Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá
(NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
2005)
Vương Trí Nhàn
Chương
15
MỘT BƯỚC KHAI PHÁ CỦA VŨ BẰNG
TRONG VIỆC XỬ LÝ NGÔN NGỮ VĂN XUÔI
Vương Trí Nhàn
Trong bài viết mang tên
Vũ Bằng “Thương nhớ mười hai” nhà văn Tô Hoài từng kể
lại một ít chuyện, liên quan đến mấy năm ông mới vào nghề, và bắt
đầu viết đều cho các báo: “Những năm ấy, Nam Cao đương ở với tôi
trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mê mải đọc Vũ Bằng (…) Nếu nhà nghiên
cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với
truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm
sáng giăng suông của tôi trên các báo Hà Nội tân văn có
thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng (Những
gương mặt, H. 1994).
Ảnh hưởng trong văn học
thường khi là chuyện tế nhị. Nữa đây lại là hơi hướng, giọng văn,
hơi văn, cảnh viết, những vấn dề thuộc về nghề nghiệp của người cầm
bút. Tuy nhiên cái sự thực mà một người khi đã về già nói ra luôn
luôn đáng để chúng ta suy ngẫm.
Từ một quá khứ làm theo
mẫu hình trung cổ, do các thế kỷ trước để lại, nền văn học Việt Nam
bước sang thế kỷ XX bắt đầu được làm theo một mẫu hình mới để ngày
một trở nên hiện đại.
Mà đấy là cả một sự biến
chuyển toàn diện: Trong quan niệm văn chương. Trong chủ đề. Trong
nhân vật. Và sau hết, người ta có thể quan sát thấy cả sự thay đổi
trong các hình thức thể hiện nữa.
Thơ là một thể tài chủ
đạo - xét theo tỷ trọng, nó từng chiếm tới tám chục phần trăm toàn
bộ khối lượng văn học trung cổ. Đã có người gọi nước Việt Nam hồi ấy
là một thi quốc. Trước cơn “mưa Âu gió Mỹ” cho đến những năm
20, thơ ta vẫn cố kết trong những hình thức vốn có từ thời phong
kiến. Những tưởng mãi mãi nó vẫn vậy! Nhưng không! Đùng một cái, tới
1932 phong trào thơ mới đột khởi chiếm thế thượng phong trên thi
đàn. Và người ta chứng kiến một sự lột xác tự nhiên mà khá mỹ mãn.
So với thơ, truyền thống
văn xuôi cũ ở ta có non yếu hơn. Bởi vậy, giống như các cậu học trò
chăm chỉ, các nhà viết văn xuôi của ta tính chuyện học theo các bậc
thày văn xuôi phương Tây một cách khá sớm sủa, và cũng chỉ có thể là
khá từ tốn. Ban đầu là các hình thức nhỏ như truyện ngắn, bút ký sau
mới tiến lên phóng sự, tiểu thuyết. Đứng về ngôn ngữ thể tài, tức là
cái cách sử dụng văn xuôi mà xét, người ta cũng bắt gặp một sự thay
đổi rõ rệt. Hãy nhìn vào sáng tác của những Nguyễn Công Hoan, Ngô
Tất Tố, Nhất Linh, Khái Hưng. Một mặt phải nhận họ là những tay thợ
khéo, văn xuôi của họ đã đạt tới một sự trau chuốt hoàn thiện khá
cao. Mặt khác xét theo chủng loại thì đó vẫn là thứ văn xuôi
cổ điển, gần giống như văn xuôi phương Tây các thế kỷ XVIII, XIX. ấy
vậy mà chỉ độ chục năm sau thôi, đọc Nguyễn Tuân, Nam Cao hoặc các
bài bút ký của Xuân Diệu, người ta đã cảm nghe thấy một thứ văn xuôi
hoàn toàn khác, chỉ những người có đọc và có thấm thía nhữn A.
