ĐÔI DÒNG MUỘN MẰN KHÓC
TIỄN ĐƯA
Tương Lai
Đang bệnh, phải nằm viện,
rồi về nằm nhà đã mấy tháng, không mở được máy tính thường xuyên, chỉ
tuần đôi ba lượt mở ghi vài dòng để khỏi quên về một bài viết nhân những
ngày nằm bệnh, sau đó cố gắng cập nhật một số thông tin do bạn bè trong
ngoài nước gửi cho. Sáng nay mới nhận được tin anh Phan Ngọc đã mất.
Lặng đi trong bùi ngùi thương nhớ. Lặng đi trong tâm trạng hối hả của
tuổi 85 với cái hạn “năm
Tuổi” khi chợt đọc tin nhà văn hóa Nhữ Thành, người bạn vong
niên mà tôi đối xử như một người thầy, đã
không còn nữa rồi!
Thế là cả ba người bạn quý
mến mà tôi hết lòng kính trọng, Phan Ngọc là người cuối cùng trong “cổ
học tam kiệt” [Nguyễn
Tài Cẩn, Trần Đình Hượu và Phan Ngọc] đã bước vào cõi vĩnh hằng. Họ đã
là người “muôn
năm cũ” mà Vũ Đình Liên từng viết đầu thế kỷ 20. “Cổ
học tam kiệt” cũng là theo một cách riêng là “sản
phẩm một thời” để lại dấu ấn lịch sử khó quên của cánh sinh viên Đại
học Tổng hợp Hà Nội buổi ấy ngưỡng mộ tài năng của thầy mình, từ truyền
miệng đến thành văn, thành danh ngôn về “tam
kiệt”, về “tứ
trụ”! Theo riêng cảm nghĩ của tôi, có lẽ đó cũng còn là cách mà
lớp trí thức trẻ phản ứng lại với cách nhìn nhận tài năng của người trí
thức qua cái gọi là “lập trường
tư tưởng” là “tính đảng”
cực kỳ hàm hồ áp đặt, mang tính cực quyền hết sức thô bạo.
Những
nhà khoa học có truyền thống gia đình là trí thức, giàu lòng tự trọng
như Phan Ngọc đương nhiên không thể không cưỡng lại sự áp đặt thô bạo,
động chạm đến nhân cách của người trí thức.
Phan Ngọc với bút danh Nhữ Thành đã nối dài với những tác phẩm lừng danh
đông tây. Những tác phẩm này thật ra đã hoàn thành nhiều năm trước nhưng
vẫn phải chất trong tủ, nằm trong ngăn kéo. Nhờ đôi mắt xanh cùng với
tấm lòng nhân hậu và bản lĩnh của anh Lý Hải Châu, Giám đốc Nhà Xuất Bản
Văn học, những bản dịch công phu với bao tâm huyết của Phan Ngọc mới
được xuất bản, được bày trên kệ sách và đến được độc giả .
Từ
Sử Ký của Tư Mã Thiên đến
Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần
mà ông là đồng tác giả. Là
chủ biên,
dịch và giới thiệu Shakespeare, đến
tham gia với ba người bạn
cùng dịch “Chiến
tranh và Hòa bình”
của L.Tonxtoi
và bao nhiêu tác phẩm có giá trị khai sáng khác.
Khi một mình dịch “Hàn
Phi Tử” ông có dụng ý rất rõ ràng.Vào những năm 80 ấy, ông nói
với tôi. “Rồi ông sẽ đọc cuốn
sách viết cách nay 2300 năm để giật mình về tính hiện đại của nó”.
