Luật Khoa
Bầu cử Việt Nam những năm 2000: Vài lời với sự “ngây thơ” của một học
giả người Anh
Các chuyên gia nước ngoài thường có một sự tự tin khó hiểu về
chính quyền Việt Nam. VÕ
VĂN QUẢN Phân
tích và bình luận về quá trình bầu cử Việt Nam 2021 là việc làm rất cần
thiết, nhưng đôi khi nhìn về quá khứ và hiểu thêm về những kỳ vọng của
“người xưa” cũng thú vị không kém. Các sử
gia thường lục lại tư liệu cũ để xem cách mà những người sống trong
những năm 1900 tưởng tượng về thế giới những năm 2000. Tương tự như vậy,
bài viết này mời bạn cùng nhìn lại cách mà các nhà quan sát tưởng tượng,
kỳ vọng, mơ mộng hay dự đoán về tương lai của bầu cử ở Việt Nam. Bằng
cách đó, ta có thể đánh giá xem điều gì đúng, điều gì sai, điều gì trở
thành vọng tưởng và điều gì trở thành hiện thực.
Nghiên cứu “Party
Control: Electoral Campaigning in Vietnam in the Run-up to the May 2002
National Assembly Elections” của Martin Gainsborough (Đại học
Bristol, Anh) có thể giúp ta làm việc đó. Nghiên cứu được đăng trên tạp
chí Pacific Affairs năm 2005.
Trước tiên, người viết muốn phân minh rằng chữ “ngây thơ” ở tiêu đề
không nhằm tấn công cá nhân Tiến sĩ Martin Gainsborough.
Gainsborough là một trong những chuyên gia người Anh hiếm hoi chuyên
nghiên cứu về chính trị Việt Nam và Đông Nam Á. Ông hiện làm việc cho
Đại học Bristol, một trong những đại học hàng đầu Vương quốc Anh, và là
giám đốc dự án Bristol – Mekong. Bạn có thể dùng nhiều tính từ để mô tả
kiến thức của Gainsborough về Việt Nam, nhưng trong đó chắc chắn không
có “ngây thơ”. Tuy
nhiên, hầu hết các chuyên gia nước ngoài đều có một sự tự tin khó hiểu
về chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong trường hợp của
Gainsborough khi viết nghiên cứu này cách đây hơn 15 năm, có lẽ sự tự
tin đó đã dẫn ông đến sai lầm. Những sai lầm đó, theo người viết, quả là
ngây thơ.
***
Năm 2002: Bầu cử “rất bản chất”? Theo
mô tả của Gainsborough trong phần mở đầu, Việt Nam những năm 2002 được
xem là một quốc gia “thị trường ngách” (niche market), quá khó để phân
loại vào đâu. Cùng với Campuchia, Lào và Myanmar, Việt Nam thường bị bỏ
qua trong các nghiên cứu kinh tế – chính trị. Bầu
cử lại càng không phải là một chủ đề thiết yếu. Tác giả cho rằng các nhà
quan sát quốc tế tập trung quá nhiều vào đại hội đảng (national congress
– để biết thêm từ vựng về đảng cộng sản, mời bạn đọc tham khảo tại
đây), nhưng lại bỏ qua bầu cử Quốc hội. Giả thuyết nghiên cứu
(hypothesis) của Gainsborough là khá rõ: Bầu cử Quốc hội không nhất
thiết phải cố định theo ý muốn của Đảng Cộng sản.
Không chỉ vậy, nền tảng lý luận của ông còn rõ ràng hơn. Ông cho rằng
“dân chủ độc đảng” (one-party democracy) là hàng thật, hàng xịn, và cần
được đối xử một cách công bằng hơn. Tác giả từ đó chứng minh nhận định
này bằng cách phân tích bản chất giao tiếp giữa nhà nước – cử tri và ứng
cử viên – cử tri (voters communication). Luận
điểm đầu tiên là không thể lấy giao tiếp giữa cử tri và các ứng cử viên
trong nền chính trị châu Âu để làm tiêu chuẩn cho các giao tiếp tương tự
ở Việt Nam. Hiển nhiên là phương thức giao tiếp của các nền chính trị
châu Âu thì phù hợp với các lý thuyết dân chủ cấp tiến đấy, song các lý
thuyết này không hẳn là luôn luôn tốt hơn những gì Đảng Cộng sản Việt
Nam theo đuổi. Đó
là một bình luận có phần dũng cảm. Vậy Gainsborough có những luận cứ gì? Tác
giả tập trung vào báo chí địa phương của bốn tỉnh, thành – hai
đại diện ở phía Bắc là Hải Phòng và Lào Cai, hai đại diện ở phía Nam là
Cần Thơ và Tây Ninh. Ông
lý giải, Hải Phòng và Cần Thơ là hai thành phố chính yếu trong khu vực,
có mức sống cao và cư dân thị thành ít nhiều đã tiếp xúc với tư tưởng
chính trị phương Tây. Còn Lào Cai và Tây Ninh thì đều là những tỉnh
nghèo còn nhiều khó khăn. Không chỉ vậy, Lào Cai và Tây Ninh là hai tỉnh
biên giới lần lượt giáp Trung Quốc và Campuchia, hiếm khi va chạm với
các luồng tư tưởng phương Tây. Nhờ vậy, mẫu nghiên cứu sẽ bao quát hết
được Việt Nam với kinh nghiệm phát triển rất khác nhau.
