.
ĐÔI ĐIỀU VỀ CUỐN SÁCH
TƯƠNG LAI VĂN NGHỆ VIỆT NAM
CỦA NHÀ VĂN TRƯƠNG TỬU
Nguyễn Đình Chú
Tương lai văn nghệ Việt Nam
không chừng là công trình tâm huyết nhất của nhà văn
Trương Tửu (lúc này chưa là giáo sư đại học) đối với nền văn nghệ
nước nhà, nhưng oái oăm thay, tác phẩm này đã phần nào gây tai nạn
nghề nghiệp cho tác giả.
Sách viết xong vào tháng bảy năm 1945, trước ngày
Cách mạng tháng Tám xảy ra. Nhưng lại in ra vào ngày 10 tháng 9 năm
1945, sau ngày Độc lập 2/9 tám ngày. Do đó, trên Tạp chí
Tiên phong của Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam, Thanh Bình chính
là nhà văn Đặng Thai Mai (lúc này cũng chưa là giáo sư đại học) đã
có bài “Phê bình tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam
của Trương Tửu” đăng ba số liền: số 2 ra ngày 1.12.1945, số 3 ra
ngày 16.12.1945 và số 6 ra ngày 16.2.1946. Bài phê bình khá “ráo
riết” (chữ dùng của Thanh Bình) nhưng chưa gây khó khăn gì cho tác
giả. Bởi sau đó, nhà văn Trương Tửu vẫn nhập thân vào thời đại mới,
vẫn bỏ nhà bỏ cửa, cùng gia đình đi kháng chiến và được cách mạng
trọng dụng, cùng với người đã phê bình mình trước đó − nhà văn Đặng
Thai Mai − là đồng bí thư Đoàn văn nghệ kháng chiến Liên khu IV, và
cùng được phong giáo sư đại học. Nhà văn Trương Tửu còn là giám đốc
các lớp văn hoá kháng chiến ở Thanh Hoá, uỷ viên ban chấp hành trung
ương Hội văn nghệ Việt Nam (1948-56). Hầu như mọi người chẳng ai
biết, và có biết cũng chẳng nghĩ gì về chuyện “Tương lai văn nghệ
Việt Nam” của giáo sư Trương Tửu từng bị giáo sư Đặng Thai Mai
phê bình trước đó nữa.
Nhưng đến năm 1958, trong phong trào chống Nhân văn –
Giai phẩm, khi nhà văn-giáo sư Trương Tửu bị qui kết nặng nề thì
“Tương lai văn nghệ Việt Nam” cũng bị gán cho cái tội “reo rắc
chất men bất phục tùng và phản kháng chính thể dân chủ nhân dân”.
(1)
Chuyện này xin để hậu thế phẩm bình. Ở đây, chỉ xin nói đôi điều về
cuộc phê bình (chứ chưa phải là phê phán) của Thanh Bình ngay sau
ngày Cách mạng tháng Tám 1945 mới xảy ra mà thôi. Bởi đây là cuộc
đụng chạm giữa hai người thầy của tôi: giáo sư Đặng Thai Mai và giáo
sư Trương Tửu, – mà tôi không thể không quan tâm xem sự thật nó là
gì.
***
Như nhiều người đã biết, trong vài chục năm gần lại
đây, không ít công trình của nhà văn-giáo sư Trương Tửu đã được in
lại trong các bộ sách lớn như Tổng tập Văn học Việt Nam,
Tuyển tập phê bình Văn học Việt Nam 1900-1945, Tranh luận văn nghệ
thế kỷ XX, Khoa học Văn chương, Nguyễn Du – về tác gia và tác phẩm,
Hồ Xuân Hương – về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Công Trứ – về tác gia
và tác phẩm…
Gần đây nhất, chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 95 năm ngày sinh của
giáo sư (2008), năm 2007, Tuyển tập nghiên cứu phê bình của
Trương Tửu dày trên 1.000 trang cũng đã ra mắt bạn đọc. Tuy thế, nếu
tôi không lầm thì vẫn chưa đâu in lại “Tương lai văn nghệ Việt
Nam”
mà ngay với tôi, tuy biết chuyện rắc rối của “Tương lai văn nghệ
Việt Nam” thì từ lâu vẫn chưa được tiếp xúc – mãi sau này, bạn
tôi, anh Văn Tâm, trước lúc qua đời một thời gian đã tặng tôi cuốn“Tương lai văn nghệ Việt Nam” và có ý đề nghị tôi, lúc nào có
điều kiện thì nói đôi điều về cuốn sách để người đời biết nó là gì
và nó bị phê bình ngay khi mới ra mắt bạn đọc là thế nào. Thú
