2

Quê hương, gia đình, tuổi thơ

 

 

Cụ Đồ Chiểu có hai câu thơ khi điếu vị quan nghè Phan Thanh Giản, tâm trạng lâm ly về thời thế:

Non nước tan tành hệ bởi đâu!

Dào dào mây trắng cõi Ngao Châu!

Ngao Châu là chỗ nào? Chính là một địa danh nổi tiếng ở xã Tân Thủy, người dân còn có cách gọi khác là Giồng Bông, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ngày nay. Hay  nói ngược xa xôi một chút dân dã hơn, xã Tân Thủy có một Bãi Ngao. Ngao Châu còn từng được biết đến trong văn học, nói đúng hơn gọi là Bãi Nghêu. Cũng từ hai câu thơ trên ta hiểu bối cảnh cái thời “nước non tan tành”, nếu không nói là nước “mất nhà tan” bởi thực dân Pháp vẫn đang đô hộ nước Việt. Còn đâu nữa, nước nằm trong tay người Pháp từ năm 1858, khi ngang nhiên tấn công Đà Nẵng từ ngoài biển vào. Đất nước tan tành, thì cuộc sống người dân mất nước có gì là hạnh phúc? Cái Bãi Nghêu là niềm tự hào của người dân Tân Thủy, là cứu sanh nuôi sống bao nhiêu con người được trời biển ban cho, nhưng cái Bãi Nghêu ở vào thời mất nước dù người dân chỉ bỏ chút công sức lặn ngụp, cào xúc, mang về bán cho thương lái lấy tiền đong gạo cũng đâu có sung sướng gì? Đúng như câu thơ Cụ Đồ Chiểu viết “Dào dào mây trắng cõi Ngao Châu”. Chỉ có biển và gió mới tạo ra sóng. Sóng nước vỗ vào bờ tạo ra âm thanh “dào dào” muôn thuở, nhưng cụ Đồ Chiểu lại viết “dào dào mây trắng? Cụ liên tưởng rất tài tình mây được tạo ra từ sóng. Sóng vỗ tung bọt trắng tựa mây. Tài đến khó tin vượt qua cái tự nhiên của biển cả, của trời đất, để Cụ ám chỉ cái thời thế nước mất, nhà tan, nên sóng mới tạo ra sự “quái dị” mây là thế! Thông thường do biến đổi của thời tiết, trên trời cao có mây màu trắng là sự đương nhiên rất đẹp. Cũng có thể thành mây đen vần vũ, báo hiệu cho một trận mưa giông lớn. Dào dào mây còn có thể hiểu là số nhiều, cũng có thể hiểu là tiếng kêu. Nhưng mây sao có thể kêu được? Vậy mà Cụ viết mây kêu “dào dào”, phải chăng hiểu đấy là nỗi đau của kiếp người? Chưa hết, Cụ còn dùng từ “cõi” Ngao Châu mà không phải là “bãi”. Chữ ‘cõi” nghe vừa xa xăm, vừa đau xót, khác với cách gọi thông thường của người dân Tân Thủy, trải qua nhiều đời họ vẫn gọi là bãi?!

Đất giồng Tân Thủy có cái Bãi Nghêu nổi tiếng, chính là nơi bác sĩ Trần Hữu Nghiệp sinh ra. Đây là thời kỳ người Pháp đang đặt ách đô trị nước Việt Nam. Theo Trần Hữu Nghiệp, Tân Thủy là một xã nghèo nằm giữa các con giồng cằn cỗi chỉ nuôi được cây mù u, cây trôm, cây duối, cây đước, cây bần, những loài cây lá dày chịu mặn xanh mướt. Cây lớn cắm sâu xuống bùn ngập nước, rễ mọc từng chùm tua tủa, đây cũng là những loại cây hầu hết không ăn được quả. 

Tân Thủy cũng có một diện tích đất ruộng trồng được lúa, nhưng không nhiều mỗi năm chỉ gieo cấy được một mùa, năng suất lúa cũng rất phập phù, gặp thiên nhiên thuận lợi khá hơn chút, gặp thời tiết xấu kết quả chẳng đáng bao nhiêu. Những hộ nghèo không có ruộng đều phải đi làm thuê, công sức bỏ ra tới mùa thu hoạch sau khi trả cho chủ, đóng năm bảy thứ thuế cho chính quyền chỉ còn dư chút đỉnh. Như vậy ngoài trồng cây lúa, người dân Tân Thủy đều trông chờ nhiều vào Bãi Nghêu. Cái Bãi Nghêu nằm kẹp giữa hai dòng sông một bên là Hàm Luông, một bên là dòng Ba Lai bốn mùa lộng gió. Bây giờ về Tân Thủy nghe người dân nói ngày xưa đất đai rộng lắm, dọc ngang cả chục cây số lận, cũng có nghĩa cái Bãi Nghêu có chiều dài dọc bờ biển là chục cây số, chiều lấn ra biển cũng độ ba cây dư. Nghêu Tân Thủy ngày đó khai thác được bao nhiêu có ghe thuyền từ các nơi đến thâu mua chuyển đi về chợ tỉnh, sang cả Kiến Tường, Mỹ Tho, hay có khi được nhiều thương lái bán buôn lên tận Sài Gòn. Nghêu Tân Thủy con nào cũng to đầy mập mẫy, luộc với xả cuốn bánh tráng kèm với rau thơm, rau sâm biển, nhâm nhi với rượu đế Phú Lễ nổi tiếng Bến Tre, chưa ăn nhìn đủ thích. Nghêu Tân Thủy nếu làm món cháo, sau mỗi buổi đồng về ăn một tô thơm ngon béo ngậy người đang mệt thấy khỏe ra.

Tân Thủy là chót mũi cù lao Bảo giáp với biển Đông, thời Pháp thuộc người ta nói vẫn cái gió muôn đời như thế, nhưng gió trời lại nghe khác lắm?! Gió của người dân mất nước khiến họ “ngày đêm bên tai nghe không ngớt tiếng sóng vỗ gành quyến rũ tâm hồn hướng về quá khứ xa xăm, bởi trước mắt không có gì đem đến phấn khởi cho tương lai”. Ngày nắng nóng vào buổi trưa đi làm đồng về, chân đạp cát bỏng phải vừa đi vừa chạy. Sang mùa mưa nghe tiếng ếch nhái kêu ểnh a bất tận từ đồng ruộng vọng vào, nghe não lòng tê tái tới tận đêm khuya.

Cái vùng đất cằn cỗi khó khăn là vậy, nhưng con người ở đây vẫn tồn tại qua bao nhiêu đời, bao nhiêu thế hệ vẫn sống, sanh sôi và đứng vững. Trong ký ức của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp về ba má mình là “nông dân chính cống!”.

Cái gốc gác dân Tân Thủy, Ba Tri, ngày nay rất có thể là người Bình Định từ ngoài miền Trung vào đây lập nghiệp. Cơ sở nào để Trần Hữu Nghiệp khẳng định như thế? Đó là do có lần nhân một chuyến công tác ra miền Trung tới vùng quê gần biển, nhìn đất trời sông nước, rồi bỗng thốt lên: “Lạ thay cảnh vật, con người ở đây giống đất quê hương Giồng Bông mình đến lạ?”. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nhìn thấy ở đó cũng có những cây trôm, dưới gốc có miếu thờ thổ thần. Đường đi, lối xóm, đất cát khô cằn kêu rào rạo sau mỗi bàn chân bước. Phải chăng đất đai khó sanh tồn mà cha ông mình, ngày xưa đi bằng ghe bầu đến định cư ở xứ Ba Tri? 

