Nhà
văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá
(NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2005)
Vương Trí Nhàn
Chương 12
VŨ TRỌNG PHỤNG: CÁI NHÌN BẢO THỦ
Ở MỘT NGÒI BÚT GHI CHÉP LỊCH SỬ
Hai bộ mặt của quá
trình hiện đại hoá xã hội
Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX trong tiểu
thuyết
Số đỏ
Vương Trí Nhàn
Ấn tượng sâu sắc nhất mà có lẽ
tất cả bạn đọc đều chia sẻ khi đọc Số đỏ, ấy là cái sự nhố
nhăng nhảm nhí của đời sống được nhà văn phác hoạ theo
lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng Lư, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã “chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại “ Trong con
mắt của ông, xã hội đương thời là hoàn cảnh lý tưởng cho
những kẻ tầm thường nhưng lại đầy tham vọng. Cái phần luân
thường đạo lý mà các thế hệ đi trước dày công vun đắp đã phai lạt
hẳn, người nào người nấy xoay xoả kiếm sống và khao khát hưởng thụ. Cả kẻ vô học như Xuân lẫn bọn có học như Văn Minh
đều sống bằng lừa bịp, ai giỏi lừa người đó thắng. Và cuộc
sống của xã hội hiện đại đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm
hỏng con người. Thiếu hẳn những kẻ có tài năng cũng như có tấm lòng, tức cũng là thiếu hẳn những con người
xứng đáng để chúng ta kính trọng.
Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định,
bức tranh mà Vũ Trọng Phụng vẽ nên đó là sự phản ánh trung
thực xã hội đương thời đồng thời có tính cách khái quát một phần bản
chất cuộc sống. Thời nào, và nói cho đầy đủ hơn, ở bất cứ xã hội
nào, thì trong tấn kịch nhân gian cũng cảnh những hồi, ở đó cuộc đời
hiện ra như một thứ hội hoá trang mà tác giả đã miêu tả.
Thế nhưng liệu
đã có thể nói đó là tất cả cái cuộc sống trên đường hiện đại hoá
được nói tới trong Số đỏ? Có
phải xã hội đương thời chỉ có tàn lụi mục nát vô phương cứu
vãn hay thực ra nó đang vận động theo một phương hướng đầy
triển vọng và chính ngòi bút Vũ Trọng Phụng cũng đã tham
gia vào việc ghi chép lại cái quá trình đổi khác đó ---
một việc chắc chắn là chính ông cũng không ngờ tới ?
Hiện đại hoá là gì và ý nghĩa lịch sử của nó
Đặt xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX trong toàn
bộ sự vận động chung của lích sử dân tộc, chúng ta thấy nó là một bước rẽ ngoặt mà nội dung căn bản là hình thành nên một xã hội
kiểu mới khác hẳn xã hội VN từ đó về trước. Trong cả sử học
lẫn các bộ môn khác của khoa học xã hội, trong đó có
lịch sử văn học, người ta thường gọi đó là quá trình hiện đại hoá.
Trong bài viết Tìm nghĩa khái niệm hiện
đại in ở phần trên, chúng tôi đã có dịp trình bày cách hiểu về quá trình này,dưới
đây là mấy nét tóm tắt:
--
Đó là sự chuyển biến từ kiểu xã hội phong kiến trung
đại sang một xã hội công nghiệp hoá, có đô thị phát triển.
Bắt đầu từ cơ sở kinh tế, cuộc chuyển biến này kéo theo hàng loạt
biến động, nhiều quan niệm của con người về bản thân
mình cũng như về thế giới có thay đổi. Đồng thời với sự trưởng
thành của ý thức xã hội thì con người cá nhân trong họ cũng được
giải phóng.
-- Bởi đây là sự chuyển biến từ một xã hội theo kiểu phương
Đông sang một xã hội xây dựng theo mẫu hình phương Tây lúc ấy, nên
người ta còn gọi nó là Âu hoá. Thực chất
của hiện
đại hoá trong điều kiện lịch sử đầu thế kỷ XX chính là Âu
hoá. Không chỉ ở VN mà ở Trung quốc và ở nhiều nước châu
Á khác, hiện đại hoá đều được sử dụng với nghĩa cụ thể như vậy.
