Tôn mới lên xe
lửa đi Thủ đô Béclin. Từ đây tàu lại đổi đường ray hẹp hơn tại Brest, để
đi vào nước Ba Lan. Mùa đông Ba Lan chẳng khác gì ở Moskva, nhưng khi
tàu ngang qua thủ đô Vacsava có rất đông người đứng chờ sẵn đón Bác Tôn,
trong đó có Đoàn Chủ tịch Quốc hội và nhiều Ủy viên Đảng Cộng sản Ba
Lan. Hầu hết người ra đón Bác Tôn đều nói thạo tiếng Pháp, hôm đó bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp có dịp trổ tài tiếng Pháp mà không cần phiên dịch, vì
Bác Tôn cũng giỏi tiếng Pháp. Thật ấm áp và cảm động, một tiệc rượu “tẩy
trần” đã được bạn sắp đặt sẵn tại phòng khách nhà ga hoành tráng. Rượu
ngon như xua tan cái lạnh âm hai mươi độ, tiếng chào mời thắm thiết lẫn
trong tiếng lanh canh chạm ly vào nhau như khó rời xa vì tình bạn. Đoàn
tàu rời Vacsava chậm so với dự kiến nửa giờ, sau những hồi còi hối thúc
nhưng cũng không dám lăn bánh. Ngồi trên tàu, Trần Hữu Nghiệp sực nhớ
mấy bài diễn văn đáp từ mà Bác Tôn dặn mình soạn sẵn, nhưng hóa ra “ế
rề” vì sẽ rất kỳ cục nếu những cuộc tiếp đón đó, chẳng có một lễ nghi
mang tính ngoại giao nào cả. Thay vào đó là những cuộc gặp đầy ắp tình
cảm như gia đình, hay bạn bè thân thiết lâu ngày mới gặp. Nhưng khi bắt
đầu qua sông Oder vào lãnh thổ nước Cộng hòa dân chủ Đức, Bác Tôn trở
thành quốc khách. Ngay từ ga đầu tiên ở biên giới Ba Lan và Đức, Bác Tôn
được đại diện Đảng, Mặt trận dân tộc Đức ra đón rồi cùng ngồi chung xe
về Béclin. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vẫn nhớ như in, cảnh đón tiếp Bác Tôn
và đoàn Việt Nam ngày ấy. “Bạn tổ chức cho Đoàn đón giao thừa tại nhà
khách Chính phủ Đức, sau khi dự một buổi ca vũ nhạc chào mừng năm mới
1956, và đội thiếu nhi tặng hoa chúc mừng Bác Tôn”. Dự tiệc, Trần Hữu
Nghiệp nhận ra người Đức khác với người Nga họ thích ăn thịt hơn ăn cá,
nhưng tục lệ ở Đức ngày mồng một ăn toàn cá chép luộc, có gì đó giông
giống Việt Nam ngày tiễn ông táo về trời thường cúng cá chép. Ngoài món
cá chép, còn có món cá chiên và súp rùa Nam Mỹ. Các món kể trên cũng hợp
khẩu vị của người Việt, nên bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng thất nghiệp luôn
vì không ai mời mình nấu, hơn nữa về tư cách đoàn Bác Tôn là khách mời
của Chính phủ bạn chẳng ai cho làm việc đó. Về chỗ ở tại Béclin cũng
khỏi bàn, những thứ gì ở Moskva có ở đây cũng có, nhưng ở đây bạn còn
nhớ đến đồ cắt móng tay và thêm một bộ dây giày để thay. Hai hôm sau,
buổi lễ chúc thọ Chủ tịch Vinhem Pick diễn ra tại Đại hội trường, gần
cổng lớn nơi phân chia Đông và Tây Béclin, một dịp để cho phe xã hội chủ
nghĩa biểu lộ sự đoàn kết xung quanh nước Đức mới. Trong buổi lễ các
đoàn đại biểu được mời phát biểu, nhưng chỉ có Thống chế Vôrôsilốp thay
mặt Chính phủ Liên Xô, và Chu Đức thay mặt Chính phủ Trung Quốc phát
biểu dài hơn, còn các nước khác thời gian qui định không quá mười phút.
Buổi lễ diễn ra theo kế hoạch, không quá ba tiếng đồng hồ. Nhìn xuống
hội trường hàng ngàn người dự, các đoàn đại biểu là khách mời được ngồi
trên khán đài đối diện với các tổ chức quần chúng và cơ quan chủ nhà
Đức. Đến lượt Bác Tôn lên phát biểu, lúc đầu Trần Hữu Nghiệp cảm thấy
run run. Run vì niềm tự hào là chính. Run còn thấy sung sướng và tự tin
vào Bác Tôn. Đúng vậy, Bác Tôn bước tới micoro rồi chậm rãi đọc bài phát
biểu của mình bằng tiếng Việt. Bài viết rất ngắn gọn, xúc tích. Các đại
biểu ngồi đó ai cũng đeo tai nghe, thông qua phiên dịch ngồi sau hậu
trường. Bây giờ bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mới nhớ lời Bác Tôn dặn mình
trước đó: “Khi anh nói cho người ta dịch, phải chậm rãi hết sức và gọn
ý”. Bác còn nói: “tiếng Việt là đơn âm, còn tiếng Âu là đa âm. Để nói ra
chỉ một chữ, bạn dịch thành ami (hai âm)”. Tầm nghĩ của Cụ đúng là đáng
nể và học tập. Cho đến nay, nhiều cán bộ ta vẫn thường hay vấp phải mỗi
khi đi ra nước ngoài, thường tỏ vẻ “hùng biện” phát biểu như hát hay,
rốt cục thiệt cho mình, vì người ta không hiểu. Bài học đó tuy nhỏ,
nhưng lần đó bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn nhớ mãi. Sang
phần tặng quà của các đoàn đại biểu, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thấy nhiều
“chất đống” trước lễ đài. Bác Tôn thay mặt cho nhân dân, Chính phủ Việt
Nam tặng một bức tranh sơn mài to, ngoài ra còn tặng phẩm của Cụ Hồ là
tấm ảnh Bác sơn mài nhỏ. Chủ tịch Vinhem Pick tràn ngập hạnh phúc, khi
các trưởng đoàn đại biểu đến bắt tay và ôm hôn thắm thiết. Một ký ức
khác rất khó quên trong đời bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, buổi tối đó nước chủ
nhà tổ chức tiệc chiêu đãi lớn tại Phủ chủ tịch. Thành phần thu hẹp của
đoàn Việt Nam chỉ có Bác Tôn danh nghĩa là Chủ tịch Quốc hội và Trần Hữu
Nghiệp vinh dự đi với tư cách không phải là bác sĩ tùy tùng, mà ở vai Ủy
viên Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, được bầu tháng 9 năm 1955 tại
Hà Nội. Qủa là rất oách, bước vào khán phòng lộng lẫy ánh đèn tựa như
cung điện, Trần Hữu Nghiệp lần đầu tiên trên ngực áo long lanh huy hiệu
kháng chiến Nam Bộ được thưởng năm 1951, và huân chương kháng chiến hồi
nhận ở Cà Mau ngày 2 tháng 9 năm 1954, từ tay Chủ tịch Phạm Văn Bạch.