France M.Proust, A. Gide… mới viết nổi, tóm lại là một thứ văn xuôi
thuộc cái mạch hiện đại. Một sự tiến triển như vậy sở dĩ có được, là
nhờ tới sự đóng góp của nhiều người. Và ở đây, chúng ta nên biết tới
một quy luật thường vẫn chi phối các tìm tòi trong văn giới, ấy là
có khi người mở đường lại rơi vào quên lãng, còn người tới sau lại
gặt hái được vinh quang, do chỗ đã tổng kết được kinh nghiệm của
những người đi trước. Trong một chừng mực nào đó, câu chuyện về văn
chương của Vũ Bằng và cuốn Cai của ông ở vào trường hợp như
thế.
Vào khoảng1943, 1944,
(tức khi viết Cai) Vũ Bằng đã là một ngòi bút chững chạc. Bên
cạnh tư cách một ông lớn trong nghề làm báo, một tay giữ chân Thư ký
toà soạn mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt
san, Truyền bá, Trung bắc chủ nhật, ông còn là tác giả của mấy
tập truyện được dư luận nhắc nhở. Một bằng chứng mặc dù nhóm Tự
lực văn đoàn vốn rất thù ghét các nhà văn viết cho nhà Tân dân
song năm 1937, khi Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng
được in ra, Khái Hưng đã viết bài giới thiệu trên báo Ngày nay
trong đó công nhận đây là một cuốn sách “không tầm thường chút nào”.
Lại nữa, mặc dù có nhiều lời chê bai, song trong Nhà văn hiện đại,
phần viết về Vũ Bằng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan vẫn ghi nhận Vũ Bằng
có cái cách riêng của mình. “Khi tả nhân vật, dù là họ ở vào hoàn
cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn
bút dí dỏm, nhạo đời, hơi đá hoạt kê một chút.” Có thể đoán là khi
viết Cai, ngòi bút Vũ Bằng có được sự lui tới tự do và hào
hứng. Nhân câu chuyện mình đã nghiện thuốc phiện thế nào, rồi đã cai
ra sao, Vũ Bằng muốn làm một cuộc thăm thú về những sa đà lầm lẫn
mình từng mắc phải, và cách thức vận dụng tất cả lương tri sẵn có
tất cả nghị lực, để vượt lên trên những lầm lỡ ấy. ý hướng đạo lý
của tác giả ở đây đã rõ ràng. Nhưng điều quan trọng là trong Cai,
thiện chí ấy lại được bộc lộ một cách thông minh và khéo léo, khiến
cho câu chuyện có được sức thuyết phục mà những cách làm lộ liễu
vụng về không bao giờ có nổi. Có thể nói trong cuộc đời viết đông
viết tây, viết xuôi viết ngược đủ thứ của Vũ Bằng, Cai đánh
dấu một sự chín đầy trọn vẹn của ngòi bút, cái mức chín đẹp trước
đó, ông chưa đạt tới và phải mấy chục năm sau, tới Thương nhớ
mười hai, ông mới có dịp lặp lại. Còn đứng về văn xuôi tiền
chiến nói chung mà xét, đọc Cai, ngườ ta thấy những tìm tòi
trong văn xuôi Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, nhất là những thành tựu trong
hàng loạt truyện ngắn của Nam Cao không ngẫu nhiên và cô độc. Cả một
văn mạch đã hình thành. Dù là chỉ thay đổi rất từ tốn thôi, nhưng
trong vòng hai chục năm gấp gáp thời tiền chiến, văn xuôi đã có
những sự vận động rất hợp lý.
*
Đọc các từ điển chuyên về
văn học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và thơ thường
được viết trong thế đối lập nhau. Một bên thiên về đời thường (trong
nhiều ngôn ngữ phương Tây, chữ prose proza tức văn
xuôi , khi chuyển thành hình dung từ , thì có nghĩa tầm thường) một
bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt. Một bên bảo tôi thấy gì
viết nấy, bên kia bảo không, hành động viết của tôi là một hành động
sáng tạo với nghĩa đầy đủ của nó. Và đi vào nội dung được miêu tả,
nếu trong văn xuôi, người ta có thể bắt gặp cả thế giới, thì trong
thơ, cái chính là cái thế giới ấy được cô đúc lại, và đối tượng được
miêu tả ở đây, là tâm hồn con người.