thật, trước sự mong muốn của bạn Văn Tâm, tôi đã không tránh khỏi
chút e ngại vì lẽ này lẽ khác. Nhưng hôm nay thì tôi rất an tâm vì
chính vị sư phụ của tôi với bút danh Thanh Bình thuở ấy đã không chỉ
cho phép mà dường như còn khuyến khích tôi làm việc này khi đã kết
luận bài phê bình của mình rằng:
“Mấy lời trên đây chỉ là gom góp cùng ông Trương
Tửu một ít ý kiến về vấn đề văn nghệ mà thôi. Kỳ thực vấn đề còn để
cho chúng ta những chỗ thảo luận rất rộng rãi”. (Tiên phong,
số 6, ngày 16/2/1946, tr. 22).(2)
Sách “Tương lai văn nghệ Việt Nam” được công
bố theo kiểu “sách in dưới dạng báo” mà giới làm sách trước 1945
quen làm (để được hưởng giá mua giấy hạ hơn so với giá mua giấy in
sách kiểu chính quy). Đó là số 56 của tạp chí “Văn mới, cơ
quan kiến thiết Tân Văn Hóa”, ra ngày 10/9/1945, khổ sách
13x19cm, gồm 105 trang, sau lời “Tựa” của tác giả, là các nội dung
“Phần thứ nhất” và “Phần thứ hai”.
Phần thứ nhất: “Quan niệm Tân văn nghệ” gồm 4 chương
và kết luận:
Chương I: Yếu tố cách mạng
Chương II: Yếu tố xã hội chủ nghĩa
Chương III: Yếu tố quần chúng
Chương IV: Yếu tố khoa học
Phần thứ hai: “Kiến thiết tân văn nghệ”, gồm 3 chương
và kết luận:
Chương I: Những tiền đề của sự kiến thiết
Chương II: Những khả năng của văn nghệ Việt Nam
Chương III: Một chương trình hành động.
Nội dung sách rất phong phú. Ở đây, chỉ lược thuật
lại một số ý chính để bạn đọc có thể hình dung chút ít quyển sách là
gì.
Ở lời Tựa, mở đầu, tác giả viết:
“Giờ phút này, đứng trước trạng thái biến động mãnh
liệt của toàn thể nền văn minh thế giới, chứng kiến sự sụp đổ tan
tành của hầu hết những giá trị tinh thần mà bấy lâu nay phần đông
nhân loại vẫn tôn thờ, chúng ta – văn sĩ và nghệ sĩ – không khỏi
hoang mang lo lắng, băn khoăn suy nghĩ đến vị trí, đến trách nhiệm
của chúng ta trong hiện tại và tương lai. Chúng ta thấm thía thấy
rằng bao nhiêu quan niệm nhân sinh, bao nhiêu lý tưởng nghệ thuật mà
chúng ta hằng vươn tới và phụng sự đều đã bị nghiền nát dưới guồng
máy tiến hoá cấp tiến của lịch sử đang cuốn hút cả xã hội loài người
đến một ngày mai mới lạ. Cái “ngày mai” mong đợi này, chúng ta cũng
chưa biết rõ ra sao, nó sẽ xếp đặt lại cuộc sống của nhân dân theo
những quy tắc gì. Nhưng chúng ta vẫn tha thiết hoài bão rằng nó sẽ
không còn là sự tiếp tục theo đường thẳng của cái “hôm nay” đen tối
và chật hẹp; chúng ta vẫn thầm nguyện rằng cái ngày mai đó sẽ đem
lại cho chúng ta rất nhiều điều kiện để chúng ta được yêu cuộc sống,
yêu đồng loại, yên nghệ thuật, chân thành hơn, rộng rãi hơn như chưa
bao giờ chúng ta được yêu từ thuở nào đến thuở này”.
… “Những dòng dưới đây, tác giả viết ra không dám
có tham vọng vạch một lối đi cho bất kỳ văn sĩ nghệ sĩ nào. Đây chỉ
là lời bàn bạc chân thành của một người trong cuộc đem trình bày với
các bạn đồng hành trên con đường văn nghệ, để cố tìm lấy một ngả mà
theo cho tới đích, giữa cái ngã tư rối ren của lịch sử hiện
thời…
… Mong rằng những thiển kiến của chúng tôi sẽ kích
thích được những cao kiến khác ở các bạn Văn sĩ, Nghệ sĩ và ở tất cả
những bạn của Văn nghệ. Một ngày gần đây chúng ta sẽ gom góp
những sáng kiến của từng cá nhân, hợp nhau lại thảo luận thân mật và
sốt sắng, cố tìm thấy một con đường chân chính mà bước tới để kiến
thiết một Tân Văn nghệ cho Đất nước”.