(Còn tới cuối thế kỷ XX nó vẫn được dùng nhưng có hàm nghĩa mới
thì đó lại là chuyện khác.)
-- Muốn hay
không muốn cũng phải xem đây là một bước tiến bộ. Tính đến hoàn cảnh
đương thời, thì đây là công thức duy nhất có
thể đưa xã hội ra khỏi điểm chết mà sự vận động của lịch sử trước đó
đẩy tới. Không phải hiện đại hoá hoàn toàn đối lập lại quyền
lợi chính đáng của dân tộc. Ngược lại, chính trong hoàn cảnh hiện
đại hoá mà ý thức dân tộc,vốn có từ trong quá khứ, bắt đầu
mang một nội dung mới thích hợp hơn do đó trở nên hoàn
thiện và có sức thúc đẩy lịch sử tiến tới. Đặc biệt với công
cuộc công nghiệp hoá, ý thức dân chủ có dịp nảy nở mạnh mẽ.
Một trong những tư tưởng cơ bản được trình bày trong
Văn minh tân học sách của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục (tổ
chức tập hợp những bậc trí giả thức thời hồi đầu thế kỷ XX), đó là
tình trạng lạc hậu cổ hủ của xã hội VN trước khi tiếp xúc với văn
minh Tây phương. Đến một nhà yêu nước như Phan Chu Trinh thì tư tưởng đó là cả một ám ảnh. Theo
Phan Chu Trinh, sự lạc hậu nếu không được nhận thức và được khắc
phục thì mọi nỗ lực dành lại độc lập đều vô nghĩa. Trong
Thư gửi chính phủ Pháp,ông viết “Nước Nam đã lâu nay học thuyết
sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ,không có kiến thức.. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống
vẫn coi nhau như thù hằn ; có dẫu ai có muốn lo toan việc lớn,chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu,
giá phỏng Chính phủ (đây là chính phủ thực dân Pháp --- VTN chú) cho mượn dăm nghìn
khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến,tha
hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù
lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt
tiền tài thì cũng giành giật tước vị, tự chém gết nhau đến
chết hết mới thôi (...)”[1]
Có thể nói sự sáng suốt của những người vừa
yêu nước thương nòi vừa nhìn xa trông rộng và có tư tưởng canh tân
xã hội trên đây đã có sức chi phối đối với sự phát triển của
xã hội VN mà quá trình hiện đại hoá nói ở đây là bằng chứng.
Dù công cuộc hiện đại hoá đó tiến hành dưới sự kiểm soát của bộ máy
thực dân, song vẫn phải ghi nhận một sự thật
dẫu sao quá trình đó đã xảy ra. Không có quá trình hiện đại hoá
này thì không có xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX như chúng ta đã thấy,
không những không có đô thị, nhà trường kiểu mới, đường sắt, bưu điện, báo chí …, mà cũng không có sự tiếp
xúc bình thường giữa VN và thế giới. Nói cho hết lẽ, phải thấy không có quá trình hiện đại hoá thì không có luôn cả sự
phân hoá giai cấp như các nhà nghiên cứu lịch sử thường phân tích, không có giai cấp công nhân và một bộ phận trí thức kiểu mới,
không có sự du nhập của ý thức hệ Mác Lê- nin, dẫn đến những biến
động có tính chất bước ngoặt từ sau Tháng Tám 1945.
Hiện đại hoá đã tự phát có mặt trong tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng như thế nào?
Hãy bắt đầu bằng một chi tiết nhỏ
trong chương II của Số đỏ, cái đoạn tả cảnh xảy ra tại một bóp cảnh sát khi một
viên quản ngồi than thở sự đời với một thày cảnh sát dưới quyền,
thày
min đơ (1002):
---Thày có tiếc cái thời buổi ngày xưa,cách đây
mười năm không ?
-
--- Tiếc lắm! Mười năm trước đây, dân ta còn ngu..