Tất cả các thứ đó, lúc ra đi từ Hà Nội nhờ Bác Tôn nhắc nhở ai có phải
mang theo, bây giờ phát huy tác dụng thật hoành tráng. Màn dạ tiệc bắt
đầu bằng bài khai mạc của Chủ tịch nước Đức. Sau mấy chục năm, bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp vẫn nhớ những nội dung chính, không chút màu mè, không
lê thê, rất gắn gọn: “Cảm ơn tất cả các đồng chí đã mang đến cho nhân
dân Đức, Đảng và cá nhân tôi niềm vinh dự vui mừng hôm nay. Thức ăn,
rượu và nước giải khát đều dọn sẵn trên bàn. Chúng ta sống trong chế độ
Cộng sản chủ nghĩa: Ai thích gì thì cứ dùng, lúc nào cũng được. Xin mở
đầu cuộc khiêu vũ với cô gái trẻ nhất, Ủy viên Trung ương Đoàn thanh
niên”. Rồi một thiếu nữ ăn mặc vừa đẹp vừa sang bước ra, miệng tươi cười
như hoa chạy như cháu gái đến bên ông, trong tiếng nhạc khởi đầu du
dương ấm áp tràn ngập hứng khởi. Trời Âu bây giờ mới tỏa sáng, tính cách
Âu bây giờ mới đến. Trần Hữu Nghiệp bắt đầu thấy ngợp trong không khí
cảnh dạ hội trước mắt, mà nghĩ tới đất nước mình vừa thoát ra cuộc kháng
chiến chín năm chống Pháp, tiếng súng nổ, tiếng máy bay quần lượn trên
đầu, tiếng la thét sợ hãi của trẻ em, có thời gian đâu để nhẩy nhót, để
mặc những bộ đồ đẹp uyển chuyển tiếng nhạc êm ru thánh thót? Rồi cảm
thấy lạc lỏng giữa khung trời thần tiên trước mặt, và khi lúc còn đang
bối rối thấy Bác Tôn bước lại gần, rỉ tai nói nhỏ:
-
Tôi không biết
nhảy đầm, anh cố gắng ra quay tít ít vòng với bạn, cho có mặt Việt Nam.
Nhận
ra trong câu nói rất hóm và vui của Bác Tôn, Trần Hữu Nghiệp thấy lòng
chân thành và yêu mến, rồi bước ra vừa lúc một người phụ nữ người Đức
tuổi trung niên nhưng còn khá gọn, phảng phất mùi nước hoa hơi đậm, lại
rành tiếng Pháp đến mời. Tiếng nhạc dịu êm như dòng sông ban mai, cho
thêm cảm hứng bầu bạn tấm lòng cởi mở, rồi bà nói:
-
Tôi rất cảm
phục các bạn Việt Nam, một đất nước nhỏ bé nhưng kiên cường. Trần
Hữu Nghiệp đáp:
-
Cảm ơn bà dành
cho dân tộc chúng tôi tình cảm đó. Bà
lại nói thêm:
-
Việt Nam Hồ Chí
Minh.
Những
lời nói ngọt ngào ấm áp, Trần Hữu Nghiệp cảm giác mình thật hạnh phúc
khi nghe một người nước ngoài, nói tới lãnh tụ của đất nước mình trong
một không gian thắm tình hữu nghị. Trần Hữu Nghiệp nhảy với bà không chỉ
ít vòng như lời khuyên của Bác Tôn dặn, mà kéo dài tới hết hai bản nhạc
mới thôi. Cũng nhờ tình cảm ấy, mới biết bà là phu nhân của ngài Bộ
trưởng Công Nghiệp Đức đã nhiều năm sống trong trại tập trung phát xít,
khi chồng mình còn công tác bí mật. Sau lễ sinh nhật Chủ tịch Vinhem
Pick, Bác Tôn còn được các bạn Đức mời ở lại nghỉ thêm ba tuần lễ nữa,
cùng các lãnh tụ đi thăm đặt vòng hoa trên mộ Karl Leebknecht, nhân dịp
kỷ niệm ngày sinh vị anh hùng của giai cấp công nhân Đức thập kỷ 20. Bạn
cũng đưa đi thăm nhiều thành phố khác của Đức, đặc biệt tới thăm một số
thành phố có phong trào ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ nhất như Cacmacstadt.