Và tôi mở “Hàn
Phi Tử” của ông vừa dịch. Mấy ngày nghiền ngẫm, gấp sách lại,
đúng là tôi đã bàng hoàng về bản dịch của nhà văn hóa Phan Ngọc làm lay
động ngững suy tư, dằn vặt của tôi về thời cuộc. Sau một tuần nghiền
ngẫm lại tác phẩm, tôi ngỏ ý mời anh đến Viện tôi trình bày cho đông đảo
cán bộ nghiên cứu cùng nghe. Đây là một buổi sinh hoạt học thuật hấp dẫn
và cuốn hút, để lại trong người nghe những cảm nhận sâu lắng. Đương
nhiên vào buổi ấy, tổ chức cho Phan Ngọc
giới thiệu về Hàn Phi Tử,Trần
Đình Hượu giới thiệu về “Theo
con đường Phương Đông đi lên Chủ nghĩa xã hội” không phải là
không có những điều gọi là “nhạy cảm” và ông Nguyễn Duy Quý phải cho thư
ký về theo dõi! Không phải theo dõi về nội dung mà theo dõi trước hết là
người tổ chức.
Phan Ngọc có nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá
trị, có cuốn mang ý nghĩa mở đường cho một hướng tìm tòi như “Thức
nhận về Văn hóa Việt Nam”,
“Giải
thích văn học
bằng ngôn ngữ học
“
và nhiều tác phẩm có giá trị khác như
Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Văn hóa Việt Nam một
cách tiếp cận mới, Bản
săc
Văn hóa Việt Nam, Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với Pháp,
Thi Thánh Đỗ Phủ và một nghìn bài thơ…Đấy
là chưa nói ông còn dành thời gian
biên soạn bộ Thần
thoại Hy Lạp, Từ điển Anh - Việt (1994).
Thế nhưng nhắc đến ông, người ta hay nhắc các tác
phẩm dịch. Phải chăng là do những tác phẩm mà ông chọn dịch là những tác
phẩm quá nổi tiếng trong kho tàng văn hóa của nhân loại mà không một
quốc gia nào lại có thể tự cho phép đất nước mình thiếu vắng sự hiểu
biết và phổ biến rộng rãi trong công chúng của họ.
“Pháp
luật không hùa theo người sang...Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không
tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không tránh kẻ thất phu...Cho nên bậc
vua sáng khiến pháp luật chọn người chứ không tự mình tiến cử, khiến cho
pháp luật đo lường công lao chứ không tự mình tính tóan”.
Câu nói ấy gieo một ấn tượng mạnh trong đám thính giả trẻ Tùy theo cung
bậc của cảm xúc và nhận thức, mỗi người nghe đều nhìn vào những gì đang
diễn ra trước mắt và tự ngẫm.
Phan Ngọc rất bận. Cả một
núi bản thảo đang chờ duyệt lại. Nhiều tác phẩm đang được đề nghị chọn
để dịch hoặc cùng dịch với những người bạn tâm đắc đang xếp một góc. Đấy
là chưa nói đến những công trình nghiên cứu đang được cẩn trọng duyệt
lại để công bố. Ấy thế nhưng khi tôi ngỏ ý dành thêm cho một số buổi để
đến trình bày với cán bộ nghiên cứu của Viện tôi, anh vẫn vui vẻ nhận
lời. Anh hiểu rõ trách nhiệm trao lại cho thế hệ cán bộ nghiên cứu khoa
học sau anh tiếp tục một cách nghiêm cẩn con đường mà anh đã đi qua với
bao chông gai, thử thách.
Nhiều buổi tâm sự với anh,
nhất là thời kỳ anh được Phạm Đức Dương, Viện trưởng Viện Đông Nam Á vời
về Viện làm việc. Có thể nói đây là thời kỳ Phan Ngọc có một thời gian
thoải mái, dễ thở, thoát khỏi những đôi mắt soi mói, ganh tỵ hèn hạ của
một số “cốt cán” được trao “nhiệm vụ đặc biệt”, hoặc có khi cũng chẳng
có ai “trao” mà là do nhân cách xu thời, tự biết mình thua kém trong cái
môi trường mà “cổ
học tam kiệt” phải chịu đựng. Anh Trần Đình Hượu với nụ cười
hiền hòa và thâm trầm nói với tôi : “Kiệt”gì,
“kiết” thì có! Chẳng qua là cách người ta phản ứng lại sự dốt nát
và hài hước đấy thôi.: “Ông bạn tôi, Phạm Đức Dương, vốn tính
tình cởi mở và hiểu khá rõ về Phan Ngọc, ông bạn đồng hương uyên bác và
say mê nghiên cứu, đã tạo cho Phan Ngọc một chế độ làm việc phù hợp với
một học giả.