---
Ngày nay dân ta văn minh mất rổi rõ thảm hại!
Thày phải biết là xưa kia, xã hội tinh những du côn với nặc nô,
tinh những người bất lịch sự chỗ nào cũng phóng uế,cũng đánh nhau.
Hồi ấy có khi bốn người ngồi một xe! Họ chửi nhau hàng nửa giờ,
đánh nhau vỡ đầu, nhà cửa của họ thì rác rưởi, nước cống nước rãnh
tung toé,ngập lụt. Chó của họ cũng chạy ra ngoài đường nhông
nhông... Xe đi đèo, hay không đèn là nhan nhản. Bây giờ mọi sự đã
thay đổi cả (tr. 22)[2]
Điều bất ngờ là ở chỗ đằng sau câu chuyện mà tác giả thuật lại để
chế giễu tự nó có một ý nghĩa khác.
Không gì khác,
cái thời buổi
ngày xưa mà hai nhân vật nói ở đây chính là xã hội VN trước
hiện đại hoá,với một nếp sống phải nói là lạc hậu và chẳng có gì là
đáng ước ao, nếu không nói rằng đáng từ bỏ. Còn thay thế nó lại là xã hội nền nếp quy củ. Và sự thay đổi mà các
viên cảnh sát than phiền là hỏng là đáng chê trách thì theo lương
tri thông thường, lại là một sự thay đổi theo hướng tiến bộ hợp
với tinh thần của nhân văn và đạo lý.
Nếu tiếp tục khảo sát tác phẩm theo hướng
này, người ta sẽ thấy Số đỏ vô hình trung đã phác hoạ
một khuôn mặt khác của xã hội trong một giai đoạn lịch sử có những
đảo lộn hàng trăm năm chưa từng có. Từ đầu thế kỷ XX trong
lòng xã hội phong kiến,
những nhân tố của một xã
hội theo kiểu phương Tây đã nảy sinh và tới những năm ba mươi
có thể nói cái nền nếp mới ấy đã trở nên ổn định thay cho nền nếp xưa “thế là hết nhẵn nhụi”
(tr 22). Đóng vai trò
đầu tàu cho lịch sử là những đô thị mới vừa hình thành. Trong kiến
trúc trong đường xá cầu cống trong kiểu ăn ở đi lại.. của con người, chúng khác hẳn so với cái gọi là đô thị thời trung đại. Phân công
lao động trong xã hội đã khá cao, nhiều nghề mới nảy sinh, không phải chỉ có me tây đĩ điếm như nhiều người thích
bêu riếu, mà quan trọng hơn có người đi du học, có luật sư bác sĩ,
có các loại cửa hàng và khách sạn đầy đủ tiện nghi, có cả các loại sân thể thao được xây riêng trong từng gia
đình và thày dạy đánh quần vợt. Đặc biệt ý thức công cộng của mỗi
thành viên trong xã hội được nâng lên một bước. Đằng sau cái câu
nói đơn sơ “Lúc này đến cả thằng phu xe cũng biết luật”
(tr
22) là một sự thật: xã hội đã vượt qua giai đoạn tự phát mạnh ai
nấy sống. Làm gì người ta cũng phải chú ý xem phản ứng xã hội với
mình là như thế nào. Báo chí có mặt ở mọi nơi mọi chỗ.
Cũng nên lưu ý thêm là theo sự miêu tả của tác
giả thì Xuân tóc đỏ có lúc ăn vận theo kiểu hề Charlot để gây chú ý
(tr 75), cũng như ông Joseph Thiết có nhắc đến Léon Daudet (tr 78), ấy là không kể có cả một buổi hội thảo không chính thức về học
thuyết của Freud (đoạn đầu chương XIII). Những mẫu hình của văn
hoá hịên đại đã xuất hiện để thay thế cho những khuôn vàng thước
ngọc dẫn lại từ thời Nghiêu Thuấn mà mọi người đều đã ngán đến
tận cổ!
Ở trên chúng ta đã nói rằng con người trong Số đỏ
hiện ra với nhiều nét khó coi,
ồn ào học đòi, tham lam dâm đãng.