  Có thể tổ tiên, ông bà, gia đình Trần Hữu Nghiệp là những lưu dân người Việt đến đây bằng con đường như vậy?! Trải qua bao nhiêu đời không rõ, nhưng nhất định họ là những người chịu thương, chịu khó và đầy bản lãnh. Bằng chứng Trần Hữu Nghiệp năm lên mười tuổi, học trường Tiểu học huyện Ba Tri, nhưng đã nhớ rất chi tiết hoàn cảnh sống, sanh hoạt của gia đình mình như người miền Trung vậy? Nhà Trần Hữu Nghiệp nằm giữa Giồng Bông, đất đai dài có lẽ đến hai cây số. Xóm giữa ấy có khoảng ba bốn mươi hộ, nếu không vợ thì chồng nhiều người mang họ Trần ông cố và ông nội mình. Người ở đây đa phần có dính dáng nhau qua đôi ba thế hệ, cũng như khúc dưới con Giồng có rất nhiều người mang họ Tô. Trên một con Giồng như thế hai họ Trần và Tô là nổi danh nhất. Nói cách khác là đông nhất, nên con trai con gái lớn lên làm thông gia với nhau là lẽ thường tình. Như chuyện xưa người ta kể ở bên Tàu, có con gái nước Tấn lấy chồng nước Tần, hoặc ngược lại nên mới có câu: “Xe duyên Tần Tấn” là vậy. Nhà Trần Hữu Nghiệp cũng thế, ông có một chị dâu và một người anh rể đều là họ Tô. Trừ má Trần Hữu Nghiệp là con gái gia đình ở ngoài chợ Ba Tri, ba ông cưới về mang họ Phạm (Phạm Thị Phường). Cũng chuyện họ hàng đó mà có một chuyện thú vị, Chánh lục bộ khai sinh cho Trần Hữu Nghiệp vào “Bộ Đời” của xã năm 1911, lại ghi bừa ông có má là họ Tô, may mà lúc đi học không ai phát hiện ra cho đến ngày leo lên thang cuối cùng của hệ đại học, cũng “xù” luôn. Hóa ra chuyện khai sinh cho con nít thời đó thường không chính xác, lý do có khi do ba má người sinh con đợi cho con ăn đầy tháng, rồi mới đến làng khai. Cũng có khi thầy Chánh Lục tiếp người đến trình vào lúc đang nhậu, hay sắp đi dự đám cưới nên ề à rồi không làm ngay. Vài ba ngày sau người nhà thấy lâu lên hỏi, thầy Chánh Lục mới nhớ lại, rồi cứ lấy ngày nhắc nhở đó làm ngày sinh cho đứa trẻ. Buồn cười nữa tên ba má khi khai báo đã đề sẵn, nhưng ông Chánh Lục bộ cũng quên béng, nên tự đặt cái tên theo sở thích của thầy. Việc này xảy ra trường hợp ngoài Trần Hữu Nghiệp còn có người anh trai cũng rơi vào tình trạng như vậy, vào thời ba mình chưa làm Hương Cả. Cha tên Nghĩa, đặt tên cho người anh Trần Hữu Nghiệp là Nhưn, nhưng chẳng ai để ý khi đến tuổi đi học tìm mãi cái tên Nhưn không có trong Bộ Đời vào năm đó, tháng đó, nhưng lại có tên cha Trần Văn Nghĩa, má Phạm Thị Phường, sanh ra đứa con lạ hoắc có tên là Xồm. Trời đất, thì ra lại là lỗi của thầy Chánh Lục quên béng, rồi bèn nghĩ năm ấy là năm Mùi tướng tinh con dê, mà lại con trai nên ghi bừa là Xồm (tức dê Xồm). Chưa hết, Trần Hữu Nghiệp còn chứng kiến có lần theo anh đến lớp, bọn trẻ ở trường nhìn thấy anh mình đang từ cổng đi vào, chúng nhao nhao gọi tướng lên “Thằng Xồm đến rồi bay nè”. Cái tên xấu xí đó đeo đẳng anh trai bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, suốt một thời gian dài học tại trường Tiểu học Bến Tre. Đến năm 1946, vẫn giữ cái tên đó để trở thành Ủy viên Mặt trận Việt Minh xã Tân Thủy, nhưng trong nhà ông Nghĩa, bà Phường, bắt mọi người phải gọi Xồm là “thằng Nhưn”, để tránh phiền phức tai bay vạ gió ở vùng Ba Tri vừa xuất hiện một người có quyền thế, trong chính quyền rất lớn tên là Nhưn.

Về kinh tế, gia đình bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vào loại khá giả. Trong hồi ký, sau này bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng có viết rất chi tiết qua trí nhớ tuyệt vời khi ông tuổi đã cao. “Nhà có ba căn hai chái, cột kê đá tảng xanh ... Nhà trên nối liền với nhà dưới bởi một nhà cầu. Giữa nhà có bộ ván bằng gỗ dầu, trên để một bình trà, bình vôi, là nơi tiếp khách bà con lối xóm. Trước nhà cầu là cây trắc bá diệp, cung cấp lá sắc uống khi có ai ho. Đặc biệt là cây khế chua, rất được ưu đãi chăm bón tưới tiêu thường xuyên nên khá sai trái. Trái khế là bạn đồng hành với chuối chát khi ăn thịt luộc, khô nướng, mắm chưng. Đôi bạn kết nghĩa này không biết ở quê tôi có từ bao giờ, nhưng về sau tôi nghiên cứu lý luận Đông y, tôi hiểu đây không phải do tình cờ mà nhắm hướng bảo vệ sức khỏe bằng cách làm âm dương thăng bằng. Tiếp theo nhà cầu là nhà dưới cũng lợp ngói, nền đất, nhưng cột dầu cách khu nhà ngói ít thước là cái nhà lá, trong đó có chuồng trâu, tàu ngựa, cối xay lúa, bàn đạp giã gạo và bao nhiêu thứ linh tinh dụng cụ sản xuất khác. Trừ trâu ngựa ra, các gia súc, gia cầm được sống tự do nằm đứng chỗ nào cũng được”.

Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp suốt tuổi thơ vẫn nhớ như in, đêm được ngủ nằm trên rương xe, từ khói lam của đống um lọt vào nhà qua khe hở của cửa, ông ngửi được cả cái mùi thoang thoảng rất đặc biệt phân trâu cháy: “Ôi mùi phân trâu nhuộm màu mà về sau trong suốt cuộc đời mỗi lần được ngửi, lòng tôi lại lâng lâng nỗi niềm thương nhớ quê hương, cũng như tiếng trâu nhai rơm nghe sột soạt lúc canh khuya”. Gia đình bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có 13 mẫu ruộng. Ở cái xứ đất cằn, lại thường hay đụng gió chướng vỗ gành có từng ấy ruộng đất là vào bậc “trung” đủ ăn, đủ tiêu, đủ tiền của nuôi các con đi học. Rõ ràng tuổi thơ bác sĩ Trần Hữu Nghiệp không thể gọi là vất vả, không phải đi ở đợ cho người khác, và dẫu có phải đi chăn trâu nhà cũng có ba tới bốn con, như vậy so với bao đứa trẻ ở Giồng Bông là sướng.