Tôi hỏi ông : “Anh
lấy đâu ra thời gian và sức khỏe để giải quyết cả núi công việc nghiên
cứu, sưu tầm, dịch thuật hở anh Ngọc”? Ông cười : “Mình
có một đam mê không dứt ra được. Đang triển khai đề tài này đã nghĩ đến
một đề tài khác đang cuốn hút sẽ phải làm”. Cao Xuân Hạo, người
bạn cùng nghiên cứu và dịch thuật với Phan Ngọc có lần nói với tôi
: “Phan Ngọc có một sức làm việc
dẻo dai và bao quát đến khủng khiếp. Đương nhiên điều này không phải là
hoàn toàn tốt đâu, nhất là với một nhà khoa học, mặc dù đồng ý với nhận
xét ấy nhưng tôi biết ông ấy không sửa đâu. Phan Ngọc cười : “Đã
quen mất nết đi rồi”, còn Cao Xuân Hạo thì ngâm nga câu thơ của
Keeppling : “Hết
ngày dài lại đến đêm thâu...”
Viện tôi với viện của
Dương gần nhau nên chúng tôi có nhiều dịp ngồi với nhau, khi thì ở phòng
làm việc của Dương, khi thì ở Phòng của tôi bên chén trà để cùng trao
đổi với nhau, không chỉ về chuyên môn mà còn về thời cuộc.
Có lần anh Phan Ngọc nhân
nhắc lại câu chuyện anh vừa trình bày với Viện Xã Hội học chúng tôi, đã
hào hứng gợi lại hình ảnh “Tần
Thủy Hoàng đọc cuốn sách của Hàn Phi đã nói “Ta được làm bạn với con
người này thì có chết cũng không uổng”! Hàn Phi là người nước
Hàn, được nhà vua phái sang Tần để thuyết phục vua Tấn đừng đánh nước
Hàn . Nhưng, Phan Ngọc viết : “Phi
sang Tần không phải đê sống mà để chết”. Dẫn giải về nhà trí
thức vĩ đại này, Phan Ngọc đưa ra bài “Nỗi
phẫn uất của con ngưởi cô độc”. Tôi rất hiểu tâm trạng của
“những người cô độc” như Phan Ngọc.
Sang Tần, Hàn Phi thuyết
phục được vua Tần với bài nghị luận có sức thu hút mãnh liệt: ”
Lần đầu yết kiến vua Tần”.Tuy
thuyết phục được vua nhưng Hàn Phi lại phải chết bởi bàn tay của Thừa
tướng Lý Tư, người bạn học cũ từng biết rõ tài năng của Hàn Phi vượt xa
mình, nếu Phi sống sẽ là mối đe dọa cho quyền lực của y.Nhà văn Nga
Gonsarov thế kỷ 19 từng viết tác phẩm nổi tiếng “Nỗi
khổ vì có trí tuệ” diễn đạt một ý tưởng thâm trầm con người là “nạn
nhân bởi trí tuệ của chính mình”.
Thế nhưng, hơn 2000 năm
trước, Hàn Phi chính là một điển hình của nạn nhân ấy. Với ông, chỉ có
hai con đường. Một là vứt bỏ trí tuệ và tài năng, hùa theo với lũ nịnh
thần. Hai là sống như ông muốn sống, và như thế cũng có nghĩa là rồi
phải chấp nhận cái chết không sao tránh khỏi!
Hôm ấy, anh Phạm Đức Dương
thúc tôi tháo bã chè, thay ấm mới vì câu chuyện đang hồi hào hứng. Nhữ
Thành say sưa nói về thân phận của những nhân vật lớn trong các tác phẩm
mà anh đã dịch như Tư Mã Thiên, những người tự nhận mình là người “bất
cơ”!
