SÀI GÒN NHỎ
Những cụm từ gợi nhắc bi kịch dưới chế độ cộng sản
Song Chi
Suốt gần bảy thập niên độc quyền lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản đã gây
ra vô số những sai lầm nghiêm trọng, và những sai lầm ấy thường gắn liền
với những từ ngữ, cụm từ, còn lưu giữ hoặc vẫn đang tồn tại trong ký ức
lẫn đời sống của xã hội, con người, văn hóa Việt Nam.
Chẳng hạn, cứ nghe đến những cụm từ như Nhân Văn Giai Phẩm, Cải cách
ruộng đất, vụ án Xét lại chống Đảng… trước ngày 30 Tháng Tư 1975 ở ngoài
Bắc, cải tạo tư sản mại bản, cải tạo tư thương, học tập cải tạo, thuyền
nhân, kinh tế thời bao cấp, đổi mới, mở cửa, giải phóng mặt bằng, dân
oan… sau ngày 30 Tháng Tư 1975 ở miền Nam và trên toàn quốc v.v… là ngay
lập tức, người Việt nhớ hoặc nghĩ ngay đến những giai đoạn khốn khổ, đau
thương trong quá khứ và cả trong hiện tại.
Thuyền nhân
Trong đó đặc biệt phải nói đến hai chữ “thuyền nhân”. Tại sao vậy. Vì nó
không chỉ là một trong những thảm kịch lớn nhất của nhân loại trong thế
kỷ 20 mà còn là một trong những thảm kịch tỵ nạn dai dẳng nhất trong
lịch sử thế giới, kéo dài tới 20 năm, bắt đầu không bao lâu ngay sau khi
cuộc chiến VN kết thúc, khi Đảng Cộng sản đang trong tâm lý hân hoan
ngạo nghễ ăn mừng chiến thắng!
Bỏ lại sau lưng nhà cửa tài sản, bỏ lại tất cả, liều mình ra đi, những
người vượt biển đồng thời phải đối mặt với sự rủi ro năm phần sống năm
phần chết, bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, có người bị hãm hiếp mấy chục
lần trong chuyến đi, có người bị hãm hiếp đến chết, những nhục nhằn lo
âu mỏi mòn trong thời gian ở trong trại tỵ nạn chờ được một quốc gia thứ
ba tiếp nhận…
Ước tính có khoảng một triệu người, gồm cả người miền Bắc, đã trở thành
thuyền nhân. Còn nhà cầm quyền thì nhanh chóng nghĩ ra cách kiếm tiền từ
sự việc này, đó là tổ chức những chuyến đi gọi là vượt biển bán chính
thức, tức là thu mỗi người mấy lượng vàng để đưa họ lên những con tàu
chở ra đến hải phận quốc tế. Hàng chục nghìn người Việt gốc Hoa đã ra đi
bằng cách này trong giai đoạn mà nạn Hoa kiều đang rộ lên, nhưng cũng có
cả người Việt. Nhờ đó, nhà cầm quyền và tầng lớp cán bộ đã thu được rất
nhiều tiền, tài sản mà các thuyền nhân bỏ lại.
Để có thể thu lợi tối đa, quan chức tại các địa phương có tổ chức bến
bãi ra đi bán chính thức đã nhồi nhét càng nhiều người càng tốt trên
tàu, dẫn tới vài chiếc bị đắm, vài trăm người chết, trong khi hàng chục
nghìn người khác chen nhau cập bến các quốc gia láng giềng, vượt quá sức
chứa của các nước. Thảm kịch “thuyền nhân” Việt bắt đầu từ Tháng Năm
1975 cho mãi đến 1990-1995 là bắt đầu có chính sách cưỡng bức hồi
hương, đóng cửa dần các trại tỵ nạn ở các nước và số người vượt biển bắt
đầu giảm dần, và đến năm 2000 thì Hong Kong đóng cửa trại tỵ nạn cuối
cùng.
Từ bi kịch này, thế giới có thêm từ “boat people”. Sau này khi nhìn cảnh
hàng trăm hàng ngàn người dân từ các nước Trung Đông, châu Phi chen chúc
nhau trên những con thuyền tìm cách vượt biển vào châu Âu, chúng ta lại
nhớ đến bi kịch “thuyền nhân” của Việt Nam. Bi kịch đó vẫn chưa hết. Bởi
vì suốt 47 năm qua, dòng người tìm mọi cách ra đi khỏi Việt Nam vẫn chưa
bao giờ dừng lại, nhưng người ta tìm những con đường khác.