Đến thăm Dresden có trường dành cho thiếu nhi Việt Nam ở ngoại ô, hầu
hết các cháu cha mẹ còn ở lại miền Nam hay là con liệt sĩ. Đoàn cũng vào
trại giam Buchenvald của phát xít Đức lừng danh thế giới, chứng tích về
tội ác của Hitle có lò thiêu người, bảo tàng trưng bày vô số vật dụng
gia đình và trang sức làm bằng da người. Nhưng ấn tượng kinh khủng rùng
rợn nhất, phải kể đến một buổi xế chiều đoàn tới thăm một trại giết
người khác của phát xít Đức rộng mấy mẫu đất, chồng chất lên nhau trắng
xóa xương người. Tiếng gió thổi qua những chiếc đầu lâu làm nó khẽ rung
rinh, như tiếng người quặn đau đang gào thét. Trần Hữu Nghiệp nói, nỗi
đau chỉ vơi đi chiều đó tại thành phố Weimar bạn mời xem biểu diễn nhạc
kịch sau bữa cơm chiêu đãi. Đây là thành phố cổ kính có thời từng là thủ
đô với bao nhiêu di tích lịch sử, và ngắm các lâu đài hàng trăm năm tuổi
xây bằng đá màu xám xịt với đủ thứ tượng người, mà mỗi nhân vật như thế
là một câu chuyện huyền thoại dài đội tuyết trắng long lanh, mới cảm thụ
được cái mỹ lệ của kiến trúc cổ. Tiếp
theo, Đoàn Việt Nam theo chân Bác Tôn được anh bạn phiên dịch người Đức,
đưa xuống thăm tầng hầm ngôi mộ cổ nơi an nghỉ của Gớt và bạn thân của
thi sĩ Sile. Chỉ vào ngọn đèn thắp trên mộ Đại thi hào, anh bạn Đức nói:
“bất cứ lúc nào, trong hoàn cảnh nào, đèn này cũng không bao giờ tắt”.
Rồi anh bạn nói tiếp: “một đêm đông năm 1832, thi sĩ Gớt đã 83 tuổi hấp
hối trên giường đã luôn miệng kêu gào: - Hãy đem đến cho ta ánh sáng,
nhiều ánh sáng hơn nữa”. Chuyến viếng thăm mộ Gớt, để sau này Trần Hữu
Nghiệp nhớ mãi không phải vì uy vũ của người nằm trong mộ. Hồi còn đi
học ở Pháp năm 1936, 1937 để lấy bằng đốc tờ Paris, bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp cũng vào viếng thăm lăng mộ Napoleon Bonaparte trong đền
Pantêông, xây bằng vàng nén của hàng chục Giáo hoàng ở Vatican, hay thập
Tam lăng của các vua nhà Minh bên Tàu, mà bởi lời bình của Bác Tôn. Trên
đường về khách sạn, bỗng Bác hỏi:
-
Anh làm Bác sĩ,
giải thích tại sao người mất cứ đòi ánh sáng? Vì
câu hỏi quá đột ngột làm Trần Hữu Nghiệp bí, bởi không có sách Y học nào
nói đến, rồi đáp:
-
Đây là trường
hợp cá biệt của một đại văn hào, một triết gia lớn, một trí thức uyên
thâm nhất Châu Âu thời ấy. Suốt đời bao nhiêu tác phẩm để lại, ta thấy
ông đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, làm sao để vươn tới “chân-thiện-mỹ”,
cuối cùng cũng không tìm được lối ra cho suy tư. Nghe
xong Trần Hữu Nghiệp nói, Bác Tôn vẻ trầm ngâm suy tư một lúc, rồi bất
ngờ vỗ vai Trần Hữu Nghiệp, nói:
-
Trí thức dầu
lớn đến cỡ nào, học vấn uyên thâm quảng đại bao nhiêu mà chưa được ánh
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường, thì mãi mãi đi trong đêm tối.
Thật
giản dị, nhưng sâu sắc. Bác Tôn nói với bác sĩ Trần Hữu Nghiệp tại
Beclin nước Đức, như bừng sáng lên một ngọn đèn mà một trí thức như ông
nếu không đi theo cách mạng cũng rất khó nhận ra! Sau
Vai-ma (Weimar), đoàn theo tuy tùng Bác Tôn đến Lai Xích (Leipzig) thành
phố lớn thứ hai của Đức. Sinh viên Việt Nam đang học đại học trường Các
- Mác được bạn thông báo trước, nên các em ra chào đón Bác Tôn rất đông,
và tình cảm dành cho Bác rất cảm động. Tại đây, Bác Tôn hỏi một sinh
viên ăn ở học tập có tốt không? Chàng sinh viên đó trả lời rất tốt, bạn
đã dành cho sinh viên Việt Nam mọi thứ tốt nhất để học tập. Cuối cùng
Bác căn dặn, các sinh viên trẻ: “Hãy tận dụng cơ hội tốt đẹp này để học
tập, sau này về phục vụ đất nước, nhân dân”. Đoàn cũng đến thăm thị trấn
Pốt – Xđam (Potxđam) ở phía Nam thủ đô Béclin, nơi đây có phong trào các
cháu thiếu nhi ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ nhất. Thật kỳ công mỗi cháu tính
ra bằng con số lon không, vải, giấy vụn, thu nhặt được bán lấy tiền gởi
sang Việt Nam tiếp sức cho cuộc kháng chiến từ năm 1946. Thành tích của
các cháu đã được nhân dân Việt Nam biết đến, và hôm nay tận mắt Trần Hữu
Nghiệp nhìn thấy mà vô cùng cảm động. Khi Bác Tôn nhận chiếc khăn quàng
đỏ và những bó hoa tươi thắm từ bàn tay của các cháu tặng, cùng nụ hôn
của Bác dành cho các cháu. Buổi chiều, Bác Tôn đến tham quan một số di
tích lịch sử đặc biệt căn phòng họp của các lãnh tụ Quốc tế “tam cường”
Anh – Pháp – Xô mùa hè năm 1945. Có một chi tiết thú vị, chiếc ghế ngồi
của Stalin vẫn còn đó, nhưng bị cưa mất chỗ tựa bởi một tên kẻ trộm lọt
vào sau đó đem đi bán đấu giá tại Mỹ.
