Tiếng Dân
Nhà báo Đoàn Bảo Châu phỏng vấn kinh tế gia Phạm Chi Lan về Dự
luật Đặc khu
LTS: Dự luật đơn vị Hành chính – Kinh tế Đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân
Phong, Phú Quốc (gọi tắt là Luật Đặc khu), hiện đang được mang ra bàn
thảo tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 14 . Dự luật này cho phép người
nước ngoài thuê đất dài hạn, lên tới 99 năm, có khả năng sẽ được Quốc
hội thông qua trong tuần tới.
Đông đảo người dân Việt Nam trong và ngoài nước, đủ mọi thành phần, hiện
đang lên tiếng phản đối dự luật này, bởi họ lo ngại an ninh quốc gia bị
đe dọa, khi những người thuê đất dài hạn kia là người Trung Quốc, hoặc
người từ nước khác làm trung gian, giúp người Trung Quốc thuê đất ở
những khu vực hiểm yếu tới 99 năm.
Nhân sự kiện này, nhà báo Đoàn Bảo Châu phỏng vấn chuyên gia kinh tế
Phạm Chi Lan, bà Lan cho rằng: “Dự luật này rất nên dừng lại, Quốc hội
đừng thông qua vội, để hỏi ý kiến thêm của các chuyên gia về các lĩnh
vực khác nhau, không phải chỉ kinh tế, mà cả xã hội, các chuyên gia về
an ninh, quốc phòng nhìn từ nhiều góc độ, để xem xét lại…”. Tiếng Dân
xin được gỡ băng video clip phỏng vấn này, kính mời quý độc giả đọc
tiếp.
____
5-6-2018
PV:
Hiện nay trên mạng XH cũng như trên báo chí cũng đang bàn luận rất
nhiều về việc Quốc hội chuẩn bị thông qua luật về đặc khu, bà đánh giá
như thế nào về dự luật này?
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ dự luật này rất nên dừng lại, Quốc hội đừng thông qua vội, để
hỏi thêm ý kiến của các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, không phải
chỉ kinh tế, mà cả xã hội và chuyên gia về an ninh, quốc phòng nhìn từ
nhiều góc độ để xem xét lại.
Thứ hai nữa là rất cần phải hỏi ý kiến của đông đảo người dân. Bởi vì
trong những ngày vừa qua, khi tôi đi các nơi, kể cả gặp những người rất
bình thường, hoặc là ngồi trên xe taxi, thì những người lái xe taxi cũng
chia sẻ với tôi nỗi bức xúc, lo lắng của họ trước [dự] luật này.
Hầu hết mọi người đều cho rằng, đưa ra Luật Đặc khu này, nhất là với
điều kiện 99 năm thì có thể biến 3 đặc khu của VN thành vùng lãnh thổ
trên thực tế của nước láng giềng Trung Quốc. Một đất nước mà có rất
nhiều tham vọng về lãnh thổ, cũng như có những nhu cầu về di dân của họ,
đi khắp nơi để đỡ gánh nặng dân số trên mảnh đất của họ.
Tham vọng của TQ đối với VN thì không hề che giấu trong suốt nhiều năm
rồi, tôi không nói đến lịch sử nghìn năm ai cũng thuộc, bất cứ người dân
VN nào ai cũng thuộc. Ngay cả trong lịch sử hiện đại VN, thì tham vọng
lãnh thổ của TQ kể từ những dấu mốc như cuộc chiến tranh biên giới vào
những năm ’79, rồi những cuộc chiếm các đảo của VN như Gạc Ma, rồi tất
cả các đảo khác của VN trong suốt thời gian vừa qua. Gần đây nhất như
chuyện TQ tăng cường vai trò của họ, quân sự hóa các bãi đá mà họ biến
thành đảo nhân tạo ở các vùng thuộc lãnh thổ VN ở Biển Đông, cho thấy
rất rõ tham vọng không hề che giấu đó.
