SÀI GÒN NHỎ
https://saigonnhonews.com/cha-toi-chet-khong-can-quan-tai/
Cha tôi chết không cần quan tài ĐÀO
NAM HÒA
Tôi ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến
Bố Mẹ tôi nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7. Tôi không biết
bắt đầu câu chuyện từ lúc nào nhưng thời điểm có lẽ ấn tượng nhất và rõ
nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày
30-4-1975.
Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập
xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất
cả! Ngày 10-6-1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học
tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo,
cha tôi cũng không lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi)
đem hai chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình – là đôi bông tai của bà
nội tôi để lại – ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải
bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được
33 ngàn. Ông mua khoảng hai ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi một
ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi
ông về. Mười ngày trôi qua nhanh chóng. Không ai trong số cải tạo trở
về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.
Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng một ổ bánh mỳ thì chiều
đã lên 120. Sau ba tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một
đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út
mới hai tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho
đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm
sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không
còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.
Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức
của kinh tế mới để giãn dân. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi
và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách
đó sáu cây số để bán. Buổi sáng khoảng ba giờ khi trời còn mờ mịt hơi
sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ
sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45m nặng chưa tới
40kg. Sáu ký rau mới đổi được một ký gạo. Một tuần mới cắt được một lần
chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…
Sức ăn trước ngày 30-4-1975 của gia đình tôi một bữa là ba lít gạo, tức
một tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay một tuần
chỉ còn 13 lít! Bắt đầu tháng 7-1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh
nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ
cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt,
đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay… đều giã từ để về với chủ mới. Hết
sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, giở bớt tôn ngoài mái
hiên, tôn trần nhà… bán tiếp. Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên
rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui
cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với
cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ. Không biết bao lần tôi phải ăn
tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường
ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu… (mơ mà cũng hà
tiện không dám mơ thịt cá hải sản).
Bố tôi sau sáu tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về. Ông
dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi
thứ. Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông! Tôi nhớ mãi
ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hóa (Hố Nai). Cả nhà chỉ có một cái
xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo một cái giỏ
đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, một ký đường, hai hộp sữa và
một bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh hai bao đầy
mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22-9-1975, chúng tôi như đàn chim vỡ tổ. Tất cả bỏ
học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại
mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm
lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá. Hơn ba
năm sau, bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở,
nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần
không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin
không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta
phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.
Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng
ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất nước là
tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ
chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi. Rồi theo “chủ trương”, ông không
được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần “Ngụy
quân, Ngụy quyền” nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978, ông
lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo. Ngày ngày
ông và hai em tôi sống nhờ rừng.
Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày
lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn ba năm trong trại cải tạo. Đói
nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả
ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô. 10 năm sau, tôi đã làm ăn
khá hơn, mua được chiếc xe máy mini scooter, lần đầu tiên lên thăm ông.
Quà cho Ông chỉ là một lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi
đã tương đối ổn định công việc.
Bữa cơm hôm đó, ông nói:
– Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho bố con mình được sống
sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi
bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
– Nhớ lời bố dặn. Nếu bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho
tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây bố dưới chân núi là bố mát mẻ rồi.
Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ
tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh
nặng thêm! Năm 1999, sau bao nhiêu khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ
xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì bốn bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày
lên đường mẹ tôi và chín em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không được
phái đoàn Mỹ chấp thuận. Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có năm va ly
nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.
Đến Mỹ ba anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền
trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì ông đã 74 tuổi. Ban đầu
hội thiện nguyện giúp thuê nhà. Bốn bố con phải ở chung trong một căn
apartment hai phòng ngủ cùng với hai người nữa là sáu người. Quá chật,
chúng tôi đành ra ở riêng trong khi bố tôi được Chính phủ Mỹ cho ở nhà
housing. Và từ đó ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc
ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghĩa nhất kể từ sau ngày
30-4-1975!
Hàng tháng ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn
thì ông đi xin các hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận bố kinh khủng.
Gia đình tôi cố tình chở ông vào một quán kêu cho ông mấy món ngon. Ông
từ chối, chỉ xin cho một dĩa bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà
mình còn quá khổ, bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất
vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$, bố để
dành và cứ sáu tháng bố gởi về Việt Nam cho mẹ và chín đứa con còn ở
lại.
Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu
với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng
tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ của bố cho
mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế…
Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …”. Bố đọc thư không khóc! mặc dù
bố biết chị chỉ cân nặng có… 34kg! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc
phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần tám năm ở Mỹ, tự dưng
bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù
đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già.
Di chúc nói rõ. Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện
nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!
Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm
ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao
nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người nhà mình ở Việt Nam. Sau
đó mấy ngày, bố đột quỵ! Người ta đưa Bố vào trại dưỡng lão. Rồi bố hấp
hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của bố. Và
chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi bố tắt thở, sau một
tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra. Trong phòng người ta bỏ bố vào
một cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp
người! Ba anh em tôi lúc đó mới đi làm, ăn lương một giờ 8$ (lương tối
thiểu), chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ bố vào
quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự thì cũng vậy thôi, vì bố
đâu biết gì nữa, mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.
Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy
mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết,
không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ bố lên chiếc
xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng. Tất cả con, dâu và cháu chỉ
có năm người. Họ dừng lại và hỏi chúng tôi muốn nói gì không. Tôi có cảm
tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói
như kẻ không hồn:
– Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn
của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!
Rồi họ lạnh lùng kéo bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay
làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng. Tôi
không khóc! Không còn nước mắt để khóc! Hai tuần sau tôi lấy tro cốt bố.
Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt, bên dưới có ghi tên bố tôi,
chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa… |