(Lời nói đầu, tr. V-X)
Ngay ở đầu phần thứ nhất tác giả đã khẳng định:
… “Tân văn nghệ phải là một nền văn nghệ cách mạng.
Tân Văn nghệ phải là một văn nghệ xã hội chủ nghĩa. Tân văn nghệ
phải là một văn nghệ đại chúng. Tân Văn nghệ phải là một văn nghệ
khoa học”.(tr.
15)
Ở chương I thuộc phần thứ nhất, về “yếu tố cách
mạng”, tác giả đã có những ý tưởng như sau:
… “Ta không còn ngần ngại gì mà không quả quyết rằng
xã hội hiện thời đã lâm vào một tình trạng cách mạng cực kỳ là
gắt gao”.
(tr. 18-19).
… “Kẻ đi đầu, cương quyết nhất, sáng suốt nhất,
gan dạ nhất của toán quân thập tự khổng lồ ấy là giai cấp thợ thuyền
kỹ nghệ…[…] cho nên nó xứng đáng đóng vai trò lãnh đạo trong
cuộc tranh đấu cách mạng. Nó còn xứng đáng hơn nữa vì nó đã đào tạo
được trong hàng ngũ nó cả một đội tiên phong chiến sĩ tổ chức
thành chính đảng có qui tắc rất chặt chẽ và nhất là có một lý thuyết
cách mạng rất khoa học để làm kim chỉ nam cho mọi hành động”….
(tr. 21)
Từ nhận thức về cách mạng như thế, tác giả đã viết:
“Từ xưa đến nay, tinh tuý của Văn nghệ bao giờ chẳng
là tinh thần cách mạng? Văn nghệ là gì nếu chẳng phải là sự phản
kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại?
Nhưng chúng ta đến với cách mạng theo một lối riêng –
lối của chúng ta. Không giống các nhà hành động, không giống các nhà
tri thức, không giống các người cần lao, chúng ta đến với cách mạng
bằng tình cảm, bằng mỹ cảm. Nhà hành động đến đấy bằng cái ý muốn
kiến thiết lại một trạng thái sinh hoạt vô tổ chức; nhà trí thức đến
đấy vì khám phá ra quy luật khách quan của lẽ tiến bộ; người cần lao
đến đấy bằng cái nhu cầu bảo vệ quyền sống. Chúng ta đến đấy vì trái
tim: ta không chịu nổi sự bất công đầy rẫy, sự đau thương vô lý và
sự cuồng dại không bờ bến hàng ngày diễn ra trước mặt chúng ta; vì
cái khiếu thượng mỹ của chúng ta lúc nào cũng bị thương tổn, bị
khiêu khích, bị hành hạ bởi những hình thức xấu xa, mất thăng
bằng, mất hoà điệu của cuộc sinh hoạt xã hội. Chúng ta chống hiện
tại vì nó xúc phạm đến thế giới tình cảm và mỹ cảm – nghĩa là xúc
phạm đến văn nghệ. Chúng ta chống hiện tại vì muốn khôi phục cho
tình cảm và mỹ cảm quyền phát triển tự do và điều hoà mà chế độ tư
bản đang toả chiết, rầy đạp. Nói tóm lại, chúng ta gia nhập hàng ngũ
cách mạng là để giải phóng Văn nghệ. Văn nghệ chỉ có thể tự giải
phóng được bằng cách giải phóng cho con người ra khỏi sự đè nén cay
nghiệt của hiện tại. Trong lúc này, một nền Văn Nghệ xứng với tên
của nó phải xô đẩy người đương thời đến một thái độ “chống hiện
tại”, “phá đổ hiejn tại”. Về điểm này, các nhà lý luận văn nghệ và
các văn sĩ nghệ sĩ chân chính đều đồng ý kiến. Nhà xã hội học F.