Trong điều kiện như vậy, mà nền kinh tế VN cũng đang bị lệ thuộc ngày
càng nặng nề nhiều hơn vào TQ về nguồn cung cho rất nhiều vật tư đầu vào
cũng như việc xuất khẩu một loạt các sản phẩm của VN, thì cái mối nguy
của việc 3 đặc khu, có thể biến thành những vùng lãnh thổ của TQ ở VN là
rất lớn. Chính vì vậy mà những người dân bình thường của VN cũng đều bày
tỏ sự lo lắng của họ.
Đứng về góc độ kinh tế, góc độ chuyên gia, chúng tôi cũng thấy trong
thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa hiện nay, trong
bối cảnh VN đã tham gia FTA, Hiệp định Thương mại Tự do với các nước
khác nhau trên thế giới, với những cam kết rất cao về mở cửa thị trường
ở VN về tạo thuận lợi cho nhà đầu tư từ các nước đến làm ăn kinh doanh
với VN, thì những mô hình như đặc khu kinh tế thực sự không cần thiết
nữa.
Thứ hai nữa là, những đặc khu đó được đưa ra trong dự thảo luật cùng với
các văn bản, phụ lục kèm theo, đưa ra những lợi ích vô cùng to lớn cho
các nhà đầu tư vào đó, thì điều đó trái với những cam kết FTA của VN để
tạo môi trường bình đẳng cho các nhà đầu tư khác nhau trên mảnh đất VN.
Và đặc biệt nó gây hiệu ứng chèn lấn đối với doanh nghiệp VN, đối với
công dân VN, về rất nhiều việc mà vốn dĩ luật pháp chưa cho người VN làm
trên đất nước mình, thì lại mở ra cho người nước ngoài làm.
Kể cả những điều kiện kinh doanh (ĐKKD) chẳng hạn, vốn dĩ điều kiện kinh
doanh được lập ra là nhằm bảo vệ lợi ích cho xã hội, cho người dân, hoặc
là môi trường, trong những lĩnh vực cần kiểm soát, thì bây giờ vào đặc
khu, cũng mở ra rất nhiều ĐKKD, dỡ bỏ đi để cho nhà đầu tư tự do làm,
thì điều đó có thể gây phương hại vô cùng to lớn cho xã hội, cho người
dân, không chỉ ở trong đặc khu đó. Tôi cho là, có quá nhiều vấn đề trong
dự luật đặc khu này cần phải xem xét lại.
Tôi rất mong là Quốc hội lần này dừng lại, chưa thông qua luật này, để
có thể lắng nghe nhiều hơn ý kiến của người dân, của doanh nghiệp, của
tất cả các đối tượng khác trong xã hội, đặc biệt là các chuyên gia đang
vô cùng bức xúc về vấn đề này.
PV:
Thế nhưng mà bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim ngân có phát biểu rằng,
Bộ chính trị (BCT) đã thông qua, vậy thì QH cần phải bàn để đưa ra được
luật, bà nghĩ sao về phát biểu của bà Chủ tịch QH?
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ khi BCT thông qua thì có thể BCT đến những chủ trương lớn, đến
một chiến lược và mong muốn tạo cơ hội cho VN phát triển. Tôi cũng thực
lòng mong muốn và tin rằng BCT muốn thiết kế ra cách để VN phá triển một
cách đột phá, chứ không phải như nhiều người nghĩ là một cách để làm cho
VN bất lợi trước nước láng giềng. Tôi thực lòng mong muốn là như vậy.
Nhưng rất có thể là, khi thông qua chủ trương lớn đó, thì BCT không xem
xét được đến những nhân tố cụ thể, những điều cụ thể được đưa vào trong
luật. Và nhất là đưa vào trong các phụ lục kèm theo luật mà nó mở toang
cánh cửa của VN quá rộng cho các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như không
được báo cáo hết hoặc tính toán hết những tác động có thể có của dự luật
này.