Ngoài những con đường hợp pháp như lập gia đình, đi du học rồi ở lại, đi
theo con đường làm việc, đầu tư kinh doanh… thì rủi ro, nguy hiểm hơn
nhiều là tìm cách nhập cư lậu vào các nước, ví dụ như đi bằng visa du
lịch sang Nga rồi từ đó được các nhóm buôn lậu người đưa vào Ba Lan,
Đức, Tiệp, Anh… hoặc vượt biển từ Pháp qua Anh bằng container đông lạnh,
bằng thuyền cao su vượt qua English Channel. Một trong những bi kịch
nhập cư lậu rúng động dư luận thế giới gần đây là việc 39 người Việt
chết trong thùng của một chiếc container đông lạnh, khi tìm cách vượt
biên bất hợp pháp vào nước Anh Tháng Mười 2019.
Phải gặp gỡ những người Việt từng trải qua những chuyến đi vượt rừng
xuyên biên giới từ Nga qua các nước châu Âu mới thấy hết nỗi hãi hùng,
tủi nhục, cay đắng, và nạn hãm hiếp, trấn lột bởi những kẻ dẫn đường
thường xuyên xảy ra.
“Xuất khẩu lao động”
Một cụm từ gợi đến một bi kịch lớn khác nữa là “xuất khẩu lao động”,
viết đầy đủ là “xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài”, tức là một
hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc có thời hạn.
Ngay cụm từ “xuất khẩu lao động” đã cho thấy con người bị coi như một
món hàng hóa rồi. Hoạt động này bắt đầu từ năm 1980, dưới hình thức hợp
tác lao động với các nước xã hội chủ nghĩa, trong tình hình kinh tế Việt
Nam đang gặp nhiều khó khăn.
Từ sau 1991, khi nhiều biến động chính trị lớn xảy ra tại các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu và khủng hoảng kinh tế, Việt Nam chuyển dần sang
cung ứng lao động cho các nước khác. Cho tới nay, hoạt động này vẫn tiếp
tục, mỗi năm hàng chục ngàn cho tới gần trăm ngàn người lao động được
đưa đi làm việc tại nhiều quốc gia khác nhau từ Trung Đông, Ả Rập, Nga,
Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… đem lại một nguồn lợi lớn cho
nhà cầm quyền Việt Nam. Trung bình mỗi năm người lao động Việt gửi về từ
$1.6 tỷ đến $2 tỷ, đồng thời cũng giúp cho nhiều người có công ăn việc
làm, có thu nhập khá hơn đi làm nông, làm lao động phổ thông trong nước.
Nhưng mặt trái của hoạt động “xuất khẩu lao động” thì rất nhiều, đó là
tình trạng người lao động bị lừa gạt tiền, bị bóc lột sức lao động, bị
ngược đãi, thậm chí bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng bức… Báo chí người
Việt ở nước ngoài, báo chí quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong đó
có Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới ở châu Á (Coalition to Abolish Modern-day
Slavery in Asia – CAMSA) đã lên tiếng tố cáo và có những hoạt động từ
nhiều năm nay để hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân buôn người, nạn nô lệ lao
động. Chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ các nước phương Tây cũng đã nhiều
lần chỉ trích, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần phải lưu ý về
nạn buôn người.
Phía sau những đồng tiền người lao động gửi về là mồ hôi, nước mắt, máu
và biết bao nhiêu tủi nhục của thân phận đi làm thuê xứ người, nhất là
nếu lại đi làm việc ở những quốc gia mà người lao động nước ngoài cũng
không được đối xử văn minh, tử tế cho lắm. Đúng là chưa có bao giờ trong
lịch sử Việt Nam mà người dân lại bị đem đi “xuất khẩu” làm thuê khắp
bốn phương trời như thế này!
“Tự xử”
Một cụm từ khác nữa, xuất hiện nhiều trên báo chí, trong dư luận những
năm 2013- 2014 là “tự xử,” nói lên tình trạng người dân “tự làm luật”
với nhau và với chính quyền. “Tự xử” ví dụ như những vụ người dân hè
nhau đánh đập, có khi tới chết, một kẻ bắt trộm chó. Hiện tượng này đã
xảy ra nhiều lần, tại các vùng khác nhau như Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ
An, Quảng Trị… Có khi người dân tức giận đến mức đánh chết xong còn
thiêu cả xe, cả xác của kẻ trộm chó.
Dư luận xã hội ở Việt Nam xung quanh những vụ việc như vậy vẫn chưa hoàn
toàn thống nhất. Ða số lên án chuyện đánh chết người vì dù sao đi nữa
mạng chó không thể đổi với mạng người, và không ai có quyền tước đi sinh
mạng của người khác, nhưng vẫn có những người đồng tình, lấy lý do nạn
trộm chó ngày càng hoàng hành, không coi ai ra gì, còn chính quyền địa
phương thì xử lý chậm chạp, không thật cương quyết, khiến người dân bức
xúc, phải “tự xử.”