Engels khuyên các văn nghệ sĩ nên sáng tác những tác phẩm có đủ
hiệu lực “bắt người đồng thời phải hoài nghi sự kiên cố của trật tự
hiện tại”. Nhà văn hào André Gide yêu cầu các văn sĩ và nghệ sĩ
“gieo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản
kháng”
(tr. 24-25)
Về yếu tố “xã hội chủ nghĩa” tác giả có đoạn
viết:
“Hiện nay lực lượng sản xuất của xã hội tư bản đã
phát triển dẫn đến trình độ muốn phá vỡ chế độ tư hữu hiện tại và
đang đòi hỏi khẩn cấp một chế độ tập sản (của chung) […] Cái hình
thức tương lai của xã hội tư bản phải là hình thức tập sản chủ
nghĩa[…] Cái sự trạng chế độ tập sản đang ở chế độ tư hữu nứt ra của
xã hội hiện tại, ta gọi nó là yếu tố xã hội chủ nghĩa của thời đại.
Muốn đi thuận với trào lưu tiến hoá, cái ảo kiến của văn sĩ và
nghệ sĩ chúng ta phải đồng màu sắc, đồng tính chất với hình thức
sinh hoạt tương lai ấy (hình thức tập sản) […] Chúng ta phải
nhập thân với quá trình dịch hoá của xã hội và hoà cái năng lực sáng
tạo cá nhân của chúng ta vào cái năng lực sáng tạo nội tại của Đại
toàn thể, của Lịch sử. Tất cả chế độ hiện tại đang bước từng bước
dài đến chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta, văn sĩ và nghệ sĩ cũng
phải theo con đường lịch sử ấy”.
(tr. 40-41, 42)
Về “yếu tố quần chúng” tác giả có đoạn
viết:
“…. trên con đường kiến thiết ngày mai, chỉ có quần
chúng vô sản kỹ nghệ là biểu thị được trung thành nhịp điệu của lẽ
tiến hoá. Nó có trách nhiệm lớn nhất trong cuộc chống đối với hiện
tại. Nhiệm vụ lịch sử của nó là đi đầu, dơ cao lá cờ xã hội chủ
nghĩa, cuốn hút quần chúng nông dân và các quần chúng lao khố khác
vào phong trào đấu tranh để sáng tạo ra một nhân loại mới” .(tr.
51-52)
“Lẽ sống của chúng ta – của văn nghệ – là đi vào
đại chúng, sát cánh với đại chúng trong cuộc chiến đấu xã hội và
nâng cao ý thức xã hội chủ nghĩa trong tâm hồn đại chúng”.
(tr. 52)
Những tác phẩm mà chúng ta sẽ sáng tạo ra phải nhúng
trong Lửa máu của Đại chúng”.
(tr. 57)
Về “yếu tố khoa học”, tác giả cũng có đoạn
viết:
“Thế kỷ của chúng ta không chỉ là thế kỷ của cách
mạng, của xã hội chủ nghĩa, của đại chúng mà còn là thế kỷ của khoa
học nữa”
(tr. 58) “Muốn
đi chung một con đường với giai cấp vô sản và quảng đại quần chúng,
muốn bước cùng một nhịp với luật tiến hoá của thế kỷ, văn sĩ và nghệ
sĩ chúng ta cần phải nỗ lực tự đào luyện lấy một tinh thần khoa học
bền vững và sâu sắc” (tr. 66)
Ở phần thứ hai: Kiến thiết Tân Văn Nghệ, với 3
chương, tác giả đã nêu lên: Những “tiền đề của sự kiến thiết”
là:
- Thứ nhất: sự hình thành Nhóm Tân Văn nghệ
- Thứ hai: sự độc lập hoàn toàn của xứ sở.
- Thứ ba: Tự do chính trị tối thiểu của dân chúng (tự
do hội họp, tự do lập hội đảng, tự do ngôn luận, tự do báo chí).
“Một chương trình hành động” gồm 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất làm các việc:
a) Phát huy quan niệm Tân Văn nghệ.
b) Cổ động cho phong trào Tân Văn nghệ.
c) Sáng lập Đoàn kiến thiết Tân Văn nghệ.
Thời kỳ thứ hai thực hành công việc theo bốn hướng:
a) Nghiên cứu và phổ thông Tân Văn nghệ quốc tế.
b) Phê bình văn học và văn nghệ theo quan điểm Tân
Văn nghệ.
c) Lập một hội tuyên truyền Tân Văn nghệ.
d) Liên lạc mật thiết với các cơ quan quần chúng.
Thời kỳ thứ ba, làm các việc:
a) Tổ chức một hội nghị toàn quốc Tân Văn nghệ.
b) Liên lạc với các cơ quan Tân Văn nghệ ở các nước
khác.
c) Tham gia vào hoạt động Tân Văn nghệ quốc tế.