Những ngày ở Béclin, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thầm nghĩ cảm ơn lòng tin
cậy và sự tế nhị của Bác Tôn dành cho mình, một trí thức còn ngoài Đảng,
sinh ra tại một vùng quê nghèo khó ở Ba Tri, rồi lớn lên đi học trường
tư sản đào tạo, được đi một mình tới bệnh viện Charilé, tiếp xúc rộng
với đoàn chuyên gia bạn sắp sang làm việc tại Việt Nam. Sau đó Trần Hữu
Nghiệp lại một mình đi lên miền Bắc nước Đức, tiễn đưa từ cảng Rostock
đoàn thủy thủ bạn chở dụng cụ trang thiết bị máy móc đi Hải Phòng, để
giúp ta xây dựng Bệnh viện hữu nghị Việt - Đức. Bên bạn cử đi theo một
cô phiên dịch làm việc ở Bộ ngoại giao, cô gái nói tiếng Pháp nhanh như
chim hót, khi tào lao riêng tư cũng không ngần ngại nói với Trần Hữu
Nghiệp cả “tiếng lóng” của Paris, tức là như ta nói với nhau mà dùng từ
ngữ Việt kiểu “cà chớn, hết sẩy, thấy mồ”, vào thời điểm đó một cử chỉ
như Bác Tôn có lẽ hiếm. Ngày
sắp chia tay thủ đô Béclin, chia tay những người bạn Đức mến khách, mùa
này bên Việt Nam cái tết cũng đang đến gần. Các bạn Đức chu đáo và thận
trọng, nhiều giáo sư, bác sĩ mời Bác Tôn tới bệnh viện kiểm tra sức khỏe
toàn diện. Vào buổi sáng ngày hôm sau dù trời vẫn rét, nhưng bầu trời
xanh biếc như mắt thiếu nữ trẻ người Nga tuyệt đẹp, Chính phủ Đức quyết
định dành riêng cho Bác Tôn và đoàn Việt Nam một chuyến chuyên cơ riêng
trở lại Moskva, Thủ đô của Liên Bang cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Xô –
Viết.
* Máy
bay hạ thấp độ cao để đáp xuống phi trường, Moskva hiện ra qua ô cửa sổ
thật đẹp, những đường phố dài thẳng tắp, những tòa nhà cổ kính mái hình
tháp nhọn xanh lam trên đỉnh có ngôi sao bằng vàng thứ thiệt. Cũng có
những tòa nhà mái vòm như chiếc mũ của những chàng hiệp sĩ thời Sa Hoàng
Đại đế, người ta nói cái màu vàng trên mỗi nóc nhà đó cũng bằng vàng như
các ngôi sao. Trời Moskva cũng trong như ở Béclin Đức, vì đang là mùa
Đông ánh nắng mặt trời ban trưa bị dịu đi nhiều, nhưng vẫn đủ thấy một
Liên Bang Xô – Viết vĩ đại dưới cánh bay, đẹp lộng lẫy. Khác
với lúc mới từ Việt Nam sang, hôm nay Bác Tôn là khách của Ủy ban bảo vệ
hòa bình thế giới đến nhận giải thưởng. Máy bay vừa hạ cánh đã có ngay
nghi lễ tiếp đón trọng thị tại chân cầu thang, các thiếu nữ, thanh thiếu
niên tay cầm hoa, cầm cờ hai nước xếp thành hai dãy vẫy chào, rồi lên xe
Volga, có mô tô hộ tống đưa Bác Tôn và đoàn Việt Nam về khách sạn
Sovietskaia, ở trung tâm thủ đô Moskva. Sáng hôm sau, điểm tâm xong cùng
lãnh đạo Ủy ban hòa bình thế giới nước chủ nhà, rồi ra xe đưa Bác Tôn và
đoàn Việt Nam vào điện Kremlin, nơi tổ chức trao giải thưởng tại đây.
Không thể tin được, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp bị choáng ngợp trước một
không gian lộng lẫy, của tòa cung điện cổ kính mà suýt thốt lên “thật là
cảnh thần tiên”. Cảm xúc dâng trào như một giấc mơ, xen lẫn niềm tự hào
là một trong những người Việt hiếm hoi ở đất nước còn rất nghèo, nửa
nước đang phải đối đầu với cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ được đặt
chân vào đây, nơi những vị vua Sa Hoàng và giới thượng lưu từng sống.
Nhưng giờ đã khác, cách mạng tháng mười Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo
của Lênin, giai cấp Vô sản đã giành lại quyền thống trị, thành lập nên
một nhà nước Liên Bang Xô – Viết rộng lớn và hùng mạnh. Hình như không
chỉ có Trần Hữu Nghiệp cảm nhận ra điều ấy, nhìn sang Bác Tôn tư thế tự
tin đàng hoàng khi bước lên bục nhận giải, sau lời phát biểu chào mừng
của Ủy ban hòa bình thế giới. Bài nói ngắn gọn, sâu sắc đánh giá công
lao to lớn của Bác Tôn cho phong trào hòa bình Quốc tế, ngay từ những
ngày đầu nhận ra bản chất xấu xa của chủ nghĩa đế quốc, trên con tàu
ngoài khơi biển Hắc Hải. Thật hạnh phúc, thật tự hào, khi nghe Bác Tôn
có lời đáp từ xúc động. Bác nói: “giải thưởng này trước hết thuộc về
nhân dân và tổ quốc Việt Nam tôi. Cảm ơn các bạn. Cảm ơn, cảm ơn!”. Ở
Moskva sau lễ nhận giải thưởng, rồi tới tiệc chiêu đãi của ban tổ chức,
Bác Tôn với tư cách là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đến chào Nguyên soái
Vôrôsilốp, Chủ tịch đoàn Xô Viết tối cao Liên – Xô. Bác Tôn đi có một
mình theo chủ ý của bạn, còn anh em trong đoàn được mời đi chơi thủ đô
và mua sắm quà kỷ niệm. Tại buổi gặp sau này được Cụ kể lại cho Trần Hữu
Nghiệp nghe, “chủ yếu là nghi thức xã giao mà thôi”. Đúng vậy, ông Tây
ông Ta xa nhau nửa vòng trái đất, mà cũng mới quen hôm cả hai sang Đức
dự mừng sinh nhật Chủ tịch Vihem Pick, nhưng vẫn muốn gặp lại ở Moskva
cho thêm tình hữu nghị.