Bất cơ tức là không chịu trói
buộc mình theo tập tục, vượt ra ngoài mọi lề thói.
Dưới ngòi bút dịch thuật
của mình , Phan Ngọc đã làm sống động hàng ngàn nhân vật điển hình trong
tác phẩm của Tư Mã Thiên. Cả một nhân loại mênh mông - như Phan Ngọc
miêu tả - hiện ra trước mắt chúng ta. Đủ các tầng lớp, đủ các nghề
nghiệp. đủ các thành phần... Nông dân, hiệp khách, những triết gia cao
đàm khoát luận giữa chốn thư phòng và anh hàng thịt luận bàn bên phản
thịt giữa chợ...Những hình ảnh ấy đã du nhập vào kho tàng văn học, làm
thành nhân vật của những truyện ký, thoại bản, hý khúc, kịch, thơ cực kỳ
sống động. Điều cần đặc biệt lưu ý là đời sau có thể tô điểm, thêm bớt
nhưng tuyệt đối khó mà bằng năng lực hư cấu của mình để tạo nên một Kinh
Kha, một Hàn Tín hay một Hạng Vũ khác hẳn hình tượng mà hơn 2000 năm
trước Tư Mã Thiên đã khắc họa nên. Không tài nào có thể cũng sinh động
được như ngòi bút của nhà văn cổ đại đã từng khắc họa. Có thể nói những
hình tượng Tư Mã Thiên tạo ra đã được nhân dân tiếp nhận toàn vẹn. Điều
đó không phải là một hiện tượng thường thấy trong văn học.
Nếu ta xét những nhân vật
lịch sử châu Âu thì ta thấy họ được biểu hiện một cách khác nhau ở từng
nhà văn. Hiện tượng Catilina của sử gia La Mã Xaniut rất khác hình tượng
Catilina của Ben Jonson. Hình tượng Catilina của Ipxen lại càng khác
hẳn.Tư Mã Thiên đã làm thế nào để nhân vật của mình sống mãnh liệt đến
nỗi họ tồn tại khách quan ở ngoài nhà văn, và dân chúng khó lòng chấp
nhận sự thay đổi! Trong khi khắc họa hình nhân vật, với Tư Mã Thiên,
nhân vật vĩ đại đến đâu trước hết cũng là người bình thường.Trong khi
miêu tả, ông không chạy theo sự kiện mà dõi theo cái quyết định hình
thành tính cách nhân vật .
Ông nhìn ra những tình
tiết nhỏ nhất. Nhân vật Trương Thang lúc nhỏ giữ nhà bị chuột ăn mất
thịt, bị cha đánh đòn. Thang bắt đuợc chuột, bèn làm một bản án kết tội
chuột. Người cha thất kinh, xem thấy lời văn đã phát hiện ra con mình
đích thị là một tên quan coi ngục sành sỏi và đủ mưu mẹo cũng như sự tàn
ác!
Câu nói bất hủ của Hàn Tín
: “Nhà
vua muốn lấy thiên hạ sao lại giết tráng sĩ.? Biểu lộ một chí
khí phi thường và là người sẽ lập nên đại nghiệp và rồi sẽ thất bại! Con
người từ bé đã học kiếm chẳng thành lại
chỉ muốn học cái đánh lại vạn
người. Chính con người muốn học cá “đánh
lại được vạn người ấy’ đã dám chịu nhẫn nhục chui qua háng người
giữa chợ. Còn Lý Tư, người buộc Hàn Phi phải uống thuốc độc chết trong
nguc khi biêt Vua Tần đã được Phi thuyết phục. Tư Mã Thiên đặt câu nói
điển hình vào miệng Lý Tư để phơi bày gan ruột độc ác và nham hiểm của
người bạn học cũ của Hàn Phi thời theo
học Tuân Tử. : “Người
ta ở đời hiền hay bất tiếu cũng như con chuột, chẳng qua do hoàn cảnh mà
ra ra cả đấy thôi”. Những câu nói, những tình tiết để đời ấy có
cả trăm cả vạn trong những tác phẩm của Tư Mã Thiên, Hàn Phi Tử, Chuyện
Làng Nho...
