TIẾNG DÂN
22-4-21

Chính trị vùng miền Việt Nam là bắt buộc vì lịch sử Việt Nam như thế

Jackhammer Nguyễn

Chính trị vùng miền

Kể từ khi đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ sáu (1986) diễn ra, người Việt hay nói đến sự phân bố quyền lực của đảng cầm quyền nhiều hơn. Lý do là vì, mặc dù nền chính trị ấy vẫn kín như bưng (bây giờ vẫn vậy), các thông tin, tên tuổi nhóm cầm quyền được công bố ngày càng nhiều.

Cứ mỗi lần diễn ra đại hội đảng cầm quyền, người ta lại bàn nhau chuyện bao nhiêu người Nam, Trung, Bắc có mặt trong Tứ trụ, Bộ Chính trị, Chính phủ. Đại hội đảng lần thứ 13 vừa kết thúc đầu tháng 2/2021 cũng không ngoại lệ, thậm chí việc bàn tán vùng miền còn sôi động hơn, kéo dài hơn.

Sau khi danh sách Tứ trụ và Bộ Chính trị bị rò rỉ, người ta phát hiện ra rằng, thiếu người Nam bộ trong danh sách của hai bộ phận quyền lực nhất là Tứ trụ và Bộ Chính trị. Và thế là dấy lên nhiều chỉ trích.

Không rõ có phải do những chỉ trích này hay không mà người ta thấy có những thay đổi nhỏ sau khi đại hội đảng kết thúc, trong đó có việc chọn ông Nguyễn Trọng Nghĩa, một viên tướng người miền Nam giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đồng thời ông Võ Văn Thưởng, một nhân vật miền Nam khác, người tiền nhiệm của ông Nghĩa, được công bố ở vị trí số năm trong danh sách Bộ Chính trị.

Theo ông Lê Hồng Hiệp, nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam từ Singapore thì cơ cấu vùng miền đã được điều chỉnh cân bằng hơn sau đại hội 13.

Việc bàn tán về vùng miền này trong chính trị Việt Nam, thoạt đầu chỉ là những tin đồn trong nhà ngoài ngõ, nhưng trong vài năm trở lại đây, đôi khi báo chí chính thống của nhà nước Việt Nam cũng có đề cập đến, theo hai hướng, hoặc là kiểu “dĩ hòa vi quý”, hoặc là phủ định với lý do rằng thì là Đảng lúc nào cũng chọn nhân tài, bất cứ là ở vùng nào.

Trên thông tin không chính thống, cũng có nhiều người Việt cho rằng, Việt Nam là một, không nên làm chính trị theo kiểu vùng miền. Nhưng thật ra chính trị vùng miền không phải là độc quyền của những người cộng sản.

Ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã từng có những chỉ trích cho rằng bộ phận cầm quyền của chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm gồm nhiều người gốc Huế (gia đình của tổng thống), hay gốc Bắc di cư. Những chỉ trích này cũng được các tuyên truyền viên của du kích cộng sản người miền Nam sử dụng để chống lại chính quyền.

Trong thời gian cai trị của triều Nguyễn, thực thể chính trị đầu tiên cai trị khá lâu trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (thực thể thứ hai là Đảng Cộng sản), các viên chức được chọn theo chế độ khoa cử, tuy nhiên các bà hậu phi (Nhà Nguyễn không lập Hoàng hậu, trừ trường hợp vợ vua Gia Long và vợ vua Bảo Đại) là người miền Nam, nơi Vua Gia Long được sự ủng hộ mạnh mẽ trong tiến trình khôi phục lại vương quyền. Ai dám nói rằng các bà hoàng hậu và người thân, đồng hương của họ không có ảnh hưởng gì trong những quyết định chính trị của nhà vua?

Lịch sử quốc gia đa dạng

Đa số người nói tiếng Việt trên thế giới quan niệm lịch sử quốc gia của mình như sau: Bắt nguồn từ vùng đồng bằng sông Hồng, Nam tiến rồi đạt đến lãnh thổ “thống nhất” như ngày nay. Các sách giáo khoa lịch sử, kể cả của những người cộng sản đều được biên soạn theo kiểu như vậy.