Có thể là khi sáng tác,
các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chưa biết tới đầy đủ cái sự
phân chia thuần tuý lý thuyết nói trên, nhưng trong thực tế, họ đã
tuân thủ nó một cách tự nguyện. Đại khái mỗi tác phẩm văn xuôi được
viết - dù tiểu thuyết, hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều
là một câu chuyện. Nghe câu chuyện ấy, người ta hình dung ra một
khung cảnh ở đó, có những con nguời hoạt động. Kể chuyện tức là tác
giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói tác giả giống như một
luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông
tác giả đóng vai thượng đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một
khoảng cách, cái gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần dà ông mới khéo
léo gỡ mối và khiến cho mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên
mạch lạc.
Cái độc đáo của Vũ Bằng
khi viết Cai là tác giả không định biến nó thành một thứ tiểu
thuyết thông thường tức là khách quan hoá câu chuyện của mình theo
kiểu trên đây vừa nói. Ông không cố ý tạo ra những bức tranh phong
cảnh làm nền cho câu chuyện, mà cũng chả buồn phác hoạ đầy đủ các
nhân vật phụ trợ để gộp cả lại làm nên một tấn trò đời thú vị.
Ngược lại có vẻ như ông chỉ chú ý đến bản thân cùng người đọc vô
hình mà ông cảm thấy như đang ở bên cạnh và muốn dốc hết bầu tâm tự
cho người đó nghe. Tuy người ta cũng thấy ở đây một câu chuyện - câu
chuyện tôi, tức là Vũ Bằng cai thuốc phiện - nhưng cái nổi
lên rõ hơn, bao quát các trang viết, là cái giọng riêng của người
kể. Đọc tác phẩm của Khái Hưng hoặc Nguyễn Công Hoan dù trong đó có
xưng tôi đi chăng nữa, song người ta vẫn như được xem một cuốn phim.
ở đó liên tiếp có những chuyển cảnh; thiên nhiên xen lẫn với chuyện
đời; và những nét tâm tình chỉ được cài chen loáng thoáng. Với
Cai của Vũ Bằng thì khác. Trước mắt chúng ta toàn bộ tác
phẩm như sự bột phát vừa liên tục vừa đứt đoạn của một đời sống nội
tâm nồng nhiệt, chỉ biết có mình, ào ạt muốn bộc lộ mình, và nếu đôi
lúc một vài hình hài của cuộc sống chung quanh có hiện lên đây đó,
thì cũng chẳng qua là nhân tiện mà nói tới. Ta hãy để ý đến từng
đoạn mở đầu của các chương sách. Trong số 24 chương của Cai,
hầu như không chương nào được mở đầu bằng khung cảnh. Mà toàn những
“Đến lúc đó, tôi mới biết rằng…”, “Nói thế xong, tôi lại
hút như thường”, “Những đêm hút như thế thật là một thú. Tôi
phải dặn trước chủ tiệm”, “Trông thấy tôi Liên Hương có
cảm tuởng gì, ông có biết không” - tóm lại, toàn bộ áng văn xuôi
này là tâm tình của tác giả, tâm tình ấy được giãi bày trong sự tha
thiết đến chới với, muốn nói thật nhanh, muốn nói ra bằng được những
điều bấy lâu dồn ép, và lấy việc được bộc lộ làm sung sướng.
Cũng vì chú ý giữ lấy
tính chất tự nhiên của câu chuyện, và sẵn sàng xem việc viết ra là
để thoả mãn nhu cầu của bản thân hơn là cho một công chúng giả tưởng
nào đó được đọc, tác phẩm văn xuôi này của Vũ Bằng còn nổi bật lên
với một giọng điệu riêng khó lẫn với người khác. Trong sự tiến triển
chung của nền văn xuôi trước 1945, hầu như các tác giả quan trọng
đều là người có hơi văn độc đáo và chỉ cần nhớ đến Nam Cao là chúng
ta nhớ ngay cái giọng riêng của ông. Cái giọng ấy, có lúc như nói
riêng mình, lại có lúc như đang hướng về người khác, đối diện với
người khác. Khi nói một mình thì bâng quơ mà lại tha thiết, khi nói
với người khác thì riết gióng, và đôi phen như là ngả sang dằn dỗi.
Khách quan mà xét, nếu có một người gợi nhớ đến Nam Cao hơn cả thì
đó chính là Vũ Bằng, trong quyển Cai mà chúng ta đang nói:
Văn Nam Cao.