Nói chuyện quê mình, nhà mình, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp sực nhớ lại một chuyện vui, nhưng có thật. Năm 1955, mới từ Nam tập kết ra Bắc có lần suýt mang họa vào thân, khi thật thà hồn nhiên khai trong lý lịch: “Cha trung nông, có 13 mẫu ruộng”. Thật là quá ngây thơ cho Trần Hữu Nghiệp, tại sao không khai là “bần nông”? Đã thế còn thèo lẻo cái đuôi, ghi rõ diện tích ruộng sau hai chữ “trung nông”. Về sau mới biết nhiều kẻ khôn ranh khai man, khai bậy quá trời, rồi vẫn phây phây đường công danh dựa vào cái thành phần công nông “bần cố”. Cuối cùng cũng nhận ra cái khờ khạo của mình, ấy là một lần được Bộ y tế giao cho nhiệm vụ chuẩn bị đi công tác nước ngoài ở trời Âu, đích danh bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nói với Trần Hữu Nghiệp: “Mày xuống Vụ tổ chức lấy giấy tờ giới thiệu sang Bộ ngoại giao làm thủ tục xuất cảnh”. Trần Hữu Nghiệp thấy sướng rơn, vì bất ngờ được đi Châu Âu, rồi đáp lệnh đi ngay sang phòng vị Vụ phó, nhưng không thấy ai, nhìn trên bàn có bản lý lịch Trần Hữu Nghiệp còn đang mở toang mà anh ta vừa đi đâu đó chưa kịp gấp. Tò mò liếc mắt nhìn thấy bên lề ở đoạn khai mình cha là “trung nông có 13 mẫu đất”, lại ghi chú ngoài lề bằng mực đỏ: “Khai trung nông, nhưng có thể là địa chủ?”. Hoảng hốt, Trần Hữu Nghiệp quay ngay về văn phòng Bộ gặp Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch, nói:

-         Báo cáo anh, bên đó họ nhận xét gia đình tôi là địa chủ, chắc không đi được đâu?

Nghe Trần Hữu Nghiệp nói, Phạm Ngọc Thạch bật cười lớn, rồi bảo:

-         Ở ngành Y tế này, muốn tìm người thuộc thành phần cơ bản để giao việc, thì nên dẹp Bộ đi.  

Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch còn nói thêm, để động viên Trần Hữu Nghiệp như là “chuyện nhỏ”:

-          Kể từ trên xuống dưới! Cụ Hồ Đắc Di phụ trách Đại học là con Thượng thư đó. Thằng Tùng (Giáo sư, Thứ trưởng Tôn Thất Tùng), là con Tổng đốc. Ngay tao đây cũng có vấn đề, trước kháng chiến gia đình tao lỡ mua 200 mẫu đất ở miền Tây, tuy đã hiến hết chia cho dân cày, nhưng suy cho cùng tao cũng muốn làm địa chủ. Nói xong, ông Phạm Ngọc Thạch bước nhanh ra cửa, nhưng mới được vài bước còn quay lại nói:

-         Về, chờ tao chút!

Không biết Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch xuống phòng tổ chức nói gì ở đó, vài giờ sau người bên đó đến giao trực tiếp cho Trần Hữu Nghiệp, đủ mọi giấy tờ cần thiết cho chuyến đi trời Âu.

Ba bác sĩ Trần Hữu Nghiệp tên là Trần Văn Nghĩa ruộng có 13 mẫu, nhưng không thu tô, tự tay mình cày bừa ruộng nhà, khi cần thì vần đổi công với người khác cùng trong làng xóm. Gia đình ông Nghĩa khá giả, nhờ khả năng lanh hoạt trong làm ăn, biết xoay vần kế hoạch tùy vào mùa nào trồng cây ấy. Trên diện tích 13 mẫu ruộng ngoài trồng lúa, mỗi năm thu được 500 giạ, tức là chưa đến 4 giạ một công (1.000 mét vuông), năng suất như vậy là thấp, gia đình còn trồng dưa bán thêm kiếm tiền. Kỷ niệm thời trẻ có lần được ba cho theo đi bán dưa hấu vào dịp tết ở chợ Cái Bè. Từ nhà đi vào hừng đông, nhờ gió chướng thổi già căng buồn ghe lướt như bay trên sông Ba Lai, lúc đầu Trần Hữu Nghiệp đứng trên mũi hóng gió mát rượi, mũi ghe xé nước reo le te mà cảm giác mình như đang bay thật sướng. Nhưng khi ghe ra tới giữa dòng, Trần Hữu Nghiệp bắt đầu say sóng, đầu óc quay cuồng, ruột gan cồn cào nôn ói, rồi nằm vật ra lòng thuyền mãi tới khi mặt trời lặn, nhìn lên bờ thấy mọi nhà đổ đèn, ông Trần Văn Nghĩa cột ghe xong lên bờ một lát, khi trở xuống đem theo một tô cháo gà vẫn còn bốc hơi nóng hổi, ông nói: “Ăn đi con, rồi khỏe lại thôi”.

Trần Hữu Nghiệp bây giờ mới biết ghe đã cặp bến Cái Bè, tô cháo thật thần kỳ ăn ngon đến thế đêm đó ngủ êm, sáng hôm sau thức dậy thấy người khỏe re. Chuyến đi dẫu bị say sóng, nhưng Trần Hữu Nghiệp phát hiện ra nhiều điều mới lạ người ta đi chợ mua hàng về, hoặc chở hàng đi bán trên các chiếc ghe xuồng vừa nhanh lại vừa rẻ. Cảnh tượng này khác hẳn ở quê Tân Thủy khi người dân muốn đi chợ ra ngoài Ba Tri, không có cách nào khác hơn là cuốc bộ, gồng gánh bằng đôi chân trần chai sần, bước trên lộ đá cuội xanh hay rào rạo cát bỏng.

Gia đình Trần Hữu Nghiệp ngoài cây lúa còn trồng thêm dưa hấu, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa. Vai trò này phải kể đến công lớn của bà Phạm Thị Phường thân mẫu Trần Hữu Nghiệp, một phụ nữ chịu thương, chịu khó, yêu chồng, thương con, chăm chỉ làm ăn sớm tối. Trần Hữu Nghiệp nói: “Má tôi nuôi heo, để tằm ươm tơ”. Tơ bà Phường ươm được bán dễ dàng cho những anh “chà Châu Giang” họ thường xuyên lui tới tìm mua ở Ba Tri. Sau này khi viết trong một đoạn hồi ký của mình, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng có nói về lụa tơ tằm Ba Tri trong đó có sản phẩm thân mẫu mình, nghe vui và thú vị: “Cho tới năm 20 tuổi, má tôi cũng còn dốt, cho họ là dân ngoại quốc như anh Bảy Ấn Độ, hàng ngày thu tiền góp chợ Ba Tri sau cuộc đấu thầu, hoặc anh chà chetty da đen hơn, búi tóc, chuyên việc cho vay nặng lãi. Lâu về sau, tôi mới rõ chà Châu Giang cũng là đồng bào của tôi, thuộc giống dân tộc ít người gốc Mã Lai, sống ở một vùng thuộc tỉnh Châu Đốc. Tơ họ mua về có lẽ bán lại cho những nhà chuyên dệt lụa Tân Châu hay lãnh Mỹ Á, ngày xưa từng nổi tiếng khắp nước”. Điều này đúng, nếu ai quan tâm tới sử Việt, tìm hiểu kỹ lịch sử Bến Tre thời Pháp thuộc chắc chắn không khỏi ngỡ ngàng ở Ba Tri có một thời nghề tơ lụa rất nổi tiếng. Người ta nói lãnh Mỹ Á làm ra chủ yếu phục vụ cho lớp người giàu, các sếp lớn địa phương thu mua còn làm quà đem ra Huế cống nạp để được cất nhắc làm quan to. Các nhà buôn người Pháp cũng rất mê sản phẩm lụa Ba Tri, chúng thu mua với giá bèo, rồi đem xuất khẩu sang chính quốc bán lời gấp nhiều lần.

Nghề tơ tằm của bà Phạm Thị Phường còn gắn liền với sở thích tuổi thơ Trần Hữu Nghiệp, sau này lớn lên đi khắp mọi miền đất nước, cả khi du học bên trời Tây, cao lương mỹ vị đều được ăn, được nếm đủ cả, nhưng món nhộng tằm làm gỏi, rang mặn, vừa thơm vừa béo ngon hết chỗ nói. Mỗi buổi đi học về là chạy bổ ngay xuống bếp, tìm món nhộng mà má biết thằng con rất thích làm sẵn để trên bàn tha hồ ăn chơi. “Đúng là miếng ngon nhớ lâu”, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, gian khổ, thế hiểm nguy là thế, rừng bưng biền muỗi mòng, bệnh tật phát sinh nhiều kiểu, nhưng cái chất đạm dân dã đồng quê đã nuôi dưỡng bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vẫn luôn khỏe re!