Chuyện đám tùy tùng đi chợ, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng kể: “tiền đi mua
sắm được bạn tặng mỗi người một ngàn rúp. Một ngàn rúp bấy giờ là không
nhỏ, ở Moskva có thể mua được cả máy khâu, ti vi, tủ lạnh, nhưng tư
tưởng đó chỉ xuất hiện khi hòa bình lập lại sau năm 1975, nhiều cán bộ
từ Việt Nam đi công vụ, hay học tập bên đó đều biến mình thành “con
buôn”, vì đất nước mình ngày đó còn nghèo khó. Đi chợ Moskva hôm đó thật
vui. Vui vì nên mua cái gì tài chính cho phép? Lại vừa thiết thực ở quê
nhà. May là có người phiên dịch đi cùng là một cô gái trẻ, rất hồn nhiên
vui tính, yêu Việt Nam. Cô gái nói: “mình biết tiếng Việt là học tại
trường ngoại ngữ ở Moskva, chứ chưa từng sang Việt Nam bao giờ”. Vì vậy,
khi nói những từ khó giọng cô ngọng líu, nhưng mỗi lúc như vậy mặt cô đỏ
chín thật đáng yêu. Thấy mọi người đắn đo lúng túng, cô gái Nga khuyên
nên mua đồ mỹ nghệ phẩm, vừa gọn nhẹ vừa hữu dụng và ý nghĩa. Trần Hữu
Nghiệp thấy phải, ý nghĩ khác còn vì sĩ diện quốc gia, người ta nhìn
mình như một kẻ đi buôn, nên về phần mình ông chỉ mua một chiếc đồng hồ
báo thức, nước hoa về xức tóc cho vợ, búp bê cho con, nho khô và thuốc
lá cho bạn. Ở
Moskva chỉ có ba ngày, nhưng bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vô tình vướng phải
một sai lầm để đời. Chuyện xảy ra sau ngày Bác Tôn nhận giải thưởng
Lênin, bỗng một phóng viên Đài phát thanh Liên – Xô nói thạo tiếng Pháp,
đi với một nhân viên Đại sứ quán Việt Nam đến khách sạn, nơi Bác Tôn ở
xin phỏng vấn ghi âm. Anh ta đưa câu hỏi ghi sẵn để Bác Tôn đọc trước,
trong khi ê kíp đài thực hiện chương trình, còn anh ta quay sang Trần
Hữu Nghiệp nói chuyện chơi bằng tiếng Pháp ngữ. Rồi khi biết Trần Hữu
Nghiệp là người Nam Bộ, anh bạn phóng viên này hào hứng hẳn lên hỏi:
-
Thời còn đánh
Pháp, anh có biết người Nga nào có tên Việt là Thành không? Trời
đất, quá bất ngờ. Thành chính là người Trần Hữu Nghiệp biết khá kỹ, đó
là Trung đội trưởng khẩu đội pháo 35 ly, ở đại đội trợ chiến tiểu đoàn
307. Trần Hữu Nghiệp không kềm được cảm xúc khẽ reo lên, rồi đáp:
-
Có, có... Thành
là bạn tôi ở Bến Tre. Lần nào Thành về quân Y viện đơn vị 99 cũng đến
chơi với tôi. Anh
bạn phóng viên cũng vui không kém, á lên một tiếng rồi cho biết:
-
Sau tham gia
chống Pháp ở Việt Nam, Thành về lại nước đổi tên thành Platon, hiện nay
làm việc chung với tôi tại Đài phát thanh Moskva, cùng bộ phận tiếng
Việt. Nói
xong, người bạn phóng viên hồ hởi chạy tới bên chiếc máy điện thoại để
bàn quay ràn rạt, rồi ngoắc tay bảo Trần Hữu Nghiệp đến đưa phone cho
hai người nói chuyện. Đúng là tiếng Thành, người bạn Nga từng là bạn
Trần Hữu Nghiệp tham gia chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, chú rể của Bến
Tre mà gần mười năm trước Chín Nghiệp và các bạn mình tổ chức cưới một
cô vợ Việt quê người Bến Tre cho Thành. Hôm đó Thành nói: “Tao rất tiếc,
vì mày phải đi theo Bác Tôn, nếu không tao đến đón mày về nhà tao chơi”.
Thành còn nói, nhà mình ở cách thủ đô Moskva bốn chục cây số. Trần Hữu
Nghiệp đáp: “Xa vậy, thời gian tao không cho phép, xin đành lỡ hẹn nhé.
Cảm ơn”. Chuyện đó tưởng không có vấn đề gì, nhưng sau khi đoàn phóng
viên Đài phát thanh Moskva ra về, vị nhân viên Đại sứ quán Việt Nam ta ở
Moskva đến bên bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, thông báo:
-
Mai mời anh đến
Đại sứ quán làm việc nhé. Trần
Hữu Nghiệp ngạc nhiên, hỏi lại:
-
Để làm gì?