Vì vậy cho nên, có thể BCT có chủ trương nhưng mà cũng vẫn không thấu
đáo được, thì tôi vẫn mong là xưa nay chúng ta vẫn nói đến “ý đảng, lòng
dân”, thì lần này ý đảng nên nghe thêm lòng dân, để có thể thực sự hòa
hợp được với nhau. Và vì vậy, cho nên bà Chủ tịch QH nói vậy tôi cũng
vẫn mong là QH với tư cách là đại diện của dân, làm sao kết hợp đưa được
ý kiến của dân vào luật, chứ không chỉ một chiều theo chủ trương lớn đã
được đưa ra. Vì tôi thực sự e rằng, chủ trương lớn đó thường không đi
được vào các chi tiết, mà nhiều khi cái chết là ở các chi tiết, chứ
không phải ở bản thân các văn bản pháp luật.
Tôi cũng xin chia sẻ kinh nghiệm cá nhân tôi tham gia rất nhiều vào việc
đóng góp vào các dự thảo luật lâu nay, cũng như các dự thảo chính sách
của nhà nước VN, thì tôi luôn luôn e sợ nhất là việc các nhóm lợi ích
cài cắm những lợi ích riêng của mình. Nhiều khi chỉ vào một vài từ trong
văn bản pháp luật, thì nó có thể làm lệch lạc hoàn toàn ý tưởng của luật
đó đi.
Ví dụ, khi luật muốn tạo điều kiện tự do kinh doanh hoặc cạnh tranh bình
đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau, nhưng chỉ cần cài cắm vào đó vài
điều thôi, như việc cụ thể này do chính phủ ban hành các quy định. Như
vậy thôi, cũng có thể làm cho những ý tưởng của luật vốn dĩ là tốt, thì
có thể bị méo mó, bị lệch lạc hết, trong quá trình ban hành văn bản tiếp
theo, nhất là trong quá trình thực hiện sau này.
Nhìn vào Dự luật đặc khu này, tôi cũng có thể thấy rất nhiều điều cài
cắm lợi ích theo kiểu đó.
PV: Với tư cách là một phóng viên không chuyên về kinh tế, mong muốn bà
góp thêm ý kiến về việc những đặc khu được mở ra vào những năm 70, 80 ở
thế kỷ trước, như Thẩm Quyến chẳng hạn, tại sao họ thành công được bởi
vì lúc đó nền kinh tế của họ là nền kinh tế kế hoạch, và họ mở ra đặc
khu để có những chính sách ưu đãi về luật, về thuế… do vậy mới phát
triển được. Bây giờ với thời đại công nghệ 4.0 và thế giới phẳng thì
việc mở ra những đặc khu liệu rằng hiệu quả kinh tế nó được như người ta
kỳ vọng hay không? Bởi vì mình không thể chạy theo thế giới, một điều mà
người ta đã làm 30-40 năm rồi, trong khi mình đặt niềm tin vào một cái
rất mơ hồ, sẽ mang nhiều rủi ro. Bà có đồng ý với ý kiến đó không?
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi đồng ý với ý kiến đó. Thực ra rõ ràng khi ở TQ, ông Đặng Tiểu Bình
chủ trương phát triển Thẩm Quyến là trong bối cảnh nền kinh tế TQ đang
rất muốn có cải cách kinh tế mạnh mẽ hơn. Từ những người có tư tưởng cải
cách mạnh mẽ như Đặng Tiểu Bình, nhưng không thể áp dụng rộng rãi trên
toàn quốc được, cho nên ông ta phải tìm một chỗ để thí điểm mô hình đó.
Từ đó chứng minh lợi ích của việc cải cách của những chính sách mới
thông thoáng, mở cửa hơn, thay vì chính sách tập trung vào trong tay nhà
nước như trước đó, để từ đó nhân rộng ra.
Tác dụng của Thẩm Quyến không phải chỉ làm cho vùng Thẩm Quyến phát
triển, mà quan trọng nhất là những thể chế đó sau đó được áp dụng trên
toàn TQ và làm cho TQ mạnh lên về mặt kinh tế.