Riêng ở mục (d) thuộc nội dung hoạt động của thời kỳ
thứ hai “Liên lạc mật thiết với các cơ quan quần chúng”, tác
giả đã có đoạn viết: “Đoàn hành động sẽ
không theo mệnh lệnh của một Đảng phái nào, chỉ theo sự quyết định
của đa số đoàn viên. Nhưng Đoàn cũng sẽ không từ chối một cách tuyệt
đối sự hợp tác thực tiễn với những đảng nào, xét ra là đại diện cho
quần chúng và đấu tranh dưới lá cờ xã hội chủ nghĩa”
***
Với nội dung của “Tương lai văn nghệ Việt Nam”
(mà ở đây tạm tóm tắt sơ qua như trên), Thanh Bình đã phê bình như
thế nào?
Trước hết là một nhận xét bao quát:
“Đáng tiếc là ông Trương Tửu chưa hề lĩnh hội vấn đề
văn nghệ một cách đầy đủ và đến nơi đến chốn để đem lại cho chúng ta
một chương trình thiết thực. Tập luận án của ông Trương Tửu thực quá
mông lung về phần lý luận; và khi bàn đến chương trình hành động lại
có ý kiến quá tỉ mỉ, quá “máy móc” và sao nhãng hẳn những điểm rất
cần thiết cho sự xây dựng một nền văn nghệ mới”.(Tiên
phong, số 2, ngày 1/12/1945, tr. 7)
(3)
Từ nhận xét chung đó, Thanh Bình phản bác quan niệm
của Trương Tửu về khái niệm Văn nghệ là gồm văn sĩ và nghệ sĩ. Trong
khi, theo Thanh Bình “Văn nghệ chỉ là một
mặt của văn học. Nó cũng chỉ là một ngành của văn hoá. Văn
nghệ – nghĩa là văn học xét theo quan điểm nghệ thuật”.
Thanh Bình nhận xét:
“Trong phần lý luận văn nghệ, ông Trương Tửu
không hề chỉ rõ những vấn đề cơ bản của văn nghệ, như là điều kiện
quyết định, lịch sử diễn tiến của tư trào văn nghệ, không hề đả động
đến ý nghĩa nghệ thuật và xã hội của các văn phái xưa nay. Ấy là một
khuyết điểm lớn của tập sách. Văn nghệ chỉ là một trạng thái của ý
thức hệ. Nếu không định rõ đặc tính của văn nghệ thì làm thế nào mà
chỉ định phương hướng cho sự cố gắng của nhà văn nghệ trong lĩnh vực
văn học, trong lĩnh vực nghệ thuật? Cái mới chỉ là một sự trạng
tương đối với cái cũ. Nếu không chỉ rõ đặc sắc cái cũ thì làm sao mà
thấy rõ được các đặc sắc của cái mới? (Tiên phong số 2,
ngày 1/12/1945, tr. 8)
(4)
“Sở dĩ người đọc có cái cảm giác thất vọng sau khi
đọc ông Trương Tửu, một lẽ chính là vì bốn chương đầu này chỉ là mấy
bài luận đầy những lời phiếm, những công thức trống rỗng, không
thiết gì với văn nghệ. Nhưng ngay trong phạm vi đại quan, người ta
vẫn thấy những chỗ nông nổi của một lối lập luận không có lập trường
vững chắc. Thích nghĩa hai chữ “văn nghệ” là gì, nếu không phải là
sự phản kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại”. Câu giới
thuyết đó không phải riêng gì cho văn nghệ, nhưng nó cũng chỉ đúng
được một phần thôi”.
(Tiên phong số 2, tr. 8-9)
… “nói đến sự mâu thuẫn giữa tinh thần nghệ thuật với
thực tế, với hiện tại thì sự phản kháng đó bao giờ cũng phải tiến
triển theo trình độ sinh hoạt của tập đoàn và trong văn nghệ, phản
kháng tức là kiến thiết, là sinh hoạt. Trong một xã hội đầy những
mâu thuẫn thì văn nghệ phản kháng vẫn không thể không chú ý đến sự
hay sự dở của những văn nghệ truyền thống và công trình kiến thiết
của các giai tầng thống trị ngày xưa. Trong một xã hội không còn mâu
thuẫn nữa thì tính cách phản kháng với hiện thực cũng sẽ phải biến
đi, phải khác đi. Cho nên một khuyết điểm nữa trong quan điểm của
ông Trương Tửu là ông ấy chưa hề định nghĩa hai chữ “thực tại”
… “Ông Trương Tửu không nói gì đến vấn đề dân tộc có
lẽ là vì ông thấy đã có người nói đến rồi chăng? Nhưng nếu không có
tính cách dân tộc thì cái đại chúng đó là đại chúng nào? cuộc cách
mạng và chủ nghĩa xã hội của ông lấy gì làm căn bản”.