*

Ký ức về người Ba sinh ra mình ông “Đại Hương Cả” thời Tây, rõ ràng đó là gia đình có “máu mặt” như nhà ông Trần Văn Nghĩa thì thường có vai vế nhất định ở làng. Chuyện ấy có nhiều lý do. Trước hết, không biết từ bao giờ ba mình làm tới chức Đại Hương Cả? Mãi tới khi đi học trường huyện Ba Tri, Trần Hữu Nghiệp cũng mới nhận ra ở cái chế độ thuộc địa do người Pháp cai trị, những đứa trẻ có ba làm quan dù to hay nhỏ cũng rất “hãnh diện”, huống gì vị trí Đại Hương Cả như ông Trần Văn Nghĩa thì khỏi nói! Khỏi nói và hãnh diện thật. Ngày đó Trần Hữu Nghiệp, mỗi lần thấy ông Trần Văn Nghĩa mặc đồ áo dài lụa, đầu khăn đóng, tay cầm ô, chuẩn bị đi ra “nhà việc” là nhìn không chớp mắt. Trần Hữu Nghiệp ước ao có một ngày nào đó mình được mặc bộ đồ đẹp oai phong như thế, để khi bước chân ra khỏi nhà gặp ai trên đường họ cũng cúi đầu chào với ánh mắt ngưỡng mộ và kính cẩn. Trong trí nhớ của bà Trần Thị Thiềm, người cháu ruột của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cho biết: “Rồi cậu cũng toại nguyện, sau đó ông bà nội may cho một bộ để mỗi lần được đi theo ba cũng mặc, nhìn cậu sung sướng hãnh diện vừa đi vừa vung vẫy đôi tay, ánh mắt sáng ngời như chánh mình là một Đại Hương Cả”.

Hương Cả là người đứng đầu Ban hội tề xã gồm có 12 vị. Sắp theo thứ tự có sáu người đứng đầu, kể từ trên xuống có Hương Cả, Chủ sự, Trưởng, Chánh, Giáo … . Nơi làm việc của hội gọi là “Nhà việc”.  Ban hội tề họp nhau ở đấy, mỗi khi làng xã có việc cần. Cái nhà ấy nghe có vẻ nghiêm trang với thần dân thiên hạ. Bề ngoài nhà việc cũng rất bề thế mái lợp ngói phong tô, vách ván đóng bổ kho, cất trên nền đất bao bọc bốn bề bằng những tảng đá ong đỏ, giữa có bức vách chia làm đôi, phía trước có bộ bàn kỷ dài và hai bộ ván là nơi luận bàn của các ông làng. Mé sau làm chỗ ngủ của trùm và lính lệ. Nơi đây còn có lò ông Táo nấu nước và nấu ăn, bên cạnh là cái trăng dài có thể cùng một lúc đóng gông chân, ba bốn người nằm kế nhau dưới đất. Trên phên tre cao rộng làm vách ngăn có hình viên Toàn quyền Đông Dương, mặt gã râu ria xồm soàm, mũi lõ, da đỏ au như gà đá. Hay có khi họ treo ảnh viên quan Thống đốc Nam Kỳ, cắt từ báo ra cùng một số chỉ thị thông báo cho dân biết. Trên cột treo một chiếc đồng hồ quả lắc, ở góc nhà treo chiếc trống chầu mỗi đêm đều vang lên báo từ canh một đến canh năm, cho dân làng nghe và báo hiệu tàn canh bằng một hồi dài thùng thùng... . Không biết hồi đó ở Tân Thủy đã có ai mang đồng hồ đeo tay chưa, nhưng đồng hồ quả lắc treo tường do người Pháp sản xuất chỉ thấy ở những gia đình khá giả, trong đó có gia đình Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa là ba của Trần Hữu Nghiệp.

Oai phong bên ngoài của nhà “Nhà việc” bao nhiêu, thì bên trong lại hài hước bấy nhiêu. Ban hội tề đi họp, theo sự hiểu biết của Trần Hữu Nghiệp là cho có lệ, đến để ngồi chơi xơi nước hoặc tán gẫu linh tinh. Mọi công việc quan trọng có Hương Thân, Hương Hào và nhất là Xã trưởng xử lý. Nó quan trọng nhất ví như mọi loại giấy tờ, mua bán, cầu chứng đều phải có chữ ký của họ mới xong, đồng nghĩa với “chấm mút” có thể kiếm chác chút ít cũng là những loại người này, dù theo cấp bậc chỉ là em út các chức khác. Do vậy, thời Pháp chế độ cai trị ngoại bang có nhiều tật xấu, thói hư, nhưng cũng có cái rất sòng phẳng như chức Xã trưởng ai ai cũng thèm muốn, nên được đem ra bán đấu giá như một món hàng tại nhà Cai tổng. Phiên đấu giá tranh giành nảy lửa không kém phần gay cấn, sự sát phạt đó chẳng khác gì chơi bạc, vì vậy có một số ông “xã hụt” trở thành nợ nần bởi gặp đối thủ cao tay trả giá cao hơn vào ngày chót. Họ mất tiền, nhưng không thắng và tất nhiên đâu có đòi lại được, vì tiền vào túi các ông quận làm sao thu về. Nếu làm ầm lên làm sao có chứng cứ, còn kiện thì thằng trên đã ăn của đút thằng dưới rồi! Đây là nguồn gốc ân oán lặng lẽ, truyền kiếp của gia đình này với gia đình khác ở nông thôn.

Chức Đại Hương Cả của ông Trần Văn Nghĩa, cái chức đứng đầu trong 12 chức ở Ban Hội tề “có tiếng mà không có miếng” là vậy. Theo bác sĩ Trần Hữu Nghiệp ba mình giữ được liên tục trong nhiều khóa, có lẽ do bản chất hiền lành, thật thà, nên trong các cuộc tranh giành chức Xã trưởng, ông luôn đứng “ngoài vòng chiến”, không lên tiếng ủng hộ người này người khác, tùy quan trên quyết định. Một lý do khác, có lẽ ông Trần Văn Nghĩa là người có học thức nhất trong Ban Hội tề xã, nhưng theo bác sĩ Trần Hữu Nghiệp ba mình cũng chỉ biết đọc biết viết, làm được bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia mà thôi và nhà quê như vậy là oách lắm! Để chứng mình điều đó, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp kể lại một câu chuyện vui: “Tôi nhớ khá rõ trong nhà có treo một tấm bản đồ thế giới, nhưng chủ yếu để ông nhận ra nước nào, châu lục nào, trong đó Pháp là nước mẹ của Việt Nam”. Làm chức Đại Hương Cả, ông Trần Văn Nghĩa có thể giúp người dân đo diện tích các thửa ruộng hình chữ nhật, hình vuông, nhưng lại lờ mờ khi gặp mảnh đất hình thang hay hình tam giác. “Mãi về sau khi tôi lên học ở trường tỉnh, mỗi lần về thăm nhà, tôi bày cho ba cách tính hai loại đất đó. Ba tôi mừng và sướng lắm, rồi nói với tôi, bỏ tiền cho con đi học là đúng lắm!”.