Đối với VN bây giờ cũng vậy, trải qua ngần ấy năm cải cách rồi, như tôi
đã nói, VN còn đang tham gia các FTA, với những cam kết rất mạnh mẽ về
mở cửa thị trường. Có thể nói, các FTA thế hệ mới như TPTPP hoặc EVFTA
mà VN đang tham gia là những FTA được coi là của thế hệ mới, trong đó có
những cam kết rất mạnh mẽ về đổi mới thể chế ở VN nữa. Tôi cho rằng, với
việc như vậy, VN nên tập trung vào thực hiện những cam kết của mình đã
có với các nước và nên xem xét lại trong thời gian vừa qua, trong quá
trình cải cách của mình, còn những gì nữa cần phải thực hiện tiếp để cho
nền kinh tế có thể phát triển mạnh mẽ hơn trên cả nước.
Và nếu có thí điểm, thì thí điểm là những chính sách khó, là những biện
pháp khó cho những FTA thế hệ mới mà VN chưa dám làm ngay trên quy mô cả
nước, thì có thể làm trong phạm vi hẹp.
Ví dụ như việc người ta đưa ra những yêu cầu về bảo hộ sở hữu trí tuệ để
cho công nghệ cao có thể phát triển, thì có thể trong các khu công nghệ
cao rất cần áp dụng một chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ thật mạnh, để làm
cho các nhà đầu tư mạnh dạn chuyển giao công nghệ cho VN. Đấy là cách
thí điểm thể chế.
Mọi thí điểm thể chế là để sau đó nhân rộng ra cho tất cả, chứ không
phải gom lại mỗi đặc khu như thế này, nó biến thành một quốc gia nhỏ
trong một quốc gia lớn, trong đó có những thể chế riêng biệt mà không áp
dụng được cho cả nước. Tôi nghĩ cái đó không phải. Hơn nữa VN cũng chưa
cần phải học nhiều ở các nước khác, mà học ngay bài học của chính mình.
Ở VN lớn nhỏ đã có chừng gần 500 các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao… đã được hình thành trong những năm vừa qua,
hay như các khu kinh tế ven biển…
Nhưng trong thời gian vừa qua, kể cả một số chính sách đặc biệt được tạo
ra cũng vẫn chưa đủ để làm các đặc khu này phát triển lên. Do vậy, VN
cần phải có một nghiên cứu, đánh giá thấu đáo, tại sao các chính sách
này lại chưa làm được cho những khu mà VN đã từng chủ trương tạo cho nó
những cơ chế đặc biệt để phát triển, mà lại chưa phát triển được. Trên
cơ sở đó thì rút kinh nghiệm, thấy thể chế nào cần bồi đắp cho nó thì
tập trung bồi đắp, để cho những khu mà VN đã hoạch định rồi có thể phát
triển lên và từ đấy nhân rộng ra cả nước.
Tôi nghĩ đấy là cách đơn giản hơn nhiều. Tôi chỉ muốn nói đến ví dụ khu
công nghệ cao (CNC) Hòa Lạc, vào tháng 3/2018 ông Phùng Quốc Hiển, Phó
Chủ tịch QH đã đến thăm khu công nghệ cao Hòa Lạc ở ngay Hà Nội, thì sau
20 năm, khu CNC Hòa Lạc vẫn chưa phát triển được như VN mong muốn. Số
nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ cao vào đó vẫn còn rất hạn hẹp. Tại
sao lại như vậy?
Khi ông Phùng Quốc Hiển cùng đoàn ĐBQH đến thẩm tra mới hiểu ở đó, mặc
dù chính phủ đã ban hành rất nhiều những chính sách tốt cho khu CNC này,
nhưng không áp dụng được trên thực tế, bởi nó vướng 13 luật pháp khác
chưa sửa, để làm cho những chính sách này được thự thi. Và vì vướng ở 23
luật này, mà khu CNC Hòa Lạc không có điều kiện để phát triển được.
Thế thì tôi nghĩ, đem luôn kinh nghiệm mà ông Phùng Quốc Hiển đã thấy
này, tập trung sửa những quy định trong 13 luật pháp đang cản trở khu
CNC Hòa Lạc, áp dụng vào nó để xem CNC Hòa Lạc có bật được lên hay
không. Đấy là một cái cách để thí điểm thể chế, đâu cần tìm những kinh
nghiệm khác ở đâu xa nữa cho VN?