(Tiên phong số 2, tr. 9)
(5)
Với phần thứ hai của sách, về ý kiến của Trương Tửu
về “quyền tự do chính trị tối thiểu”, Thanh Bình đã nói lại
như sau:
“ Tự do – tự do cá nhân, tự do nghệ sĩ, tự do tuyệt
đối, hay lắm, đẹp lắm. Nhưng nước nhà chưa tự do thì nhà nghệ sĩ tự
do thế nào? Nói cho cùng, nếu như nước nhà được độc lập, được “giải
phóng hoàn toàn” và có một chính thể “dân chủ chân chính” thì nhà
nghệ sĩ nào không được tự do?... Một điều chắc chắn là chữ tự do nếu
lại hiểu lầm thì là một điều nguy; chữ tự do, nếu để cho một lũ đĩ
bút mực lợi dụng để phản cách mạng thì lại càng nguy nữa”
(Tiên phong số 3, ngày 16/12/1945, tr. 8)
(6)
“Vấn đề chính trong câu chuyện tổ chức Tân Văn nghệ
phải lĩnh hội theo một quan niệm khác hẳn (…) Ông Trương Tửu muốn
rằng: Đoàn Tân văn nghệ của ông sẽ không theo mệnh lệnh của một đảng
nào hết mà chỉ theo sự nghị quyết của đa số đoàn viên. Nhưng cái
đoàn đó sao lại nhất định không có thể có công tác nào ở trong đảng?
Nếu như công việc của đảng cần đến đoàn, nếu như tiền đồ cách mạng
của dân tộc, của đại chúng cần đến sự cộng tác thì thế nào? Sao sự
hợp tác lại “chỉ có thể xảy ra một cách hãn hữu” thôi? (…) Ông
Trương Tửu cũng biết rằng: Gooc-ky (M. Gorki) và trăm nghìn vạn nhà
văn sĩ, nghệ sĩ khác ở Nga ngày nay đều là đào luyện trong hàng ngũ
đại chúng, trong kỷ luật của đảng cách mạng ra. Nghệ thuật ở Tàu
trong khoảng mười năm sau đây cũng vậy”.
(Tiên phong số 3, ngày 16/12/1945, tr. 9, 10)
(7)
Trước những lời phê bình “Tương lai văn nghệ
Việt Nam” như trên, hôm nay, trong điều kiện tư tưởng, học thuật
đã có phần được cởi mở hơn, chúng ta nghĩ gì?
Riêng tôi, là học trò của hai thầy, xin có mấy ý kiến
sơ qua như sau:
1. Thứ nhất: Nếu “Tương lai văn nghệ Việt Nam”
lại không phải là Việt Nam, mà của một nước nào đó thì chắc chẳng có
gì là rắc rối. Nhưng ở đây là của người Việt Nam, viết về tương lai
văn nghệ Việt Nam trên đất nước Việt với hoàn cảnh lịch sử cụ thể
Việt Nam thời đó thì việc nó bị phê bình, kể cả phê phán, cũng là
điều dễ hiểu. Vả chăng, tuy nó viết xong vào tháng bảy 1945 nhưng
lại in phát hành vào ngày 10-9-1945 thì có chuyện cũng là điều dễ
hiểu, bởi nó thuộc quy luật tiếp nhận tác phẩm rất phức tạp liên
quan đến mối quan hệ giữa tác phẩm với cuộc sống mỗi thời mỗi khác
và người tiếp mỗi người mỗi khác.