Anh
ta đáp:
-
Để làm bản tự
kiểm điểm! Trần
Hữu Nghiệp cũng không vừa, vặc lai:
-
Tại sao phải
kiểm điểm? Vị
nhân viên sứ quán, nói:
-
Đồng chí tự
động giao tiếp với người nước ngoài, khi chưa được phép Đại sứ quán, và
yêu cầu anh khai nói những gì với họ? Cục
tức trồi lên tận cổ, nhưng cũng có chút sợ hãi, bởi từ khi tham gia
kháng chiến năm 1945 tới nay, Trần Hữu Nghiệp chưa một lần gặp một sự cố
nào đến mức phải bắt làm kiểm điểm! Nỗi buồn day dứt không yên, với
những câu hỏi trong đầu “Làm sao, làm sao bây giờ?”. Rồi nghĩ, phải báo
cáo với Bác Tôn. Tối cùng ngày hôm đó, Bác Tôn khi nghe Trần Hữu Nghiệp
than thở, không ngờ Cụ nổi nóng, rồi nói như ra lệnh:
-
Mai anh sẽ
không đi đâu cả! Bảo tôi không cho đi! Tôi là trưởng đoàn! Nghe
Bác Tôn nói mừng thì mừng, nhưng Trần Hữu Nghiệp vẫn lăn tăn, vì sợ ảnh
hưởng tới Bác, rồi nói:
-
Nhưng không đi
họ sẽ làm khó. Bác
Tôn mặt đỏ bừng, càng nổi giận hơn:
-
Tôi nói anh
không rõ à. Người ta gọi anh, tất nhiên sẽ nói chuyện. Anh nói chuyện
với Thành bằng tiếng ta, tôi có mặt ở đó. “Nó” cũng ngồi đấy nghe và
hiểu cả, còn giở trò gì đây? Đại sứ Nguyễn Lương Bằng về nước, có việc ở
đây tôi là cấp ủy Đảng cao nhất. Thế
là việc đưa Trần Hữu Nghiệp ra kiểm điểm, về ý thức tổ chức kỷ luật kém
coi như “xù”. “Phước đức cho tôi”, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thốt lên buồn
vui lẫn lộn. Bởi lần đó, nếu không phải Bác Tôn trưởng đoàn bằng không
hôm nay khi già về hưu, Trần Hữu Nghiệp chắc chắn có một điểm đen ghi
trong lý lịch.
*
Chuyến tháp tùng Bác Tôn sang trời Âu, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn kể về
chuyện giải thưởng hòa bình Lênin thú vị, nếu không nói cũng khá vui. Đó
là tiền, tiền đi kèm giải thưởng 10 vạn rúp, cộng thêm một vạn rúp tặng
riêng cho Bác Tôn dùng để mua quà về tặng bạn bè, người thân ở Việt Nam.
Có thể nói, đây là một số tiền rất lớn so lúc bấy giờ. Chỉ còn một ngày
nữa là đoàn sẽ đáp chuyên cơ đi Bắc Kinh, Trung Quốc. Thời gian còn lại
rất ít, muốn mua sắm gì cũng không kịp, nên Bác Tôn nhờ Trần Hữu Nghiệp
giữ giùm. Bác nói:
-
Anh cầm hộ số
tiền này nghen. Nghe
vậy, Trần Hữu Nghiệp hỏi Bác Tôn:
-
Bác nên mua quà
gì về cho Bác gái? Muốn thứ gì tôi sẽ ra Gum (cửa hàng bách hóa tổng
hợp) mua đủ.
Dường như nghe Trần Hữu Nghiệp nhắc có lý, Bác Tôn suy nghĩ hồi lâu, rồi
nói:
-
Tánh tôi ưa ăn
nhất là món cá kho tộ, bỏ nhiều tiêu. Chiều nào bà ấy cũng đem tiêu hột
ra đâm chén đá, văng tùm lum ra ngoài. Bà lại kém mắt rồi, nên cứ mò mò
tìm từng hột bỏ vô lại. Vậy anh, cứ tìm mua cho tôi một cái cối xay tiêu
đem về tặng. Theo
đề nghị của Bác Tôn, sáng đó Trần Hữu Nghiệp ra Gum tìm bằng được chiếc
cối xay tiêu bằng tay, nhưng cũng chỉ hết có bảy rúp, còn 9.993 rúp đem
về trao lại cho Bác Tôn. Cầm chiếc cối xay tiêu nhỏ gọn làm bằng gỗ bóng
láng, đôi mắt Bác Tôn như bừng sáng vẻ tràn trề hạnh phúc, rồi quay sang
bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, nói:
-
Chắc bả mừng
lắm. Trần
Hữu Nghiệp nhớ ngày rời Moskva, phía Liên - Xô dùng chuyên cơ đưa Bác
Tôn và đoàn Việt Nam đến sân bay Iệt-xcút (Irkoutxk) là chiều tối. Phía
bạn Đảng Cộng sản Liên – Xô đến chào chia tay chiêu đãi cơm tối, để sáng
hôm sau đoàn đi Bắc Kinh. Sau bữa cơm, lại có chuyện bất ngờ xảy ra, Bác
Tôn gọi Trần Hữu Nghiệp và các thành viên trong đoàn đến bảo:
-
Tôi giao lại
toàn bộ số tiền lãnh ở Moskva vẫn còn, do không mua sắm gì nhờ anh
Nghiệp trả lại cho tổ chức. Các anh cũng nên làm như thế, vì ta không
được phép mang ngoại tệ về nước. Một
chút bối rối khi nghe Bác Tôn nói, lại hầu hết anh em đi trong đoàn đã
mua rỗng túi, may có Trần Hữu Nghiệp còn ít đồng thực ra có ý định dành
để mua thuốc lá ở sân bay, nhưng vội quá không mua kịp. Vậy
là Bác Tôn trả lại số tiền còn dư cho tổ chức gần như nguyên vẹn, quà
Bác mua chỉ một chiếc cối xay tiêu chỉ hết bảy rúp để về tặng vợ. Thế
rồi chuyện đó lại làm Trần Hữu Nghiệp liên tưởng tới một bệnh nhân của
mình quê làng Vĩnh Kim, hồi còn mở phòng mạch tư ở Mỹ Tho trước năm 1945
thuật lại. Suốt thời gian dài chồng bị đày ngoài Côn Đảo, Bác gái tần
tảo nuôi hai con gái bằng cách hàng ngày mua trái cây và gà vịt chở lên
Sài Gòn hoặc thị xã Mỹ Tho bán. Sau ngày cách mạng tháng tám thành công,
Bác Tôn đến Vĩnh Kim vào lúc đỏ đèn. Nhưng hôm ấy Bác gái không có nhà
đang đi mua gà ở xóm trên, rồi nghe tin chồng về bươn bả chạy buông thả
luôn mấy con gà đã trả tiền cho người bán cho nó chạy mất. Về tới Vĩnh
Kim, nhìn thấy chồng xa nhau sau 17 năm bà nghẹn ngào xúc động không nói
được lời nào, chỉ đứng ôm cột nhà khóc nức. Câu
chuyện người bệnh nhân kể dù gián tiếp, nhưng bác sĩ Trần Hữu Nghiệp tin
là thật. Trong từ điển tiếng Việt của (NXB – Khoa học xã hội) định
nghĩa: “Khóc là chảy nước mắt vì đau đớn hay thương xót”. Bác sĩ Trần
Hữu Nghiệp cho rằng không hẳn như vậy. Theo Trần Hữu Nghiệp, khóc còn có
nỗi vui mừng đến quá đột ngột cũng làm người ta khóc. Khóc trong trường
hợp Bác gái gặp Bác Tôn là cái khóc của niềm vui quá lớn, bởi sự trùng
phùng của người nông dân nặng tình chung thủy. Năm 1969 cụ Hồ mất, Bác
Tôn lên thay làm Chủ tịch nước. Có một anh bạn từ Hà Nội vào Nam Bộ, bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp hỏi thăm sức khỏe Bác Tôn, người đó nói vợ Bác Tôn
bệnh vào nằm điều trị ở bệnh viện Quân đội. Rồi một hôm bác gái nhận
điện thoại, tổ chức báo cho biết Bác Tôn sẽ vào thăm chiều hôm đó. Vậy
là Bác gái mừng, rồi bà vội vả đi thay bộ đồ mới chuẩn bị đón chồng.