Ông Đại Hương Cả, Trần Văn Nghĩa còn biết chút ít chữ nho, nhiều lần sau những bữa cơm tối ông hay giở cuốn lịch ra chọn giúp bà con lối xóm nhờ xem giùm cho con họ, ngày lành, tháng tốt để cưới vợ, gả chồng, hay dựng cột nhà. Ba Trần Hữu Nghiệp còn biết tiếng Tây, bà Phạm Thị Phường vợ ông Trần Văn Nghĩa còn nhớ một câu chuyện, vừa buồn cười lại vừa vui vui, nhưng hóa ra thật hữu ích. “Thời còn trẻ, lúc Tây vừa sang chúng mở trường dạy học ở Ba Tri, bắt con trẻ người Việt phải học tiếng Pháp. Rồi có trát gửi về các làng trong xã, trong huyện, gởi học trò đến học theo đúng qui định. Ngày đó ai cũng sợ học chữ Tây, nên nhà có nhiều tiền đều tìm cách trốn tránh”. Bà Phường nói: “Ông Nghĩa là con thứ trong gia đình ông nội, nên được hy sinh cho vào Ba Tri học mướn. Nhờ may mắn đó mà trong khi các Bác, các Chú đều chỉ biết lem nhem vài ba chữ nho, về sau bận rộn chuyện ruộng vườn cày cấy mà quên hết trọi, thì ông Trần Văn Nghĩa vinh qui bái tổ về làng không phải bụng chứa đầy Tam Tự Kinh hay Minh Tâm Bửu Giám của các thầy đồ, mà thuộc nhiều chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, lại biết cả bài Mạc xây dây (Marseillaise) là Quốc ca Pháp. Có học thức xoàng xoàng chữ Việt, nhưng lại giỏi tiếng Pháp nhất nhì Giồng Bông, nên dễ dàng đoạt chức Xã trưởng, rồi từ đó vinh thăng lên làm Đại Hương Cả ngon ơ suốt nhiều năm ở cái xứ Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre”.

*

Chuyện tình giữa ba và má, hồi nhỏ cho cả khi đủ hiểu biết nhiều lần bác sĩ Trần Hữu Nghiệp hỏi, nhưng đều bị gạt ngang “chuyện người lớn”, rõ ràng bà Phạm Thị Phường không muốn kể. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp chỉ phỏng đoán rất có thể đấy là mối tình đẹp, nhưng có chút “tình cờ” dẫn dắt. Đó là có thời gian ông Trần Văn Nghĩa sống học mướn ở Ba Tri, rồi quen biết gia đình ông ngoại là một nhà nho “bất đắc chí” làm nghề hốt thuốc Bắc, học chữ và học nghề bắt mạch với cụ Đồ Chiểu cùng xóm. Những ngày tháng năm đó, nhất định ông sống làm việc thế nào đó mới lọt mắt xanh cô gái trẻ Phạm Thị Phường, đặc biệt là thân sinh ra cô hẳn phải có cảm tình. Mặt khác cô thôn nữ đẹp, nết na, hiền lành, đã khuất phục được trái tim chàng trai trẻ quê ở Giồng Bông, chấp nhận đội trầu cau từ làng ven biển tổng Bảo Trị, vào làm rể ở một nhà trong xã An Bình Đông thuộc tổng Bảo An. Kỷ niệm lớn nhất, bà chịu nói ngắn gọn với Trần Hữu Nghiệp là câu chuyện chạy bão năm Thìn, gió giật từng cơn, mưa xối ào ào, tiếng sóng biển vỗ gành từ ngoài khơi xa đập vào cửa sông Hàm Luông, sông Ba Lai gầm thét, như muốn dập vùi cả xóm làng Tân Thủy, khi đó ông Trần Văn Nghĩa cõng người anh Hai chạy trong hoảng loạn chỉ sợ con mình bị gió cuốn, cây đè.

Tuổi thơ của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, còn phải nói đến chiếc xe ngựa rất quan trọng của ba mình gắn liền với chức vị Đại Hương Cả. Chiếc xe thường thường ông dùng đi Phú Lễ trụ sở của tổng Bảo Trị, để hầu thầy cai hoặc đi Giồng Giá gặp thầy phó có đạo công giáo. Nhưng thường nhất là thắng xe đưa má Trần Hữu Nghiệp đi chợ Ba Tri, thăm bà ngoại quá già và cô đơn vì ông ngoại đã mất từ lâu. Cả huyện Ba Tri thời ấy không ai có xe song mã, còn xe thổ mộ xa lạ với tỉnh Bến Tre. Bởi vậy, xe nhà ông Đại Hương Cả là loại đặc biệt ở vùng châu thổ Cửu Long Giang. Xe có lá chắn bùn bằng hai thanh gỗ mỏng uốn cong hình cung, mỗi lần đi chợ Ba Tri bà Phạm Thị Phường lại mở rương xe từ nắp bên trên (cũng có nhà gọi là giường xe) là thế, do mặt rương khá rộng. Bà lôi ra một bộ quần áo lụa đen xếp có lằn sâu để mặc, thời ấy trừ dân sang thì không ai biết xài bàn ủi. Trong bụng giường xe hình như chứa tất cả những gì quí nhất, trong đó phải kể đến bộ lư đồng, mấy tấm quần bàn và chấn thêu xanh đỏ rất đẹp, những thứ ấy chỉ lấy ra dùng trang trí bàn thờ ông bà tổ tiên vào ngày tết. Cảnh đó từ nhỏ đã được nhìn thấy ở nhà mình, làng xóm quê hương mình, nên tạo ra một phản xạ có điều kiện với bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, sau này lớn lên đi đâu, làm gì bất chợt gặp được ở đâu đó có bàn thờ vận quần bàn ở dưới, chấn treo bên trên là có cảm giác vui vui, nhớ ngày xưa lại sắp có những bữa ăn ngon kéo dài, pháo nổ vui tai, lại không bao giờ bị rầy la dù ta có tếu táo mấy đi nữa. Dẫu thế, bà Phạm Thị Phường có lúc cũng hay than thở với anh em Trần Hữu Nghiệp về cái xe ngựa, thường đưa chồng lên tổng, lên huyện thuộc loại “cà tàng” quá sức. Bà nói: “Gỗ xấu lại không đánh vẹc ni, bánh xe vòng sắt chạy trên đường đá nghe lọc cọc, cót két nghe đinh tai nhức óc, nhưng ba tụi bay nói với má: Miễn có xe đi là được, đẹp xấu chi bà ơi”. Nghe ông nói má lại bực bội phản ứng: “Người ta cũng làng tề như mình, lại còn kém cả chức ông là Đại Hương Cả mà đi hầu quan trên bằng xe đẹp, ngựa khỏe, chạy nhanh, bánh bọc cao su êm như ru!”. Ông nhìn vợ chỉ khẽ mỉm cười, rồi đáp cho qua chuyện: “được rồi”, xong bước nhanh đi chỗ khác. Anh em Trần Hữu Nghiệp hiểu lòng má vì thương ba thôi. Bà nói có lý, chính Trần Hữu Nghiệp nhiều lần theo ba theo má đi xuống thăm ngoại, khi đang chạy trên đường nghe phía sau leng keng chuông xe ngựa của người khác là ông chủ động ngừng ngay, rồi nép qua bên cho họ vượt lên, vì con ngựa già nhà mình bết quá. Trần Hữu Nghiệp ngày đó còn nhỏ, chuyện người lớn chỉ biết nghe càng không dám bàn bạc tham gia gì được hết, nhưng những gì mắt thấy tai nghe là hiện thực. Chẳng hạn sau một lần đi về tới nhà, ông Trần Văn Nghĩa tháo bộ bắc ké ra, rồi gọi Trần Hữu Nghiệp dắt con ngựa còm nhom mệt mỏi đi dạo lòng vòng chừng 15 phút, ông nói để nó giãn gân, giãn cốt trước khi đưa nó đi tắm.