Điều cuối cùng tôi muốn nói là, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
như thế này, thì không có những ngành nghề, những lĩnh vực gì nó kéo dài
quá đâu. Nếu VN cứ mong muốn là dùng những chính sách ưu đãi thật nhiều,
kéo dài thật lâu về thuế, về tiền thuê đất, về thời hạn sử dụng đất… thì
những cái đó cũng vô nghĩa. Trong thời đại hiện nay, nó không có tác
dụng thực sự với những người đầu tư sử dụng công nghệ mà tuổi thọ hay
vòng đời của các sản phẩm nó ngắn lại rất đáng kể và nó phải thay đổi
liên tục để cạnh tranh, trong khi đó nó lại chỉ tạo cơ hội cho những
người đầu cơ, đặc biệt là đầu cơ trục lợi trên đất đai.
PV: Bà Chủ tịch Quốc hội có nói rằng, những đặc khu kinh tế, nếu bỏ vào
1 đồng thì sẽ thu về 10 đồng hoặc 100 đồng. Với tư cách là một người
dân, tôi nghe như vậy, tôi cảm thấy rất là mơ hồ. Bởi vì khi phát thảo
ra đặc khu kinh tế thì phải có một ý tưởng rõ ràng, có thể dự đoán rằng,
trong 10 năm, 20 năm, 30 năm nữa, thì đặc khu kinh tế đó, có thể mang về
lợi ích kinh tế gì cho đất nước. Nhưng mà tôi sợ rằng, phát biểu của bà
Kim Ngân hoàn toàn vô căn cứ và mang tính cảm tính. Bà có đồng ý với
quan điểm này không?
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ có thể bà Kim Ngân đã được ai đó, chuyên gia nào đó tư vấn và
gợi mở cho bà ấy con số đó. Cá nhân tôi thật sự không tin con số đó. Có
thể là có dòng vốn đầu tư vào, khi mà nói bỏ ra 1 đồng, có người bỏ ra
100 đồng thì tôi nghĩ là dòng vốn của nhà nhà đầu tư nào đó mang vào, có
thể là như vậy. Nhưng trên thực tế, ít nhất là 2 trong 3 đặc khu này là
Vân Đồn và Phú Quốc, thì chưa cần có chính sách đặc khu gì, người ta đã
mua đất, đã xây dựng, đã làm rất nhiều thứ rồi.
Đất đai ở Phú Quốc gần như đã hết, cho các khu resort, cho các khu nghỉ
dưỡng, cho các dịch vụ du lịch khác nhau, mà chưa cần có chính sách ưu
đãi gì. Tôi nghĩ, khi người ta thấy có cơ hội kinh doanh, là các nhà đầu
tư có thể nhảy vào. Thì trong trường hợp này, chúng ta không cần bỏ 1
đồng ưu đãi về thuế, về đất, đã có thể có nhiều đồng của các nhà đầu tư
vào rồi. Cho nên tôi nghĩ là, cứ nhìn vào Phú Quốc như vậy rồi lại nghĩ
khi trở thành đặc khu thì nhiều hơn. Tôi cho là không phải như vậy đâu.
Vả lại số tiền người ta bỏ vào bao nhiêu, không quan trọng bằng lợi ích
thực sự là VN có được bao nhiêu.
Lâu nay có thể nói là trong chính sách đầu tư nước ngoài, VN thu hút
được nhiều dự án đầu tư nước ngoài, nhưng lợi ích giành lại cho đất nước
VN, nói thật, khiêm tốn lắm. VN bị tình trạng như ngôn ngữ của tổ chức
IFC (International Finance Corporation) của ngân hàng thế giới, người ta
vẫn gọi là ở VN vẫn hay theo cuộc đua xuống đáy, theo cái cách gọi là
“lấy của người nghèo cho người giàu”, khi chúng ta miễn thuế nhiều quá
cho các nhà đầu tư lớn. Trên thực tế, VN tình trạng chuyển giá, tình
trạng né thuế ở VN, báo cáo lỗ hoài trong nhiều năm, nhưng vẫn xin mở
rộng dự án đầu tư là có thật trong nhiều năm nay ở VN mà đến bây giờ vẫn
chưa khắc phục được. Cho nên, nói về lợi ích có thể mang lại cho VN thì
phải cần rất thận trọng.