Gainsborough chia bầu cử Việt Nam thành ba thành tố chính để tìm hiểu: Thứ
nhất là quá trình lựa chọn ứng cử viên. Các ứng viên được chia làm hai
nhóm chính là những người được trung ương giới thiệu và những người phải
thông qua hội nghị hiệp thương. Thứ
hai là công tác tuyên truyền. Tác giả cho rằng không chỉ Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy mới tham gia vào công tác tuyên truyền này, mà còn có nhiều cơ
quan tổ chức khác như Sở Văn hóa Thông tin, hội đồng bầu cử địa phương
và các hội đoàn khác. Thứ
ba là các buổi gặp mặt giữa ứng cử viên và cử tri. Những buổi gặp mặt
này sẽ diễn ra sau khi danh sách ứng cử viên đã được chốt. Đến
đây, chúng ta bắt đầu nghe những lời có cánh của Gainsborough
dành cho quá trình bầu cử Việt Nam.
Trước tiên, ông nói về công tác tuyên truyền. Gainsborough nhấn mạnh
rằng chính quyền Việt Nam dành rất nhiều thời gian và rất nhiều phương
tiện để đưa thông tin đến người dân, và theo ông, đó toàn là thông tin
thật và có giá trị cả (factual information – ý nói việc đưa thông tin
không nhằm quảng bá cho đảng viên hay Đảng Cộng sản Việt Nam). Một
tỉnh nghèo như Tây Ninh cũng dành đến 30 – 60 phút mỗi ngày để phát loa
phóng thanh hay phát sóng truyền hình về việc chuẩn bị bầu cử, quy
trình, phương pháp hay thời gian bầu cử. Theo
ông, những thông tin này chỉ mang tính hướng dẫn cử tri, như phải làm gì
nếu không thấy tên mình trên danh sách, hoặc số lượng người tham gia cần
thiết để một buổi gặp mặt cử tri được pháp luật công nhận. Tác giả cũng
khen ngợi trang mạng baucuquochoi.gov.vn vừa được ra mắt lúc đó (trang
này không còn tồn tại).
Gainsborough xem xét các bài báo được phát hành cùng thời điểm và rất ấn
tượng. Ông cho rằng nhà nước Việt Nam đã nhấn mạnh được vai trò của Quốc
hội là một cơ quan đại diện nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Từ đó, thay vì tập trung vào sự đối lập giữa các ứng viên
(candidacy rivalry), nhà nước Việt Nam tập trung vào việc phổ biến mối
quan hệ thắm thiết giữa nhà nước và nhân dân thông qua Quốc hội. Tình
trạng giao tiếp cử tri – ứng cử viên cũng được Gainsborough bảo vệ. Các
buổi gặp mặt cử tri do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, thường kéo dài khoảng
từ hai đến ba tiếng. Trong đó, các ứng cử viên lần lượt được giới thiệu
và có 15 phút trình bày chương trình hành động của mình. Sau đó, họ sẽ
trực tiếp trao đổi với cử tri. Tác
giả ghi nhận, dù không có nhiều trao đổi kiểu chất vấn, những cuộc gặp
này đều có động chạm đến các vấn đề “cốt lõi” như giáo dục, học phí,
tình trạng nghiện ngập và vấn đề mại dâm…
Chẳng hạn, một ứng cử viên ở Hải Phòng kêu gọi bầu chọn cho mình vì ông
này là một nhà khoa học, và ông sẽ đóng vai trò cầu nối phát triển giữa
cộng đồng và các chính sách khoa học công nghệ. Một
ứng cử viên ở Tây Ninh thì nói rằng nếu được bầu, ông sẽ giúp giải quyết
tình trạng nhiều nông dân của tỉnh này không thể vay vốn từ các ngân
hàng chính sách hoặc Ngân hàng Phát triển Nông thôn vì các lo ngại về
giấy tờ đất. Hay
bà Nguyễn Thị Hằng, tại thời điểm đó là Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội và thuộc khu vực bầu cử Hải Phòng, dùng kinh nghiệm quản
lý của mình để lập chương trình hành động liên quan đến các vấn đề cải
cách tiền lương, lao động và giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Không chỉ ghi nhận các lời hứa khi vận động tranh cử của các ứng viên,
Gainsborough còn cho rằng không thể đánh giá hệ thống bầu cử Việt Nam
thông qua khả năng thực thi các lời hứa này, vì chính trị gia thất hứa
với cử tri thì xứ nào cũng có. Khi
cân nhắc số liệu kết quả bầu cử, bản thân tác giả thừa nhận rằng tất cả
các vị trí do trung ương giới thiệu đều trúng cử, tất cả các ứng cử viên
thuộc nhóm quân đội hay công an cũng đều trúng cử.