Chuyện chiếc xe ngựa dẫu chưa được mãn nguyện so găng với thiên hạ cho lắm, nhưng ký ức của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp là vô cùng tự hào, vì trong xã đất Giồng Bông nhà có xe chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Chiếc xe ngựa còn là một tài sản hữu ích một công đôi việc, thứ nhất cho ông Trần Văn Nghĩa thường xuyên lên hầu quan huyện, quan tỉnh. Thứ nhì là cho thuê đi đám cưới, hoặc chở khách từ xã Tân Thủy vào chợ Ba Tri với giá hai cắc một đầu người, trên quãng đường dài chừng năm hay sáu cây số. Tuổi thơ bác sĩ Trần Hữu Nghiệp ngày đó có lúc thái quá đến “ngông cuồng”, mà khi lớn lên mới nhận ra sự thích thú đó có phần ấu trĩ, đó là mỗi lần khi xe chạy qua chợ xã Diệu, thuộc xã An Hòa Tây, nơi tập trung đông đảo dân cư nhất, Trần Hữu Nghiệp hay mượn roi ngựa của ba thọc cái cán vào bánh xe cho vang lên tiếng kêu lách cách thật to, như muốn báo cho hai bên bàng quan thiên hạ biết: “Hãy ra đây mà xem, ta đang ngồi trên xe ngựa nhà đi chợ, chớ không phải gồng gánh cuốc bộ như mọi người nè”.

Dấu ấn tuổi thơ quê hương Tân Thủy - Giồng Bông nơi sinh ra bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn có một cái đình rất đẹp, bên cạnh có cây đa cổ thụ. Điều này nói lên rất rõ bản sắc văn hóa của người Việt từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng thấy ở mỗi làng xã “cây đa, bến nước, sân đình” là vậy. Có điều bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng không biết rõ đình Tân Thủy có từ bao giờ? Lịch sử của nó ra sao? Chỉ biết mái lợp bằng ngói đất nung kiểu vảy cá, màu lá xanh rêu, cột đình làm bằng gỗ dầu, mỗi cột to gần bằng vòng tay người lớn ôm, thời gian làm nó lên màu bóng sẫm. Phải thừa nhận đây là một ngôi đình lớn, kiến trúc có năm gian hai chái đặc trưng dân tộc Việt không lẫn vào đâu thời Chúa Nguyễn Đàng Trong, hoặc xa hơn nữa văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Gian giữa có bàn thờ kiểu tam cấp, trên đó đặt nhiều bài vị theo chức sắc tiền nhân. Xung quanh bàn thờ chạm trổ tinh vi, rồng phượng, hoa lá, chim muông bốn mùa và khảm trai đẹp lấp lánh. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vẫn nhớ ngày nhỏ thường ra đây chơi với lũ trẻ nít trong làng, hoặc khi thì theo má, lúc theo các anh các chị vào ngày lễ tết, nhưng ít khi hỏi đình làng thờ người nào trong đó? Mãi lớn lên đi học trường huyện, trường tỉnh, đôi khi nghe lõm các bậc cao niên nói chuyện, mới biết đình làng thờ Thành Hoàng người có công đầu tiên đến vùng đất này khai khẩn, lập nên làng xóm người Việt ở Giồng Bông (Tân Thủy) đã qua mấy trăm năm. Góc đình có cây đa, nhiều người tin rằng nó cũng được trồng cùng lúc có ngôi đình Giồng Bông? Thân cây to lớn cả chục người giang tay vòng tròn mới khít. Cây đa cao đến hơn hai chục thước, cành lá bao trùm mặt đất tính ra vài trăm mét vuông. Cây đa là thực thể sống chứng tích của nhiều câu chuyện mang tính huyền bí, một chút nhuốm màu huyền thoại. Ví như nhà hiếm muộn con, hay thích sanh con trai, sanh con gái, người ta sắm lễ vật ra gốc cây đa có miểu thờ đốt nhang cầu xin thần cây phù hộ. Những chuyện ấy chỉ nghe qua không ai kiểm chứng, cũng khó lý giải mỗi khi có sự trùng hợp ngẫu nhiên thành công, nhưng những mảnh đạn găm vào thân cây bắn từ pháo hạm người Pháp ngoài biển vào, khi chiếm Nam Kỳ năm xưa thì vẫn còn đó. Tuy nhiên, cây đa là loài cây có sức sống mãnh liệt, bão táp phong ba không bao giờ quật ngã nó. Cây vẫn cắm chặt vào đất, nhờ đất cây lại đâm chồi vươn lên xanh tốt để trường tồn.

Trước đình có một cái sân chừng nửa công đất, nền lát gạch đất nung hình vuông, là nơi làng Giồng Bông thường xuyên tổ chức các sự kiện vui chơi vào các dịp lễ tết như múa Lân, đấu võ, kéo co, đá gà và chơi cờ tướng. Với Trần Hữu Nghiệp, trong tất cả các lễ lạt hồi tuổi thơ ông thích nhất là được xem hát Bội. Hát Bội là loại hình nghệ thuật phổ biến nhất ở miền Trung Việt Nam, phải chăng nguồn gốc người Ba Tri là lưu dân người xứ Quảng, mà Trần Hữu Nghiệp là con cháu mấy đời ngoài đó? Trần Hữu Nghiệp mê hát tuồng không thiếu một buổi nào, mỗi khi có gánh hát do làng mời về diễn trò. Nhà gần đình lại mê đến độ “cuồng nhiệt”, nên ra sân rất sớm chạy nhảy tung tăng, nhưng ít ai dám đuổi thằng nhóc này là con Đại Hương Cả, quyền lực nhất Giồng Bông Trần Văn Nghĩa.

 Trần Hữu Nghiệp còn biết cả hai ông Hương khả kính, dù không có tên biên chế trong Ban hội tề chính thức đó là Hương Lễ và Hương Quan. Hương Lễ là chức do Ban Hội tề phong cho để lo việc cúng đình, cúng chùa, cúng miểu, đến kỳ phải làm. Chính ông này là người đi mời các gánh hát bội về làng diễn trò đúng lúc cúng “Kỳ Yên”. Thằng nhỏ Trần Hữu Nghiệp khoái nhìn ông, mỗi khi được quyền Hương Cả cầm dùi đánh trống chầu phê phán một người hát dở, hoặc khen một người hát hay, theo cách cố định từ lâu mà bất cứ người cầm chầu nào cũng biết. Nhưng đôi khi Hương Lễ lịch lãm, phải nhường vinh dự ấy cho một cấp trên nào đó trong Ban hội tề hứng lên muốn cầm dùi đánh trống. Mỗi lần hát đình kéo dài ba đến năm ngày, hai suất mỗi ngày trưa và tối. Tối có đèn Măng sông sáng choang. Tuồng diễn bắt buộc phải có tuồng đồ “San hậu”, ngoài ra các kịch bản khác thì tùy gánh hát và đơn đặt hàng của địa phương. Hồi đó, ở Tân Thủy người ta thích xem tích tuồng đời nhà Thương “Hoàng Phi Hổ phản Trụ đầu Châu”, nhưng thông thường là đời Tam Quốc luôn xuất hiện có ông Quan Công. Báo hiệu mở màn bằng một tràng pháo nổ giòn, người yếu bóng vía có khi sởn gai ốc nhưng nặng về mê tín.

Người thứ hai, Trần Hữu Nghiệp thích là ông Hương Quan. Chức danh này được người Pháp phong, để phục vụ cho Chính phủ thuộc địa thời chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1919), nhà nước bấy giờ cần tiền nên mở nhiều đợt bán Quốc trái. Để tuyên truyền cho chiến dịch mua Quốc trái, họ đưa ra khẩu hiệu rất khêu gợi đánh vào tâm lý tình cảm lẫn kinh tế như: “Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc”, ai bỏ tiền ra mua Quốc trái tức gián tiếp giúp Đại Pháp thắng quân Đức, được quan trên thưởng cho chức “Hương Quan” hưởng trọn đời. Xã Tân Thủy có một ông Hương Quan như thế, đương nhiên ông ta rất giàu. Hai ông Hương nói trên ngoài Trần Hữu Nghiệp thích nhất là ông Hương Lễ, thì lũ con nít Giồng Bông cũng vậy, đơn giản vì chúng luôn được xem hát Bội và ngắm nhìn ông cầm dùi đánh trống chầu điêu luyện. Cái bóng ông Hương Lễ cao vọi, dưới ánh đèn Măng sông càng rực rỡ như vị tướng cầm trượng vung cao thúc quân xung trận. Còn ông Hương Quan có nhiều tiền để người nghèo mơ ước!