Người ta bảo, thật khó không xúc động khi thấy một vị Chủ tịch nước năm
đó đã 80 tuổi, ôm hôn thắm thiết người vợ tuổi đã già như lứa tuổi còn
xuân xanh. Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp thừa nhận, mình đã đọc bao nhiêu tiểu thuyết tả cảnh
trùng phùng, trong những tình huống, trường hợp khác nhau của bao cặp vợ
chồng già xa lâu đến mấy, nhưng hình như chưa thấy nhà văn nào viết lên
cảnh này, dù đây là cảnh hoàn toàn chân thật.
*
Chiếc chuyên cơ Quốc kỳ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết, từ
từ hạ cánh đưa Bác Tôn và đoàn Việt Nam đáp xuống sân bay quốc tế Bắc
Kinh, Trung Quốc. Khác với lần đi, chỉ là như những vị khách qúa giang
thì lần trở về Bác Tôn trở thành thượng khách của Chủ tịch Quốc hội Lưu
Thiếu Kỳ. Theo kế hoạch đoàn chỉ ở lại thăm Trung Quốc có vài ngày,
trong đó có buổi quan trọng Bác Tôn đến chào Mao Trạch Đông, Chủ tịch
Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chuyện gặp Chủ tịch Mao
thật ra không có gì đáng nói, chỉ để xã giao mà thôi. Đúng vậy, cũng bắt
tay hữu hảo, cũng ôm hôn thể hiện tình đồng chí và vài câu thăm hỏi sức
khỏe, chúc tình hữu nghị hai nước bền chặt. Chiều sau, xe bạn đến đón
Bác Tôn tại nhà khách, rồi đưa đến nhà riêng Lưu Thiếu Kỳ dự cơm thân
mật ở Trung Nam Hải. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nhớ, bữa tiệc đó phía bên
Trung Quốc có ba người, vợ chồng họ Lưu và một người nữa do lâu ngày nên
quên mất tên. Khách Việt Nam bốn người, Bác Tôn, Đại sứ ta ở Trung Quốc,
tham tán Đại sứ quán Châu Lượng không ngờ lại là bạn ngày còn trẻ học
lớp nhất A ở trường Bến Tre, dưới tên thật là Trần Văn Minh, và người
thứ tư là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Phiên dịch chính trong bữa tiệc là
đồng chí Đại sứ, khi rượu Mao Đài ngà ngà say, Lưu Thiếu Kỳ phát biểu
một câu khiến Trần Hữu Nghiệp và mọi người sững sốt:
-
Đảng các đồng
chí thành lập sau Đảng chúng tôi, mà mới mười lăm năm đã giành được
chính quyền, nay nếu phải chờ năm mươi năm nữa mới thống nhất đất nước,
cũng là sớm. Nói
xong Lưu Thiếu Kỳ chờ cho Đại sứ ta dịch. Ánh mắt ông ta cũng dõi theo
từng động thái trên khuôn mặt của Bác Tôn, nhưng hình như không thấy có
biểu hiện gì?! Nhưng Trần Hữu Nghiệp đang nghĩ khác, Bác Tôn một người
dày dạn kinh nghiệm sinh tử, vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra hàm ý của câu
nói của Lưu Thiếu Kỳ. Chỉ còn không bao lâu nữa theo hiệp định Genène,
chúng ta tin rằng cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra hai miền Nam Bắc, thống
nhất tổ quốc. Rồi khi Lưu Thiếu Kỳ nâng ly lên chạm, ly rượu Bác Tôn
bỗng nổi sóng bắn ra những tia rượu rơi xuống mặt bàn ướt sũng. Trần Hữu
Nghiệp liếc nhanh nhìn Lưu Thiếu Kỳ, mắt ông ta hơi nhíu lại, nhưng cũng
nhanh trí, nói:
-
Ôi, không sao.
Bác
Tôn đáp:
-
Cảm ơn các đồng
chí đón tiếp chúng tôi. Tiệc
đãi có đầy đủ sơn hào hải vị, nhưng từ khi phát biểu của Lưu Thiếu Kỳ
cảm giác ăn vào đắng ngắt, rồi khi trên đường về chỗ nghỉ nhà khách,
Trần Hữu Nghiệp ghé tai hỏi nhỏ Bác Tôn:
-
Lúc nãy, Bác có
nghe rõ câu nói của Lưu Thiếu Kỳ không? Nghe
Trần Hữu Nghiệp hỏi, Bác Tôn ngồi thẳng lưng lên đưa ngón tay trỏ ra
trước mặt, đây cũng lần đầu tiên từ khi đi theo Bác Tôn, Trần Hữu Nghiệp
ngạc nhiên thấy Bác làm thế, rồi Bác nói:
-
Cái gì đã nghe
qua nên bỏ ngoài tai, về nhà anh phổ biến ra tùm lum sẽ bị kiểm điểm và
thi hành kỷ luật đấy! Trần
Hữu Nghiệp hữu ý khẽ gật đầu, và chắc chắn không bao giờ kể, bởi bài học
ở Moskva mới qua đâu có lâu. Nhưng mười năm sau 1965, bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp được Bác Tôn mời đến nhà ăn cơm, có cả chị Tám Lựu (Nguyễn Thị
Lựu) Hội trưởng hội Phụ nữ Việt Nam, với tư cách là người đồng hương,
rồi khi tiễn ra về Trần Hữu Nghiệp nhắc lại câu nói đó của Lưu Thiếu Kỳ.