Song suy cho cùng những thói xấu ấy vẫn là bề ngoài. Nếu không xem các tiêu chuẩn đạo đức vốn có từ thời phong kiến là bất biến mà xét
kỹ cái
trình độ sống của con người, nhất là văn hoá chung sống
của những con người đó, cái ý thức của họ về sự tiến bộ chung
của xã hội, chúng ta thấy gì? Rõ ràng, đặt bên cạnh những
con người đơn giản, sống cầm chừng, chậm rãi rời rạc của xã hội trung đại, thì con người lúc này luôn hiện ra với vẻ gấp gáp linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với mọi biến chuyển lúc
nào cũng có thể xảy ra. Mọi người, từ Xuân đến bà phó Đoan, từ vợ
chồng Văn Minh đến ôngTipphờnờ … và cả mấy người già như cụ cố Hồng
đều có ý thức về cuộc đời mà họ đang sống, muốn sống
theo những tiêu chuẩn mới mẻ mà họ tin tưởng chứ không phải thế nào
cũng được muốn đến đâu thì đến.
Đây là lời bà Văn Minh
giảng giải cho một khách hàng về ý nghĩa của cửa hàng Âu hoá do hai
vợ chồng bà ta chủ trương:
--- Thưa bà chúng tôi chỉ tiến theo luật tiến hoá
chung của xã hội. Giữa buổi canh tân này cái gì là bảo thủ thì bị
đào thải đi. Bà có biết rằng từ khi chúng tôi mở cửa hiệu này
ra thì đã bao nhiêu người vợ được cứu vớt,tìm thấy lòng yêu của
chồng, lại được hưởng hạnh hạnh phúc gia đình rồi đó không?
(tr 46)
Còn đây,
cái quan niệm về ăn mặc mà cửa hàng của bà ta noi theo:
--- Thưa bà,những nguyên tắc về y phục đã thay
đổi. Chúng tôi mà có chế ra kiểu này cũng là vì theo cái quan
niệm y phục của các nhà thợ may lớn ở Tây phương. Quần áo để tô
điểm,đẻ làm tăng sắc đẹp chứ không phải để che đậy …(tr 48)
Đặt trong mạch chung của tác phẩm thì đây có vẻ như lời
lẽ mòn sáo của một kẻ học đòi. Nhưng thử tách nó ra như một văn bản
độc lập, chúng ta thấy đây là những ý tưởng nghiêm
chỉnh (một số điều đến nay chúng ta cũng đang áp dụng). Con người
bấy giờ đặc biệt có ý thức về một cuộc sống khác với những
gì họ sẵn có chứ không một chiều nệ cổ. Họ đã nhìn
rộng ra cả thế giới chứ không chỉ chăm chăm quay đầu về cái sân nhà mình hoặc cái làng con con của mình. Họ lại đã có
được ý thức đúng đắn về thời gian và mối quan hệ giữa thời gian và
bản thân mình. “Nó cảm thấy đời nó từ nay mà đi dễ thường đã vào
một kỷ nguyên mới.” (tr.29)
– Không
nên một chiều cười giễu cái câu tự nhủ ấy của Xuân tóc đỏ,
ngược lại nên ghi nhận ở nhân vật cả cái ý chí lập nghiệp lẫn một sự
tiên cảm chính xác về tương lai.
Số đỏ kết thúc bằng việc Xuân nhường
chức vô địch quần vợt cho đối thủ người Xiêm La. Câu chuyện
có vẻ hoàn toàn bịa đặt song đằng sau nó cần phải ghi nhận một
điều: một cá nhân như Xuân đã biết làm chủ hành động của mình, và sự
tính toán ở đây là khá chính xác.
Trong khi làm lại cuộc sống, cố
nhiên,trong tiềm thức, con người VN nửa đầu thế kỷ XX tự
hiểu rằng mình có một quá khứ hết sức nặng nề. Trên mọi phương diện, họ đều nhận ra một sự đối đầu giữa
cũ và mới (tr 136), giữa lối cổ và lối kim (tr.34). Nếu như thường xuyên chúng ta bắt gặp ở họ cái vẻ
huyênh hoang thì chẳng qua cũng chỉ là một cách nói to lên
những điều lớn lao để tự động viên mình. Sự thay đổi quá nhanh
không khỏi dẫn tới những sự vội vã ép uổng, những nét kệch cỡm,
nhưng không phải vì thế mà đáng sổ toẹt tất cả.