Thế nhưng, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp lại có cảm tình với người con trai ông Hương Quan đến mức “không bao giờ phai mờ”. Anh ta là Xã trưởng tên Duy, thường hay đến nhà hỏi ông Trần Văn Nghĩa việc này việc nọ. Anh Duy làm cả làng, cả xã, đương nhiên có cả Trần Hữu Nghiệp nể vì anh như một thiên thần đang bay, có thể di chuyển nhanh trên chiếc xe đạp hai bánh. Người ta nhìn theo anh Duy khi đang đạp xe, rồi tự hỏi: “tại sao anh ấy không té nhỉ?”. Cái xe đạp hấp dẫn cả người lớn lẫn con nít đến độ, khi nghe trên đường làng có tiếng chuông leng keng là bỏ hết cả việc chạy ra xem. Anh Duy có búi tóc trên đầu, không thấy anh đội chiếc nón lông chim trắng như ba Trần Hữu Nghiệp là Đại Hương Cả, khi đi nhóm mà là cái “cát” (casque) gỗ xốp phủ vải xanh lá cây, vành nón dài ra phía sau phủ luôn đầu tóc, nên bà con gọi nó là “mãng cầu”. Cái nón của anh Duy về sau có người dân chợ Ba Tri ác mồm, ác miệng đặt tên búi tóc của anh là “củ tỏi Hạ Châu”. Nhưng họ quên rằng chỉ có chợ huyện mới có “thầy hù”, tức là thợ hớt tóc mà thôi, còn ở thôn quê như Giồng Bông (Tân Thủy) bấy giờ làm gì có thầy hù. Hình ảnh anh xã trưởng Duy, trong mắt Trần Hữu Nghiệp cậu bé ngày đó mới lên sáu tuổi, anh ta đầu đội nón mãng cầu, mặc áo xuyến dài nhét hai vạt vào lưng quần trắng, chân mang giày hàm ếch, ngồi trên xe vừa đạp vừa cho chuông reo trông thật oai hùng lẫm liệt, không khác gì tuồng diễn tại đình làng Quan Công quất ngựa Xích Thố vượt qua ải Ngũ quan. Trần Hữu Nghiệp nói “cảm ơn anh Duy”, mỗi lần đi xe đạp đến nhà bàn công việc với ba là ông Trần Văn Nghĩa, để mình có cơ hội ngồi rờ rẫm chiếc xe và bóp chuông kêu reng reng, mà anh nhìn thấy chỉ cười không bao giờ rầy la. Rờ xe, ngắm xe, rồi bổng trào lên ước mơ một ngày nào đó mình cũng được ngồi lên chiếc xe đạp như anh Duy. Thế rồi mộng mơ cũng trở thành hiện thực, hơn mười năm sau, tức là qua hai kế hoạch ngũ niên khi lên học làm việc tại Sài Gòn, Trần Hữu Nghiệp cũng được ba mua cho một chiếc.

Một nhân vật nữa gọi là “ông Ống”, nếu như anh Duy Xã trưởng khiến Trần Hữu Nghiệp nể phục vì có cái xe đạp kỳ lạ, thì nhân vật này lúc đầu không mấy để mình ưa, nói đúng hơn là không mấy cảm tình vì có phần “bụi bặm”. Ông Ống có bộ râu lơ thơ, đầu luôn đội nón lá, nước da ngăm đen nổi chằng chịt gân guốc ở hai cánh tay. Nhưng trên vai đeo nhiều chiếc ống tròn dài bằng thiếc, lớn hơn ống cây tre trưởng thành một tí. Tên thực của ông là gì, vì không thích nên Trần Hữu Nghiệp không hỏi, mà trẻ nhỏ có hỏi cũng thấy sợ, nên cứ gọi ông là “ông Ống”. Nhiệm vụ của ông hàng ngày, khi đi tới mỗi xã trong tổng Bảo Trị gởi lại một ống. Sau này mới biết, trong ống đó người ta bỏ công văn, thơ từ và nhật trình xếp lại của quan trên. Mỗi ngày lúc hừng đông ông Ống đi từ Phú Lễ tại nhà thầy Cai tổng, lội bộ ra xã Vĩnh Hòa sang An Hòa Tây giao ống mới, nhận ống cũ. Qui trình đó thành luật, ông ghé nhà giao ống cho Đại Hương Cả ba của Trần Hữu Nghiệp, xã Tân Thủy và nhật trình gởi mua các ấn phẩm (trước là Nông Cổ Mín Đàm, sau là tờ Lục Tỉnh Tân Văn). Thời gian ông Ống đi khá chính xác, bao giờ đến nhà ông Đại Hương Cả cũng đúng vào lúc gia đình sắp dọn cơm ra ăn, tức là khoảng 10 giờ trưa. Trần Hữu Nghiệp nhớ, ba mình rất rộng lượng, thương người, gặp bữa nên mời ông Ống cùng dùng cơm luôn. Ông Ống im lặng không bao giờ từ chối, phủi phủi đôi bàn chân bám đầy bụi cát, rồi ngồi xếp bằng vào mâm nhập cuộc thản nhiên vui vẻ. Cơm nước xong, ông Ống tiếp tục lên đường đi ra xã Bảo Thạnh và trở về Phú Lễ, rồi để sáng hôm sau lại tiếp tục cuộc hành trình như cũ trên đoạn đường dài hơn hai mươi cây số. Cứ thế, ông Ống ăn cơm nhà Trần Hữu Nghiệp lặp đi lặp lại như một sự đương nhiên, khiến anh em trong nhà không ưa lắm, vì mỗi bữa cơm ông ăn ba chén đầy ú, nhưng nể ba má tụi nhỏ đành im lặng. Kỷ niệm về ông Ống tuy không đẹp, nhưng thời gian qua đi, cùng với sự biến đổi thăng trầm của thời cuộc đất nước, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp hay tin “ông Ống” đã mất từ lâu, bỗng nhiên thấy lòng ngậm ngùi thương xót. Cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống Pháp, chống Mỹ, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp chứng kiến, gặp gỡ nhiều người là chiến sĩ giao liên, công việc của họ ngày đêm âm thầm lặng lẽ, bất chấp gian khổ, bất hiểm nguy, vào ra vùng địch tạm chiếm, nhưng nhờ đồng bào thấu hiểu, cảm thông với nhiệm vụ cách mạng của họ, nên thường xuyên mời cơm như một cách giúp đỡ mà không hề tính toán thiệt hơn.