Trong khi đó, hầu hết những ứng cử viên tự ứng cử thuộc nhóm giáo viên,
chức sắc tôn giáo của Hội thánh Cao Đài Tây Ninh, hay một vài thương
nhân… đều không được chọn vào Quốc hội, dù họ đã qua được vòng hiệp
thương. Với
những thông tin như vậy, bằng cách thần kỳ nào đó, Tiến sĩ Gainsborough
cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam có rất ít ảnh hưởng đến quá trình bầu
cử. Phương tiện truyền thông khi đưa thông tin về ứng cử viên đều rất…
công bằng, không thiên vị.
Trải lòng với Gainsborough Sau
khi đọc xong nghiên cứu, người viết không biết vị Reader (từ chỉ một nhà
nghiên cứu danh tiếng với học hàm tương đương phó giáo sư) đến từ
Bristol có còn theo dõi các cuộc bầu cử Quốc hội gần đây, và những hiện
thực hài hước xảy ra sau các cuộc bầu cử đó hay không. Từ năm 2005 đến
nay, Gainsborough không có nghiên cứu nào cụ thể hơn về bầu cử Quốc hội
Việt Nam. Liệu ông có thay đổi tâm ý vì đã nhận thấy cái sai của mình?
Hay ông vẫn giữ các quan điểm mình đưa ra trong bài viết hơn 15 năm tuổi
này.
Người viết đặt ra những câu hỏi trên vì hệ thống pháp luật và nguyên tắc
vận hành của hệ thống bầu cử Việt Nam gần như không có thay đổi gì lớn
suốt 20 năm qua. Vẫn ứng cử viên từ trung ương, vẫn hiệp thương, vẫn mặt
trận… Nếu
ông cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tôn trọng và không có ảnh hưởng gì
nhiều đến kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử Quốc hội, ông nên đọc bài
viết về trường hợp của Đỗ
Văn Đương. Một cựu quan chức tư pháp vì phát ngôn hàm hồ mà trượt
Quốc hội, song vẫn nghiễm nhiên chiếm ghế phó ban Dân nguyện của chính
Quốc hội, theo nguyện vọng của Đảng Cộng sản. Nếu
ông cho rằng sự đa dạng của các cơ quan, tổ chức chính trị – xã hội làm
nên sự “công bằng” của cuộc bầu cử, ông nên xem ngân sách nhà nước chi
ra cho các cơ quan, tổ chức, vốn đều nằm dưới “dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam”, khi tham gia vào quá trình bầu cử là bao nhiêu. Nếu
ông cho rằng việc truyền thông trong bầu cử là vô cùng “chí công vô tư”,
ông nên xem tỉ lệ danh sách bầu cử có bao nhiêu phần trăm là từ Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt xuống, bao nhiêu phần trăm là người
địa phương, và bao nhiêu người địa phương là hoàn toàn độc lập. Nếu
ông cho rằng các buổi gặp mặt cử tri là “thiết thực” và “thẳng thắn”,
ông nên tìm cách gặp mặt vài cử tri độc lập thật sự để nghe về việc họ
đã bị đấu tố và trù dập trong các buổi hiệp thương ra sao. Sau
bấy nhiêu chữ nếu đó, nếu tác giả vẫn còn giữ những quan điểm của mình
trong nghiên cứu này, thì chữ “ngây thơ” đầu bài thật không sai vào đâu
được. |