Có hai con người trong một Vũ Trọng Phụng
Âu hoá không chỉ là tên gọi của
cái cửa hàng thợ may nơi nhân vật Xuân trong Số đỏ đến học
việc và bắt đầu một cuộc tiến thân. Âu hoá cũng chính là nội dung
của quá trình chuyển biến của cái xã hội nho nhỏ mà tất cả các nhân
vật của cuốn tiểu thuyết này – từ những nhà cải cách xã hội
như vợ chồng Văn Minh, các trí thức như ông Josef Thiết,ông
đốc tờ Trực Ngôn... đến lớp người mạt hạng như Xuân cùng mấy ông
thày bói mấy cô bán hàng mấy chị vú em
–
bị cuốn hút theo.
Suy rộng ra, dễ ước đoán là qua cuốn
tiểu thuyết, tác giả muốn làm một cuộc tổng kết cơ bản, khái quát cả
quá trình chuyển biến của xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX.
Đã rõ là có hai tầng hiện thực khác
nhau được ghi nhận trong các trang sách của nhà văn họ Vũ:
một đằng là cái đời sống ở cái vẻ nó đập ngay vào mắt mọi người ; và
một đằng nữa là cái đời sống ở bề sâu, cái phần ẩn giấu và
chỉ bộc lộ ra một cách tự phát, người đọc cũng dễ bỏ qua.
Thái độ của tác giả với hai mảng hiện
thực ấy cũng khác nhau rõ rệt.
Có vẻ như với Vũ Trọng Phụng,
cái phần xấu xa của đời sống đương thời là đáng quan tâm hơn
cả.
Ông tố cáo.
Ông lên án. Toàn bộ kiệt tác
Số đỏ của ông được xây dựng trên cảm hứng phê phán đó. Ngược
lại,
cái mảng hiện thực thứ hai có vẻ nằm ngoài ý thức của ông. Ông chỉ nhân tiện mà nói tới. Sự chểnh mảng của ông với cái phần
đời sống này rõ rệt đến mức mà người ta chỉ nắm được nó bằng cách tách sự việc đứng riêng ra, để chúng độc lập bên
cạnh cái nhìn của các nhân vật vốn là nhân vật phản diện, thậm chí
độc lập với tác giả.
Có điều không phải vì thế mà nó
cái đời sống ở bề sâu ấy không hiện ra một cách rõ rệt. Bây giờ
mọi sự đã thay đổi cả
(tr 22). Một câu như vậy quả đã thâu tóm được quá trình biến
đổi của xã hội, và ở chỗ này có thể bảo Vũ Trọng Phụng là một
người chép sử trung thành, mặc dù ông không có ý
thức đầy đủ khi làm công việc ghi chép quan trọng ấy.
Đọc các nhà văn cổ điển cỡ như Balzac, người ta đã
được chứng kiến không ít trường hợp trong con người nhà văn có sự
đối lập, trong khi thái độ ông ta đối với thực tế thế này thì bức
tranh xã hội được ông vẽ ra lại có ý nghĩa khác hẳn.
Trường hợp Vũ
Trọng Phụng ở đây cũng có gì na ná như vậy.
Thử giải thích cái nhìn và thái độ của Vũ Trọng
Phụng:
yếu tố chủ quan...…
Các nhà viết tiểu sử đã sớm ghi nhận Vũ Trọng
Phụng thuộc loại dân nghèo mới từ bỏ làng quê để nhập tịch vào đô
thị. Nhưng lên với Hà Nội ông và gia đình vẫn sống rất
thanh bạch. Thay cho cái nghèo chân chất của người nông dân là cái
nghèo nhếch nhác luộm thuộm của đám người nằm ở dưới đáy của Hà Nội
băm sáu phố phường.