Nghe xong Bác Tôn cười, bảo:
-
Bây giờ anh
không nói ra, thì ai cũng biết cả rồi! Đúng
vậy, năm 1956 tổng tuyển cử hai miền Nam Bắc không xảy ra như Hiệp định
Genèvơ ký kết. Người Mỹ nhảy vào thay chân người Pháp, trắng trợn dựng
Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, đơn phương phá bỏ Hiệp định Genèvơ và
những kẻ nào đứng sau sự phá sản đó? Lưu Thiếu Kỳ có phải là một nhà
tiên tri?!
*
Trong cuốn hồi ký của mình, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có viết chuyến đi
trời Âu khi trên đường về lại ghé qua Trung Quốc, với cảm xúc thật hoành
tráng. Chủ tịch Quốc hội họ Lưu bố trí riêng một chuyến xe lửa, đưa Bác
Tôn và đoàn Việt Nam về nước. Trần Hữu Nghiệp nói rằng chưa bao giờ được
sống trên toa tàu sang như thế, có nhà bếp riêng, có người nấu ăn, người
phục vụ trên tàu riêng. Phòng khách hạng sao như ngày nay ta hay gọi cho
giới thượng lưu đám người giàu, giường ngủ có chăn hoa nệm gấm. Rồi đoàn
tàu sau gần hai ngày cũng về tới Bằng Tường ga cuối cùng trên đất Trung
Quốc, một nhân viên văn phòng họ Lưu tiễn Bác Tôn và đoàn xuống. Vừa ra
khỏi tàu đã có sẵn ô tô do đồng chí Dương Bạch Mai, cán bộ văn phòng
Quốc hội lên đón đưa về Hà Nội. Gặp Bác Tôn, anh nói:
-
Báo cáo Chủ
tịch, 10 giờ tại nhà hát lớn Hà Nội, Ủy ban Trung ương mặt trận tổ chức
mít tinh đón Chủ tịch, vừa nhận giải thưởng hòa bình Quốc tế Lênin trở
về. Đúng
10 giờ, xe đưa Bác Tôn tiến vào nhà hát, hàng vạn người từ ngoài cổng
đến bên trong tay cầm cờ hoa vẫy chào Bác Tôn. Một không khí nồng nhiệt
hiếm có mà theo bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nói mình chưa từng thấy. Tại lễ
đón, sau lời chào mừng của đồng chí Xuân Thủy, Ủy viên Chủ tịch đoàn
kiêm Tổng thư ký Mặt trận, bên dưới nhiều tiếng vỗ tay cờ hoa lại rộ
lên. Đến lượt Bác Tôn lên đáp lời, Trần Hữu Nghiệp lần nữa lại thấy Cụ
xúc động trước tình cảm của đồng bào, nhân dân Thủ đô dành cho mình, rồi
Bác nói:
-
Giải thưởng này
là thuộc đồng bào chiến sĩ ta, tôi chỉ là người đại diện cho đồng bào đi
lãnh mà thôi. Vì vậy, tôi xin gởi lại số tiền 10 vạn rúp đi cùng giải
thưởng hòa bình Lênin, cho phong trào bảo vệ thiếu nhi Thủ đô. Bên
dưới lại đồng thanh vang lên lời “chúc Bác Tôn khỏe. Hoan hô…”. Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp còn nói rằng: “Tôi đã rơm rớm nước mắt vì hạnh phúc,
nhìn thấy tình cảm đồng bào Thủ đô dành cho Bác Tôn”. Gia
đình bác sĩ Trần Hữu Nghiệp sum họp đúng vào ngày trước tết âm lịch thật
là vui, nói cách khác còn vui gấp đôi nhiều tết khác vì các con gái năm
nay còn có những con búp bê Nga, gấu bông xinh đẹp quà ba mang từ Liên
Xô về. Vui thêm nữa, vì đây là lần ăn tết duy nhất trong đời được đến
chơi thăm nhà bạn bè đem theo tặng nho khô, sôcôla, trong bộ âu phục đẹp
và sang nhất từng được mặc. Hết tết sáng mồng ba tới Bộ Y tế làm việc,
rồi được cán bộ văn phòng thông báo, bên Bộ tài chính vừa điện sang yêu
cầu Trần Hữu Nghiệp nộp tất cả quần áo Veston, giày, mũ, do Bộ cung cấp
đi công tác, kể cả áo sơ mi, quần áo ngủ và va li. Năm
1956 kinh tế đất nước còn rất khó khăn, nhất là Chính phủ thực hiện cuộc
cải cách ruộng đất dù có những thiếu sót sai lầm cần phải khắc phục,
nhưng vẫn còn tiếp diễn. Cuộc xuất ngoại cùng với Bác Tôn Đức Thắng đối
với bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vượt ngoài sức mong đợi, hơn hai tháng trời
được làm “thượng khách” như bay trên mây bây giờ trở về mặt đất, hòa
nhập vào cuộc sống chung ấy cùng đất nước. Chả thế mà bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp viết, giọng vui và dí dỏm như sau: “Con đường vinh quang của kẻ
sĩ thời xưa, khi được làm quan thái thú đất Kinh Kha đối với tôi thế là
chấm dứt. Có điều khác, đây không phải chuyện xảy ra trong mộng khi nồi
cơm kê đang chín, mà đúng là sự thực kéo dài hơn hai tháng nhờ tà tà
theo bóng Bác Tôn”. |