2. Thứ hai: Việc phê bình “Tương lai văn nghệ Việt
Nam” của Thanh Bình là xuất phát từ yêu cầu khẳng định quyền
lãnh đạo toàn diện trong đó có văn nghệ của đảng cộng sản Đông Dương
mặc dù lúc này Đảng chưa ra công khai nhưng ai cũng biết là có Đảng
đã ra đời từ năm 1930 và đã chớp được thời cơ làm nên cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công và vừa tuyên bố độc lập cho Tổ quốc Việt
Nam trước khi “Tương lai văn nghệ Việt Nam” của Trương Tửu ra
mắt người đọc 8 ngày. Thanh Bình đã làm cuộc phê bình này với động
cơ chính trị như thế. Trên tạp chí Tiên phong cũng còn có các
vị khác cùng làm nhiệm vụ đó là Nguyễn Hữu Đang, Hồng Lĩnh, Nguyễn
Đình Thi, nhưng đúng là không ai có cái tư thế học giả như Thanh
Bình. Đọc lại bài phê bình của tác giả thấy rõ điều đó. Với tư thế
này, quả thấy Thanh Bình đã nói đúng một số hạn chế của “Tương
lai văn nghệ Việt Nam” ví như: Việc nêu ra 4 yếu tố không hẳn là
sai nhưng vẫn thiếu một cái gì cần riêng cho văn nghệ. Bởi 4 yếu tố
đó là chung cho văn hoá chứ đâu chỉ cho văn nghệ. Đã thế lại thiếu
yếu tố dân tộc, vốn là một phẩm chất quan trọng hàng đầu của văn
nghệ Việt Nam. Ví như: đã cực đoan trong khi đeo đuổi khát vọng xây
dựng Tân Văn nghệ mà chưa bình tĩnh xem xét một cách đến nơi đến
chốn vấn đề cũ mới trong lĩnh vực văn nghệ, nghệ thuật vốn là phức
tạp, có quy luật riêng không giống với nhiều lĩnh vực khác đặc biệt
là chính trị. Nói cho công bằng thì khuynh hướng cực đoan, thiên về
sự phủ nhận cái cũ, chỉ lo khẳng định cái mới cũng đã bộc lộ khá rõ
thời đó trong “Đề cương về Văn hoá Việt Nam” 1943 của Đảng
Cộng sản Đông Dương, được in lại ở tạp chí Tiên phong số 1
ngày 10/11/1945 sau “Tương lai văn nghệ Việt Nam” đúng 2
tháng. Đề cương này chẳng đã viết:
“Tranh đấu về học thuật, tư tưởng (đánh tan
những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng
tai hại ở ta: triết học Khổng Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son
(Bergson), Căng (Kant), Nit-sơ (Nietzsche)... làm cho thuyết duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Tranh đấu về tông phái văn nghệ
(chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,
chủ nghĩa tượng trưng…. làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa
thắng”.(Tiên phong số 1, ngày 10/11/1945,
tr. 21)
(8)
Kể
cả ở bài “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam
mới lúc này” của Tr. Ch. (Trường Chinh) viết ngày 23/9/1944,
cũng được in lại ở Tạp chí Tiên phong số 2 (1/12/1945) cũng
có khuynh hướng đó khi viết:
“Văn nghệ hợp pháp hầu hết bội phản tinh thần dân tộc
độc lập. Hình thức văn nghệ hết theo lối Tống Nho câu nệ, cổ kính
lại học đòi lối Pháp một cách lố lăng.(...) Những sản phẩm văn hoá
của thời phong kiến Việt Nam để lại, phần nhiều đầy tính cách duy
tâm, thần bí, phản khoa học (…) văn hoá hợp pháp Việt Nam hiện nay
mang ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn: phản dân tộc, phản khoa học,
phản đại chúng (…) Bổn phận các nhà văn hoá cấp tiến Việt Nam, bất
cứ ở giai cấp nào, là phải kịp lập một mặt trận chống ba căn bệnh
của văn hoá Việt Nam hiện tại”.(Tiên
phong số 2, ngày 1/12/1945, tr. 3).
(9)
Đúng là hiện tượng cực đoan, thiên về phủ nhận quá
khứ chẳng riêng gì ở một Trương Tửu trong “Tương lai văn nghệ
Việt Nam”. Có lẽ ở đây, Đặng Thai Mai mới là người không rơi vào
hạn chế đó khi bàn về vấn đề cũ mới trong việc xây dựng nền văn nghệ
mới.
Riêng đối với quan niệm của Trương Tửu
chung quanh
các vấn đề văn nghệ là chất men phản kháng, vấn đề tự do, vấn đề
Đoàn văn nghệ “hành động không theo mệnh lệnh của một đảng phái nào,
chỉ theo sự quyết định của đa số đoàn viên”... thì những lời phê
bình của Thanh Bình là đáp án đương nhiên đúng trong phạm vi công
luận từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay ở Việt Nam ta, và cho đến
nay dường như vẫn đơn giản chỉ có một đáp án ấy. Nhưng đối với thế
giới và không chừng đối với cả tương lai thì chắc không đơn giản như
thế. Những lời phê bình của Thanh Bình đối với Trương Tửu chung
quanh các vấn đề này hồi ấy xem ra không lấy gì làm nặng nề như về
sau, trong một không khí khác, và khi những người phê phán Trương
Tửu là các ông Văn Tân, Hoài Thanh, đặc biệt là.