Mà đâu chỉ với các tác
phẩm Phương Đông. Hãy chỉ lấy một William Shakespeare, một trong số
những những nhà văn hóa vĩ đại của nhân loại.Từ lâu, sáng tác của
Shakespeare đã vượt ra ngoài phạm vi nước Anh. Có thể nói từ 1594 trở
đi, suốt mười mấy năm liền,, các vở kịch của Shakespeare đã tuyệt đối
làm bá chủ kịch trường Anh.
Cứ mỗi năm Shakespeare viết hai vở kịch. Không chỉ thế, nhà viết kịch
lại còn làm diễn viên, đạo diễn, lãnh đạo đoàn kịch của mình ở rạp hát
Globus lớn nhất London. Tổng cộng lại, ông đã hoàn thành sự nghiệp vĩ
đại nhất về kịch trong lịch sử nhân loại : 37 vở kịch! Shakespeare
làm
được như vậy vì ông tâm niệm được rằng “Sự
ngu dốt là lời nguyền rủa của Chúa trời; tri thức là đôi cánh đưa ta bay
tới thiên đường”.
Và Nhữ Thành của chúng ta
cùng với những dịch giả hàng đầu đã cố gắng đưa những thành tựu vĩ đại
của nền văn hóa thế giới , chọc thủng màn đêm của một thời kỳ đen tối
của sự dốt nát, định kiến, thời kỳ của các tài năng lớn, các văn nghệ sĩ
lớn bị đày đọa, bị giam cầm, bị hành hạ trong một chế độ toàn trị phản
dân chủ. Đó là thời kỳ của người mang “Những
nỗi khổ vì có trí tuệ” kéo dài lê thê! Sự lê thê đó còn tiếp và
và làm trầm trọng thêm cho đến tận hôm nay.
Cứ ngỡ như những gì Hàn
Phi viết cách nay hơn 2000 năm về chuyện Quan lang Băng thuyết phục
Kiệt,Tỷ Can ngăn cản Trụ, Ngũ Tử Tư can gián Phù Sai....Họ đều không
tránh được mối lo bị chêt. Đó
là mối lo nhà vua không thích những lời của người hiền mà chỉ
muốn nghe theo bọn ngu và hư hỏng, nịnh bợ.Có ngẫm sâu về điều đó mới
hiểu tại sao Phan Ngọc hối hả vùi mình trong bản thảo của những tác phẩm
nghiên cứu và dịch thuật. Anh thấy mình được sống với cuộc sống của
chính mình.
Cuộc sống ấy gói gọn trong
bút danh của nhà văn hóa lớn, một học giả đã để lại cho đời những công
trình nghiên cứu có giá trị, những tác phẩm dịch thuật tiêu biểu mà sức
một người hiếm thực hiện nổi, trừ phi
có mộ bộ óc say mê quá cỡ và một sức đam mê quên mình. Một học giả tự
nhận cho mình bút danh Nhữ Thành. Bút danh ấy nói về một nhân cách mà “nghèo
khó, lo lắng sẽ mãi giũa ta thành viên ngọc” [bần tiện ưu thích,
dung ngọc nhữ thành dã
貧賤憂戚 庸玉汝於成也].(Đây
là một câu lấy từ sách Tây Minh của Trương Hoành Cừ đời Tống mà thân phụ
của nhà văn, cụ lão nho Phan Võ, gợi ý cho con trai đặt bút danh).* Viên
ngọc ấy sáng mãi!
_______________
*Tôi dẫn từ một đường link do anh ban Thái Nguyên gửi riêng cho,
trong đó, tên tác giả ghi không được rõ, mong được thông cảm.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 3-9-20 |