Hắn nghĩ về đứa con như vậy. Bởi vì hắn là một người vui tính. Hắn
thích tìm ra những ý nghĩ ngộ nghĩnh để cười một mình (Cuời).
Văn Vũ Bằng trong Cai.
Bạn đọc, ông đã có lần nào ốm nặng chưa? Có. Tôi biết. Đêm ấy là một
đêm cuối hạ sang thu. Rét về. Người ta thấy sôi nổi ở trong lòng
những sự thương nhớ vẩn vơ. Lại điểm mấy hạt mưa lất phất. Hỡi ôi,
ngồi một chỗ, người ta có thể sầu mà chết bỏ đời.
Văn Nam Cao:
Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa
lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. (Chí Phèo)
Văn Vũ Bằng trong Cai.
Người ta lấy nước ở trong bụng ông ra. Được ba thùng. Như nước lọc.
Tốt. Ông Bang có cơ khỏi được. Thôi, ăn mừng.
Văn Nam Cao:
Họ nhìn vào căn buồng
vừa mở cửa. Một đôi chân tím bầm lủng lăng trên không khí. Đó là ông
lang Rận, ông thắt cổ. Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của mụ
Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông ngoẹo
xuống (Lang Rận)
Văn Vũ Bằng trong Cai:
Một anh sướng ra một trò chơi không nhàm. ấy là chọn lấy một anh ốm
yếu nhất, bắt phải…chết để cho anh em lo liệu. Hỏi thăm. Phủ mặt.
Thắt bọng đái. Một anh đi mua tám ngọn nến thắp chung quanh người
xấu số. Kèn bát âm. Bài xuân nữ. Cử ai. Cả bọn bưng mặt khóc ầm ĩ
như khóc một người chết thật.
Những đoạn văn tưởng như
do cùng một tác giả viết ra, trong một cuốn sách!
Nên xem xét sự gần gũi
này thế nào?
Một mặt, thì như Tô
Hoài đã thú nhận “Giá trị ảnh hưởng của Vũ Bằng với chúng tôi đã
chắt lại ở sự gợi ý to lớn. Mặt khác, sẽ là ngớ ngẩn, và thô bạo
nữa, nếu quá rạch ròi trong phân định vai trò mỗi người trong hướng
tìm tòi thống nhất nói trên. Điều có thể rút ra ở đây, là một
hướng đi mà nhiều người cùng theo. Sau những giọng văn trung hoà
mạch lạc của Khái Hưng, Nhất Linh, Lan Khai, đến giai đoạn này, văn
xuôi Việt Nam bắt đầu có những tìm tòi ngả sang một thứ gì đậm hơn,
gắt lên, gây ấn tượng hơn, mà cũng là giúp cho tác giả và người đọc
trở nên gần gặn hơn, nó là cái xu thế chung thấy ở văn học
hiện đại, tuy rằng cách bộc lộ thì mỗi trường hợp một khác.
*
Đến đây, người ta có thể
đặt câu hỏi: Điều quan trọng trong một tác phẩm văn học, là ở nội
dung của nó, chứ đâu có phải ở hình thức nghệ thuật? Những tìm tòi
nói trên của Vũ Bằng chẳng phải là đôi khi gây thêm khó khăn cho
việc tiếp nhận tác phẩm?
Thật ra thì mọi chuyện
không đơn giản như vậy.
Suy cho cùng, các biện
pháp nghệ thuật trong văn chương không vô can, cũng không phải tuỳ
tiện. Có thể mạnh dạn mà nói rằng cái cách trình bày đời sống nội
tâm tự nhiên như trên đánh dấu một trình độ mới trong quan niệm nghệ
thuật của các nhà văn như Vũ Bằng hay Nam Cao. Họ không định đứng ra
răn dạy bạn đọc, theo kiểu mấy ông đồ cổ lỗ đứng ra thuyết minh đạo
đức đã đành. Mà họ cũng không cố làm ra vẻ khách quan, đứng ngoài
câu chuyện, như trong mấy cuốn Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên,
Khái Hưng đã tự xác định. Sòng phẳng hơn, họ muốn trang giấy trở
thành một chỗ để tâm sự với mọi nguời, và bằng cách đó, tiến xa hơn
trên con đường dân chủ hoá văn học.