3. Cuối cùng, có chuyện này không thể không nói vì
với tôi có phần ngạc nhiên là té ra bài phê bình “Tương lai văn
nghệ Việt Nam” của giáo sư Đặng Thai Mai đối với giáo sư
Trương Tửu lại không chỉ là phê bình mà còn có chỗ là một sự biểu
dương nồng thắm một khi đã có những dòng chữ trong phần ba như sau:
“Tôi rất vui lòng nhận thấy trong tập sách
T.L.V.N.V.N. những lời nói chan chứa nhiệt tình đối với văn học và
nghệ thuật, những cảm tình tha thiết đối với một giai tầng dân
chúng, và sự tin tưởng đối với tương lai văn hoá dân tộc. Ông Trương
Tửu đã từng sống những giờ băn khoăn, những đêm “mắt cay, cay cả đến
tâm hồn”(tr. 104). Ông đã bất mãn với thực tế với hiện tại văn nghệ,
vì ông thấy rằng mối “cảm thông đã đứt đoạn giữa đại chúng và nghệ
sĩ” (tựa, tr. VIII) (…) Nhưng ông Trương Tửu không hề thất
vọng. Ông đã “mang nặng trong tâm hồn cái nguyện vọng tốt đẹp của
một nhà văn hoá đối với tiền đồ văn hoá. Hơn nữa, ông cũng “muốn
tích cực tham gia” vào công cuộc gây dựng nền văn hoá mới”(…)
Thiên kết luận của tập sách là một “ tiếng gọi bạn” chan chứa nhiệt
tình. Nếu như tôi đã phê bình khá ráo riết tập sách ông Trương Tửu
về phần lý luận và cả phần thực hành nữa thì ở đây, tôi cũng rất vui
lòng và thành thực nhận rằng: trong tâm hồn nhà lý luận Trương Tửu,
một thi sĩ vẫn luôn luôn nhí nhóm và lắm lúc thổ lộ được những câu
trữ tình khá lâm ly (…) ngòi bút ông Trương Tửu vẫn còn nhiều hứa
hẹn với tương lai…”.(Tiên
phong số 6, ngay 16/2/1946, tr. 19-20).
(10)
***
Để kết thúc bài viết này, tôi chỉ muốn nói lời cảm
phục bậc sư phụ của mình là đã để lại cho đời một mẫu mực trong văn
hoá tranh luận. Văn hoá tranh luận là phải như thế đấy. Phải làm cho
ra nhẽ nhưng là trên cái nền tảng tôn trọng nhau. Còn phần đúng sai
trong văn chương học thuật thì ai dám nói tiếng nói của tôi là tiếng
nói cuối cùng? Mong rằng hiện tượng phê bình theo kiểu mà mấy ai đó
đã làm với nhà văn-giáo sư Trương Tửu thời kỳ chống Nhân văn –
Giai phẩm chỉ là hiện tượng thần kinh không bình thường trong
nhất thời mà thôi. Chỉ tiếc là hôm nay, các vị đã không còn trên
dương thế này để tự điều chỉnh mình vì các vị đâu phải là người
nghèo nhân cách và trí tuệ?
Riêng với giáo sư Trương Tửu, ở thế giới bên kia,
thầy sẽ nghĩ gì khi có bài viết này của người học trò năm xưa của
thầy mang tên Nguyễn Đình Chú. Và bạn Văn Tâm nữa. Ở thế giới bên
kia bạn có nghe tôi đang nói về “Tương lai văn nghệ Việt Nam”
của người thầy chúng ta mà trước lúc qua đời bạn muốn tôi có tiếng
nói?
Yên Hoà thư trai
Nhân dịp kỷ niệm 95 năm sinh của
nhà văn – giáo sư Trương Tửu (2008)
(1)
Bùi Huy Phồn: Trương Tửu, một tên phản cách mạng đội lốt
mác xít // Tạp chí Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958
.
(2)
Trích theo sách: Sưu tập trọn bộ “Tiên phong” 1945-1946
/ Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận sưu tầm / Nxb. Hội Nhà Văn, Hà
Nội, tập I, 1996, tr. 258.
(3)
Trích theo sách: Sưu tập trọn bộ “Tiên phong” 1945-1946
/ Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận sưu tầm / Nxb. Hội Nhà Văn, Hà
Nội, tập I, 1996, tr. 65.
(7)
Sách trên, tr. 111-112.
(9)
Sách trên, tr. 60, 61.
(10)
Sách trên, tr. 255-256.
Trở
về "Hồ sơ Trương Tửu"
Trở về trang "Văn hóa & Giáo dục
|