Tuổi thơ để lại cho Trần Hữu Nghiệp nhiều dấu ấn, nhiều kỷ niệm có lúc vui lúc buồn thật khó quên. Nhưng những con người như nhà văn Bùi Hiển tả cảnh trong tập truyện “Nằm Vạ”, xuất bản trước cách mạng tháng tám năm 1944, và Nam Cao trong quyển “Chí Phèo” xuất bản năm 1945, ở đất Giồng Bông là chưa từng có. Hai tác phẩm nổi tiếng ấy nhân vật chính là một điển hình của những điển hình trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp “cược” rằng các ông không hề “bịa”, nó có thật không dối trá dù người ta nói tiểu thuyết được quyền hư cấu. Rõ ràng chửi đổng cũng có sách, tức có bài hẳn hoi! Rồi Trần Hữu Nghiệp kể lại câu chuyện hồi còn sinh viên những năm 1935-1936, một hôm ngồi chờ xe lửa về Hà Nội tại một ga nhỏ miền quê đang mùa hè, bất ngờ nhìn thấy một bà trung niên mặc bộ đồ váy đen, áo nâu dầy cộp, tóc quấn khăn vải vòng quanh trên đầu thò cái đuôi gà phe phẩy. Người đàn bà đó có lẽ vừa ăn cơm chiều xong, một tay xách chiếc ghế, tay kia cầm quạt mo ra trước cổng ngồi, rồi đưa tay hứng cái bã trầu nhả ra từ trong miệng ném bừa sang bên, bà bắt đầu chửi đổng, (hình như một ai đó trong xóm bắt trộm gà nhà bà). Bài chửi giáo đầu bằng câu: “Vén rèm cho rõ, mở ngõ cho cao, để gió lọt vào mà nghe tao chửi”. Trời ơi, Trần Hữu Nghiệp bị hút ngay vào bài chửi dù chỉ mới vài câu dạo đầu. Bài chửi tiếp theo kéo dài cả tiếng đồng hồ, cho tới lúc nghe tiếng còi réo vang báo hiệu tàu đến, Trần Hữu Nghiệp phải vội vã lên tàu. Bài chửi hình như sau đó tạm dừng chốc lát, chờ con tàu đi qua rồi lại tiếp tục. Có điều thật tài tình, bài chửi dài như thế, ý tứ thâm sâu như thế, nhưng chẳng câu nào lặp lại câu bà tuôn ra trước đó. Do vậy, khi đọc Nam Cao tả cảnh chửi đổng của chí Phèo hai lần, lần đầu chửi trời, lần sau chửi đất, chửi đất chán đến chửi làng … . Nam Cao còn tả Chí Phèo chửi mướn cho Đội Tảo, rồi hăm dọa đốt nhà Bá Kiến. Tên đội này cậy thế mình là dân nhà binh, từng sang Pháp giúp nước mẹ đánh quân Đức tặc, chắc địa phương ai cũng nể.

   Ở xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, ngày xưa cũng có người đi lính cho Pháp rồi về hưu. Nhưng Trần Hữu Nghiệp khi còn nhỏ đến lớn lên đi học trường huyện, chưa gặp người nào như nhân vật Đội Tảo trong tác phẩm của Nam Cao. Từ đó có chút suy ra, trên mảnh đất khô cằn nghèo khổ này còn vang lên đời con nối tiếp đời cha, những chuyện kể về Phan Thanh Giản, về Nguyễn Đình Chiểu, hai vĩ nhân mà theo bác sĩ Trần Hữu Nghiệp là những người có nhân cách lớn. Cách đối nhân xử thế của họ Phan, một như gió Đông thổi vào lan tỏa khắp nơi hương thơm tinh thần dân tộc, còn Nguyễn Đình Chiểu như ngôi sao càng nhìn lâu càng tỏa sáng, cho ai muốn ngẩng cao đầu. Chính từ cái quê hương đó, Trần Hữu Nghiệp ra đi từ năm 10 tuổi, sau khi biết đọc, biết viết do cha mình dạy vào những lúc ban đêm, khi ông hết việc quan ngoài “Nhà việc”, hay việc đồng ruộng ông đã lo xong. Đầu tóc bánh bèo của Trần Hữu Nghiệp trải qua hai cuộc cách mạng biến thành đầu trọc, rồi sau khi đi học trở thành đầu “cúp ca rê”. Ba vậy, còn má sau khi xong việc với cái nồi ươm tơ kéo sợi, lại kể bao nhiêu tích chuyện cũ lấy từ truyện Tàu, từ sách chữ nho mà có lẽ do ông Ngoại thuật lại từ khi bà chưa lấy chồng.

*

Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp từng có thời gian ở nhà bà ngoại khi đó tóc bà đã bạc phơ, để theo học trường tiểu học mà thời đó là duy nhất cho nhiều xã tại thị trấn Ba Tri. Mỗi lần cha mẹ đến thăm bà, thăm con, cũng đem theo gạo, tiền và nhiều thức ăn khác, chỉ những ngày trường cho nghỉ hè, nghỉ tết, mới được về nhà chơi ở bên Tân Thủy. Học hết trường tiểu học huyện năm năm, rồi chuyển cấp lên học trường Trung học công ở tỉnh Bến Tre. Đây là lần đầu tiên Trần Hữu Nghiệp sống xa nhà nhất, vì từ Tân Thủy lên tới Bến Tre là trên ba chục cây số. Học được trường công là cả một vấn đề, vì muốn chiếm được một chỗ cũng không đơn giản. Thứ nhất, trò phải học giỏi và phải thi mới đậu. Thứ nhì, chỉ có con nhà khá giả, nhà giàu mới có điều kiện đi học, vấn đề này gia đình Trần Hữu Nghiệp là đủ dư sức. Học ở trường công, mọi trò đều phải sống chung tập thể và một tháng mới cho về thăm nhà một lần. Năm đầu nhớ nhà vô cùng, bữa ăn đôi khi nhàm chán lập đi lập lại khiến Trần Hữu Nghiệp thèm món nhộng tằm rang mắm, thèm canh nghêu mẹ nấu với rau sâm biển ngọt thơm béo ngậy. Nhớ nhà, nên chiều chủ nhật vào tuần cuối tháng Trần Hữu Nghiệp cũng thấp thỏm ngóng nhìn ra cổng, đợi chờ tiếng kêu leng reng và tiếng lọc cọc bánh xe ngựa của ba mình lên đón. Qua những năm lên lớp cao hơn cuộc sống sanh hoạt cũng quen dần, vì có nhiều bạn bè cùng lớp cùng cảnh ngộ. Thế nhưng, có một sự kiện bất ngờ xảy ra để trò Trần Hữu Nghiệp nhớ đời. Năm 1925, nghe tin cụ Phan Châu Trinh sau 14 năm hoạt động ở Pháp, hình thành nhóm “Ngũ Long” trong đó có Phan Văn Trường; Nguyễn Ái Quốc; Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền ra đời, và tiếp tục mục tiêu hướng phong trào yêu nước đòi độc lập dân tộc vừa về Sài Gòn. Những người mến mộ, nhất là học sinh nồng nhiệt chào đón Cụ. Tháng 11 năm đó, Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn về “đạo đức luân lý Đông-Tây”, và “quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, những bài của Cụ sau đó lan tỏa ra khắp cả nước, đặc biệt các vùng Nam Bộ được giới trí thức, nhân sĩ, học sinh, sinh viên vô cùng ngưỡng mộ. Nhưng sau hai lần tù tội, lại bị vắt kiệt sức nhiều năm ở xứ người gian khổ, Cụ Phan Châu Trinh gày yếu rồi lâm bệnh nặng. Đến ngày 24 tháng 3 năm 1926, lúc 21 giờ 30 phút, cụ Phan từ trần. Đám tang cụ Phan Châu Trinh nhanh chóng lan tỏa khắp mọi nơi, trở thành cuộc vận động ái quốc rộng lớn ủng hộ tư tưởng dân tộc, đòi độc lập thoát khỏi sự đô hộ của Pháp. Phong trào thu hút một lực lượng lớn học sinh, trong đó có trường trung học công tỉnh Bến Tre, nơi Trần Hữu Nghiệp đang theo học năm cuối cấp. Tuổi 15 với Trần Hữu Nghiệp, chỉ là một cảm xúc nhất thời hơn là một ý thức nhìn chân lý như một vì sao sáng. Càng không phải một lý tưởng đến mức quá sâu sắc, hay nói đúng hơn chỉ là thú vui cộng đồng của một đám trẻ?! Trần Hữu Nghiệp hăm hở, phấn khích, bước theo dòng người cùng nhiều học trò khác xuống đường, mà đám tang cụ Phan Châu Trinh cho những “người lớn” lấy đó làm cái cớ?! Cuộc tuần hành làm chấn động tỉnh lỵ Bến Tre suốt mấy ngày, có nhiều người bị bắt, đáng nói đám nhỏ của trường trung học công Bến Tre cũng có nhiều học trò bị đuổi học, trong đó có trò Trần Hữu Nghiệp.

 Mục Lục