Trên thực tế, hình hài quốc gia Việt Nam như ngày nay chỉ bắt đầu từ năm 1802, khi Vua Gia Long lên cầm quyền (có người nói chính triều Tây Sơn thống nhất quốc gia, nhưng thật ra trong những năm bình yên nhất của triều đại ngắn ngủi này vùng Qui Nhơn và Gia Định nằm dưới tay hai người anh em của vua Quang Trung, không hoàn toàn phủ phục chính quyền trung ương, thậm chí có lúc đánh nhau).

Vào thế kỷ thứ hai sau Thiên chúa, khi vùng sông Hồng vẫn nằm dưới sự thống trị của Trung Hoa, cả dải đất miền Trung là quốc gia Champa, cả miền Nam là vương quốc Phù Nam, văn hóa chính trị và dân cư của ba vùng rất khác biệt nhau.

Nhà nước Champa suy tàn vào năm 1471, sau cuộc chinh phạt từ miền Bắc của Vua Lê Thánh Tôn, Chiêm Thành tồn tại đến cuối thế kỷ 18. Miền Nam Việt Nam chính thức rơi vào tay các viên quan cai trị nói tiếng Việt, kể từ đó.

Trên các vùng đất miền Trung và miền Nam được người từ miền Bắc tới chinh phục, là những cộng đồng dân cư pha trộn rất phức tạp kéo dài hàng trăm năm. Ông Hồ Trung Tú, một nhà báo ở Đà Nẵng từng công bố một công trình về ngôn ngữ mang tên “Có 500 năm như thế”. Trong sách này, ông đưa ra nhiều minh chứng cho thấy tiếng Việt tại miền Trung Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn bởi ngôn ngữ Chăm. Tương tự như vậy, người ta có thể dễ dàng tìm thấy ảnh hưởng của tiếng Khmer lên tiếng Việt miền Nam.

Việc soạn sách lịch sử theo kiểu Văn minh sông Hồng là chủ đạo, là bất công và không đúng. Khuynh hướng bắt đầu quan tâm đến lịch sử riêng ở miền Trung và miền Nam đã bắt đầu dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa (một nhà nghiên cứu theo khuynh hướng đó là ông Bình Nguyên Lộc).

Thời Việt Nam Cộng sản cũng có khuynh hướng đó, khi gần đây họ công bố bộ sử 10 cuốn, trong đó các quyển đầu tiên nói về vương quốc Champa khá kỹ và chi tiết. Bộ sách này do các ông Phan Huy Lê, Lương Ninh, Hà Văn Tấn chủ biên, trong đó ông Lương Ninh là một chuyên gia về tiếng Phạn và văn minh Ấn Độ, viết phần về Champa. Một nhà nghiên cứu sử học xác nhận với tôi rằng, bộ sách này bị dừng lại sau một lần tranh cãi với các nhân vật tuyên giáo ở Việt Nam, không được biên soạn tiếp, và chấm dứt luôn sự tồn tại của nó. Một bộ sách mới 15 quyển được ra đời vào năm 2017, không có gì mới.

Với một lịch sử chiến tranh phân liệt kéo dài, cùng đặc điểm địa lý chia cắt vùng miền rất rõ ràng, cư dân các vùng đất khác nhau, dù nói cùng một thứ tiếng, có thể hiểu nhau dễ dàng, nhưng do có nguồn gốc lịch sử khác nhau, sự khác biệt giữa ba miền Bắc – Trung – Nam khá lớn. Trong huyết quản người miền Trung Việt Nam, có rất nhiều giọt máu Chiêm Thành, còn người Nam Bộ thì mang nhiều gene từ người Khmer.

Như vậy, có thể kết luận rằng tính vùng miền của chính trị Việt Nam không phải nên có, mà là bắt buộc phải có, nhất là trong tình hình độc đảng cai trị như hiện nay, không có bầu cử, một địa phương nắm thế chính trị mạnh dễ dàng chèn ép các địa phương khác.

Người ta có thể lấy cơ cấu trung ương đảng, một loại quốc hội De Facto để nói rằng, sự cân bằng địa phương được tôn trọng, nhưng với cơ cấu luân chuyển cán bộ, những người trong Bộ Chính trị vẫn có thể gài người vào các địa phương yếu thế hơn.

Và lịch sử cũng phải được viết lại với sự tôn trọng nguồn gốc bản xứ của cư dân, những nền tảng văn hóa, chính trị mà mỗi vùng, mỗi miền đã trải qua