Họ có thể mang lại được tốc độ tăng trưởng GDP, về hình thức thì cao,
xuất khẩu cao, nhưng mà tăng trưởng cao, về những nguyên tố này thì cái
chính, cốt lõi nhất đối với người VN vẫn phải xem là, vậy thì nền kinh
tế VN, người dân VN được hưởng lợi ích gì từ tất cả những cái này, hay
là lợi ích chủ yếu vẫn chảy vào túi của các nhà đầu tư nhiều hơn.
PV: Vừa rồi có đoàn phóng viên đi thăm Thẩm Quyến về, đồng loạt họ lên
bài, ca ngợi mô hình đặc khu, cộng thêm nỗi lo lắng của người dân và
thật ra thì ai cũng biết rằng khi mà mở đặc khu kinh tế thì người TQ sẽ
nhảy vào, gần như điều này là chắc chắn. Nhưng mà ngược lại, như tôi
quan sát và dự đoán, luật về đặc khu sẽ được thông qua. Và như vậy, nó
sẽ mang lại hiểm họa vô cùng to lớn cho đất nước. Bà có đồng ý với nhận
định của tôi không?
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ, cách đi tham quan nhiều khi không giúp được nhiều cho người ta
mở mắt thật sự, bởi vì tham quan nếu mà muốn hiểu đầy đủ về mô hình đặc
khu thì cần xem cả những thành công và những cái thất bại của đất nước
khác nữa. Những tổng kết của Ngân hàng Thế giới và các nơi đưa ra thì
vẫn thường đánh giá là 50/50. Có khoảng 50% thành công, cũng có khoảng
50% thất bại nặng nề. Và khi thất bại thì cái giá phải trả của nền kinh
tế và của người dân là rất lớn. Điều thứ hai là mối lo về vai trò của
Trung Quốc thì không chỉ ở VN, nhưng gần đây ở các nước như Sri Lanca
chẳng hạn, tiếp nhận đầu tư từ TQ vào một cảng biển, cuối cùng không có
tiền trả cho TQ và phải bán toàn bộ quyền sử dụng, khai thác cảng biển
đó cho TQ, là bài học đau đớn mà nhiều nơi đã nhận thấy.
Châu Phi chẳng hạn, cũng tiếp nhận rất nhiều dự án đầu tư của TQ, để trở
thành con nợ của TQ, đó là điều mà ai cũng lo sợ. Tôi nghĩ là đối với
VN, là nước kề cận TQ mà như tôi đã nói từ đầu về tham vọng của TQ đối
với VN không phải che giấu, thì đương nhiên nó gây nên mối lo lắng trong
bất kỳ người dân VN nào có tinh thần dân tộc hoặc biết lo lắng đến vận
mệnh của đất nước, đến tương lai của con em, mối lo là TQ có thể là
những nhà đầu tư chính trong các đặc khu này. Cũng có thể là ban đầu họ
chưa vào nhiều đâu, bởi vì họ có thể mang danh là nhà đầu tư VN, mang
danh là nhà đầu tư đâu đó, trong thế giới hiện nay, với việc chuyển tịch
rất nhanh của dòng vốn đầu tư của những người chủ, từ ông chủ A sang ông
chủ B rất dễ dàng nhanh chóng, với những hình thức như mua lại, sáp
nhập, rồi mua bán với nhau. Và quyền tự do đặc khu dành cho các nhà đầu
tư về mua bán doanh nghiệp đó, rất có thể chỉ là một số năm ít ỏi thôi.
Chưa chắc đã cần chờ đến 50 năm, 70 năm hay 99 năm đâu, thì các đặc khu
này có thể rơi vào tay người TQ ở mức độ rất cao, đến mức họ khống chế
hoàn toàn. Đấy là điều thật sự tôi lo lắng.
PV:
Cảm ơn bà rất là nhiều, xin chúc bà nhiều sức khỏe.
© Copyright Tiếng Dân – Bản đánh máy |