Có những người nghèo song cam phận, nhẫn
nhục,
có cái nhìn nhân hậu đối với sự đời, song lại có những người do nghèo mà sinh ra cay nghiệt hằn học chỉ muốn
đập phá hết cả. Vũ Trọng Phụng chính là thuộc típ người thứ hai.
Dù
đã nhọc lòng đi tìm sự thay đổi, song ông và những người như ông
vẫn không tìm thấy miền đất hứa để có thể tạm bằng lòng với số phận
mà sống trong thanh thản. Bởi vậy, ông nhìn mọi biến thiên
xảy ra trong xã hội như là những chuyện vô lý. Sự đối mặt thường
xuyên với mọi loại sa ngã hư hỏng bất công giả dối
khiến ông đớn đau căm uất.
Nói cách khác, nhà văn thân yêu của
chúng ta không thoát khỏi mình để có một cách nhìn khách quan với
xã hội và xem tiến bộ xã hội như một tiêu chuẩn đánh giá đời sống.
Khách quan mà xét phải nói rằng ông bảo thủ.[3]
Qua các hồi ức của những người quen biết riêng
với Vũ Trọng Phụng, từ lâu người ta đã biết rằng tác giả Số đỏ là một người, trong sinh hoạt hàng ngày, có
nhiều phần nệ cổ chứ không mô-đéc như những người bạn của ông
mà Nguyễn Tuân là một ví dụ.
Tới đây chúng ta lại thấy ông nệ
cổ cả trong cách nhìn đời nói chung. Từ sự bảo thủ trong
quan niệm đạo đức tới bảo thủ trong quan niệm xã
hội, kể ra cũng là một bước đi tự nhiên, không thế thì mới là chuyện
lạ.
..... và yếu tố khách quan
Đặc điểm của hiện đại hoá ở VN là nó
diễn ra không bình thường. Nó không nảy sinh như một sự phát
triển nội tại mà là từ bên ngoài ấn vào. Mà yếu tố bên ngoài
đây lại là nước Pháp thực dân, lúc đó đang đóng vai trò của một thế
lực đi xâm lược. Một thời gian dài, với người Việt Nam, chấp nhận hiện đại hoá tức là chấp nhận hành động đồng hoá của bọn xâm
lược. Điều đó trái với tinh thần quật cường chỗng ngoại xâm (bằng
bất cứ giá nào đẩy các thế lực ngoại nhập ra khỏi đất nước) đã thành
một truyền thống của lịch sử dân tộc.
Chẳng những thế, trong thực tế, công cuộc hiện
đại hoá diễn ra trong máu và nước mắt. Xã hội VN cuối thế kỷ XIX đã
quá trì trệ và con người quen lặn ngụp trong sự lạc hậu rất ngại
thay đổi. Đổi mới đối với họ thường khi là một việc làm quá sức.
Bởi vậy
(kết hợp cả hai yếu tố trên), người ta không ngạc nhiên nhận thấy rằng ngay
từ khi mới bắt đầu, hiện đại hoá đã không được người VN
tiếp nhận một cách tích cực. Kẻ biết nhìn ra ý nghĩa tiến
bộ của nó rất ít. Trong lòng mọi người, sự ngại ngần trở đi
trở lại. Đủ thứ áo khoác mỹ miều được lôi ra sử dụng để che đậy
cho sự thù ghét và sợ hãi cái mới. Đọc lại văn học VN đầu
thế kỷ XX, người ta thấy với Tú Xương rồi Tản
Đà tiếp đó là các nhà văn xuôi như Trọng Khiêm, Đặng Trần Phất
.., hiện đại hoá đều được miêu tả như một quá trình gây ra đau
khổ cho con người. Tiếp đó, nhiều ngòi bút cùng thời với
Vũ Trọng Phụng, những Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Nguyên Hồng, Nam
Cao … đều miêu tả đời sống theo cái cách ít nhiều lên án hiện đại
hoá. Sự bảo thủ mà trên đây chúng tôi nói ở Vũ
Trọng Phụng suy cho cùng cũng là nét bảo thủ của khá nhiều
người, kể cả những người thuộc diện tinh hoa của xã hội. Thậm chí còn có thể nói nó là một thứ vô thức
tập thể đang chi phối cách nghĩ một thời.Trong trường hợp
này, các nhà văn thực sự chỉ là công cụ của lịch sử.