Tại sao có thể nói vậy?
Chắc chắn khi muốn trở
thành thượng đế trong tác phẩm, tức cái gì cũng biết, cái gì cũng
sắp xếp đâu vào đấy, có mặt ở mọi nơi mà không xuất đầu lộ diện…,
thực ra nhà văn đã giả thiết rằng mình đứng ở địa vị cao hơn nên so
với bạn đọc trong khi kinh nghiệm cho thấy trong sự giao tiếp,
khoảng cách đôi bên càng thu hẹp càng tốt, đấy là một lẽ. Còn một lẽ
nữa: Dù muốn hay không muốn, người ta cũng phải công nhận là ở con
người hiện đại, đời sống tâm linh là một cái gì hết sức phức tạp, và
muốn biết một nhà văn có thấu đáo lẽ đời không, mà cũng là có tôn
trọng bạn đọc không, hãy nhìn xem nhà văn đó hiểu về con người ra
sao. Chính định hướng ấy sẽ quyết định toàn bộ các vấn đề kỹ thuật
của tác phẩm. ở chỗ này, vói tư cách một người đương thời chịu để ý
học hỏi, Tô Hoài tỏ ra khá nhạy cảm. Trước tiên, ông phân tích khá
rạch ròi khác biệt giữa một tác giả cũng rất nổi tiếng, và sự thực
đã viết rất sớm là nhà văn Nguyễn Công Hoan, với trường hợp của Vũ
Bằng. Theo Tô Hoài mãi đến về sau này, Nguyễn Công Hoan vẫn tuân thủ
nghiêm ngặt cách dựng nhân vật bằng một số thủ pháp cổ điển như: ý
nghĩ nhân vật không lẫn lộn xen với tả cảnh; nhân vật nghĩ dứt rồi
mới hành động; miêu tả nhân vật này nghĩ và làm xong mới miêu tả
nhân vật khác”(tài liệu đã dẫn). Trong khi đó, vẫn theo Tô
Hoài, ở Vũ Bằng mọi chuyện khác hẳn “Vũ Bằng miêu tả nhân vật hoạt
động và nội tâm khăng khít với quang cảnh, có nghĩa là cuộc sống con
người quấn quýt, dằng co giữa tâm trạng và hình thức giữa tất cả với
chung quanh” Tiếp đó, Tô Hoài nhấn mạnh ý nghĩa toát ra từ những
biện pháp nghệ thuật trên của Vũ Bằng “Tác giả không chụp ảnh, không
ghi lại không trau chuốt đưa nhân vật ra. Hình như tự các nhân vật
với vấn đề và triết lý tư tưởng của mỗi số phận với xã hội tác động
nhau, nghiêng ngả khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui
bé nhỏ của đời người” (tài liệu đã dẫn) Thì ra là thế! Để
hiểu quan niệm về con người của một nhà văn trước tiên phải xem xét
cái thái độ yêu thương trân trọng hay xem thường thậm chí ghen ghét
mà tác giả tuyên bố hoặc trực tiếp bộc lộ qua việc miêu tả. Nhưng
ngoài ra, còn một biểu hiện nữa gián tiếp hơn, đó là hãy nhìn tổng
quát xem trong tác phẩm đó, tâm lý nhân vật là đơn giản hay phức
tạp, thẳng đơ một chiều hay là muôn hình muôn vẻ, và luôn luôn biến
chuyển không dễ gì nắm bắt nổi. Theo hướng thứ hai mà xem xét, có
thể bảo cái giọng văn, cái hơi hướng câu văn kiểu như Vũ Bằng
cũng như Nam Cao là một cách thức để làm cho văn chương gần với con
người hơn, nhất là những con người “khi say khi tỉnh trong đau khổ
và những niềm vui bé nhỏ” là đa số chúng ta. Sở dĩ có thể nói văn
học càng hiện đại hơn thì càng dân chủ hơn, lý do chính là như thế.