Đoạn
kết
Chẳng những sinh thời Vũ Trọng
Phụng, quá trình hiện đại hoá xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX được một số người xem là có ý nghĩa tiêu cực mà ở nhiều
thế hệ tiếp theo, cho đến ngày hôm nay của chúng ta, lối nhìn
nhận đó vẫn đóng vai trò chủ đạo. Có lẽ chính vì thế mà
khi tiếp xúc với các tác phẩm ra đời trong thời kỳ này, người ta thường chỉ đọc ra cái phần có ý nghĩa phê phán, còn
như cái phần mà ngòi bút chép sử của các nhà văn đã hoạt động
một cách tự phát – như trong trường hợp của
Vũ Trọng Phụng với Số đỏ – thì lại bị đẩy vào bóng
tối quên lãng. Về phần mình, chúng tôi cho rằng nếu nhìn nhận về hiện đại hoá như trong bài này và trong một số bài viết trước đây chúng tôi đã thử đề nghị, thì ngay với Vũ Trọng Phụng người ta
đã có thể đi tới những kết luận khác hẳn. Trong khi có vẻ làm giảm hào
quang ở ngòi bút nhà văn họ Vũ do chỗ bộc lộ ở
ông một ít yếu tố bảo thủ ---, thì đồng thời cách nhìn nhận và
đánh giá này làm cho ông, trước mắt chúng ta, trở
nên sâu sắc hơn và những trang văn của ông cũng trở nên nhiều
tầng nhiều lớp phong phú hơn. Dù không cố ý,
song nhà văn này đã làm được cái thiên chức mà các nhà văn
lớn của một thời đại thường được giao phó, đó là
phản ánh được một phần, theo cái cách riêng của mình, những
phương diện cơ bản cùng là cái xu thế phát triển của thời đại (xin
hiểu thời đại nói ở đây là khái niệm
thời đại lớn mà nhà nghiên cứu văn học người Nga đồng thời
là nhà triết học M.M. Bakhtin đề nghị). Riêng đối
với con người VN hôm nay, trong một giai đoạn mới của công việc
hiện đại hoá -- trường hợp của Vũ Trọng Phụng vẫn đang là
một bài học, ít nhất thì nó cũng có thể giúp chúng ta tham khảo
rút kinh nghiệm để có được một cách nhìn đúng đắn
đối với mọi biến thiên đang xảy ra trước mắt, phân biệt được những biểu hiện bề mặt vốn nhiều rác rưởi và cái xu
thế lớn của lịch sử./.
2002
Đã in Tạp chí văn học, 2003, số 2
[1]Dẫn
theo Tuyển tập Phan Chu Trinh,Nguyễn Văn Dương biên
soạn,NXB Đà Nẵng 1995 tr 352, 353.
[2]Các
dẫn chứng trong bài có ghi số trang đều trích theo bản in Số đỏ trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng ba tập,
tập III, NXB Văn học, 1988.
[3]Thực
ra đọc lại đoạn đối thoại giữa thày quản và viên cảnh
sát thì thấy những điều mà họ nói về thời đại trước Âu
hoá tự nó với nhứng người có lương tri bình thường đã
thành một sự phê phán và lời than tiếc của họ
“Cái
thời tốt đẹp của các cụ nhà ta không còn nữa” cất lên có
chút gì đó ngớ ngẩn và giống như một sự mai mỉa.
Trong thực tế người đời dù có cổ hủ đến mấy chắc cũng không
ai ăn nói như vậy. Liệu có thể nói rằng ý thức bảo thủ đã
vào sâu trong Vũ Trọng Phụng tới mức nó khiến ông bất
chấp cả sự thực và lô-gích thông thường?
Trở về trang
mục lục Vương Trí Nhàn
Trở về
trang Văn Hoá & Giáo Dục
|