*
Những ngưòi có tìm hiểu
kỹ đời sống văn học 1932-1945 đều biết Vũ Bằng là một trường hợp hết
sức mâu thuẫn: Một mặt ông thông minh, nhạy bén, vừa viết văn vừa
viết báo và có ảnh hưởng đến nhiều đồng nghiệp đương thời. Mặt khác,
đó lại là con người sống ào ào, viết ào ào, cẩu thả, dễ dãi ngay với
những trang viết của mình, lấy việc không viết gì đến nơi đến chốn
làm thói quen thường trực. Những tài hoa sắc sảo của ông thường tản
mát đây đó. Quá tự tin, hay quá khinh xuất, ông để nó vung vãi khắp
nơi, và ngẫu nhiên bột phát đến đâu thì đến. Đôi khi, vừa đọc xong
một trang rất hay của ông, người ta bắt gặp những trang viết tuỳ
tiện “không thể thương nổi”, và nói chung cái tình trạng được mặt
này hỏng mặt khác không chỉ là chuyện của riêng tác phẩm nào mà là
của cả đời văn ông nữa. Bởi thế, trong khi một số người gần gũi mến
ông vì tài, quý ông vì sự sống cởi mở với chung quanh, thì người ở
xa dễ có cảm tưởng là ông loăng quăng, không đâu vào đâu. Ngoại trừ
trường hợp Vũ Ngọc Phan (với Nhà văn hiện đại), hầu như không
có nhà nghiên cứu nào khi xem xét lịch sử văn học 32-45 để công
viết riêng - viết kỹ về ông, bởi đại khái người ta cho ở Vũ Bằng
lượng nhiều hơn phẩm, làm ồn gây nhiễu cho đời sống văn chương hơn
là có đóng góp cụ thể.
Một cách đánh giá như thế
không khỏi có chút bất công. Nhưng làm sao khác được?! Chính Vũ Bằng
là tác giả của cách tồn tại của ông trong văn học. Có điều,
cũng nên nói thêm là trong khi những người khác thuận lợi hơn, được
só mệnh phục trợ hơn, thì hình như ông không gặp may nữa. Trường hợp
hồi ký Cai. Chính là ví dụ về sự không gặp may đó.
Người tò mò có lẽ không
bỏ qua mấy dòng ghi ở cuối bản Cai in lần thứ nhất:
In xong ngày 30 Septembre
1944
Tại nhà in Tân Dân Hà Nội
Tạm thiên về
Mục Xá, Thanh Oai, Hà
Đông
Lúc bấy giờ, cuộc đại
chiến thế giới lần thứ hai đã đi gần đến hồi kết thúc, nó lây lan
sang cả Đông Dương. Và trên mảnh đất hình chữ S mà dân ta đang sinh
sống, lòng người gần như không thể bình tĩnh nữa, lòng người đang
chờ đợi những thay đổi lớn.
Có lẽ vì lý do như thế
nên cuốn Cai chìm đi ngay khi ra đời, hầu như rất ít người
được đọc nó, lại càng không ai nhắc nhở nó trên báo chí, và
một thời gian dài , người ta không biết có nó trên đời . Ngày
nay đọc lại Cai, trước tiên chúng ta vui mừng vì được tiếp
xúc với một tác phẩm lành mạnh - nó cổ vũ mọi nguời kiên quyết hơn
trong cuộc đấu tranh chống lại một tệ nạn xã hội tàn phá ý chí và
sức khoẻ con người. Nhưng về mặt văn chương mà xét, với Cai,
người ta bắt gặp một tác phẩm văn xuôi dài hơi tự hoàn chỉnh trong
giọng điệu và là một thể nghiệm độc đáo về mặt thể loại. Cùng với
nhiều tác phẩm đương thời, cuốn sách này của Vũ Bằng cho thấy đến
những năm 40 của thế kỷ này, văn xuôi Việt Nam đã trưởng thành, nó
trở nên biến hoá đa đạng hơn, mà cũng là dẻo dai mềm mại hơn, tự bản
thân nó đã là một bằng chứng ghi nhận sự phát triển tinh vi phức tạp
đã đến trong đời sống và trong nội tâm con người hiện đại.
1997
Lời giới thiệu viết cho
Cai, hồi ký của Vũ Bằng
NXB Hải Phòng 1997
Trở về trang mục lục
Vương Trí Nhàn
Trở về trang Văn
Hoá & Giáo Dục
|