“Tự xử” ví dụ như có những bệnh nhân, sản phụ bị tử vong do “tai nạn
nghề nghiệp,” do cung cách làm việc tắc trách, vô lương tâm của đội ngũ
y bác sĩ, cán bộ y tế, khiến người nhà nạn nhân tức giận, xông vào bệnh
viện đập phá đồ đạc, đuổi đánh y bác sĩ, hoặc mang xác nạn nhân tới bệnh
viện để đòi làm ra lẽ. Thỉnh thoảng lại thấy những vụ như vậy xảy ra,
như tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Ðồng ngày 20 Tháng Sáu 2013, tại Bệnh
viện Đa khoa Hà Tĩnh ngày 12 Tháng Tám 2013, tại Bệnh viện Nhân Dân Gia
Ðịnh ngày 22 Tháng Chín 2013 v.v…
Có những vụ người dân khiếu nại mãi nhưng chính quyền địa phương vẫn
không giải quyết, buộc họ phải cùng nhau “làm luật” như vụ hàng ngàn
người xuống đường phản đối việc khai thác cát gây sạt lở nặng cửa biển
Cửa Ðại của sông Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi (“Dân xuống đường, phản đối
khai thác cát,” Người Lao Ðộng). Hay hàng trăm người dân bao vây công ty
cổ phần Nicotex Thành Thái để ngăn chặn không cho tẩu tán khối lượng lớn
hóa chất độc hại đã được đào lên, cho đến khi chính quyền địa phương,
các ban ngành phải vào cuộc xử lý (“Hàng trăm người vây hiện trường DN
chôn giấu thuốc trừ sâu,” Người Lao Ðộng)…
Có những khi, vì uất ức, tuyệt vọng quá mức, người ta chỉ còn cách đem
chính sinh mạng của mình ra “tự xử.” Ðã có những vụ tự thiêu mà nguyên
nhân sâu xa do cách làm ăn quan liêu, coi thường tính mạng, danh dự nhân
phẩm người dân của nhà cầm quyền, hay do luật pháp bất công, xét xử oan
sai. Dấn thêm một bước nữa, người dân không chỉ đem sinh mạng ra để
gióng lên tiếng chuông cảnh báo những sự bất công, sai trái của nhà cầm
quyền mà còn đương đầu lại, phản kháng lại.
Ðiển hình là vụ hai anh em nông dân Đoàn Văn Vươn dùng súng hoa cải
chống lại lực lượng công an và quân đội cưỡng chế đất tại đầm Cống Rộc,
xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng vào đầu năm 2012, mà
nhiều người vẫn so sánh với vụ án Ðồng Nọc Nạn thời Pháp thuộc. Vụ anh
Ðặng Ngọc Viết, xuất phát từ việc bồi thường giải phóng mặt bằng không
thỏa đáng của chính quyền địa phương, đã dùng súng bắn chết và bị thương
năm cán bộ của Trung Tâm Phát Triển Quỹ Ðất TP Thái Bình, rồi tự sát sau
đó vài giờ.
Hay vụ tranh chấp đất tại Đồng Tâm gồm hai sự kiện là “bắt giữ con tin”
(người dân làng bắt giữ một số công an, nhà báo và cán bộ chính
quyền) năm 2017 và “trấn áp bạo lực” năm 2020, khi nhà cầm quyền đưa
công an, quân đội đến tấn công thôn Hoành, giết người nông dân mấy chục
tuổi đảng, “thủ lĩnh tinh thần” của dân làng Đồng Tâm là cụ Lê Đình
Kình, bắt giữ hàng chục người, dẫn đến vụ án oan dậy trời đất kết án bao
nhiêu dân làng sau đó v.v… Và còn nhiều vụ nữa, mà nguyên nhân là do
cưỡng chế đất đai, hoặc bồi thường không thỏa đáng.
Chưa kể những vụ lẻ tẻ như “Thanh Hóa: Phóng hỏa đốt nhà phó bí thư xã
trong đêm”, 2013 (Tiền Phong), “Nhà phó công an xã bị giội bom xăng”
(Thanh Niên) tại xã Tam Hiệp (Châu Thành, Tiền Giang) năm 2013, “Nhà của
nguyên bí thư Huyện ủy bị ném bom xăng trong đêm”, Hà Tĩnh, 2017, Thanh
Niên… Những hành vi “tự xử” liên tục xảy ra, với mức độ bạo lực ngày
càng cao chứng tỏ mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giữa nhà cầm quyền và nhân
dân ngày càng sâu sắc. Về phía dân chúng, là sự mất lòng tin vào chính
quyền, vào luật pháp. Về phía nhà cầm quyền là sự bất lực của bộ máy khi
không thể giải quyết được những yêu cầu chính đáng của người dân.
Sâu xa hơn, nó nói lên bản chất của chế độ: sự quan liêu, xa rời dân,
coi thường dân, không lắng nghe, thấu hiểu những nỗi bức xúc của dân.
Một xã hội có quá nhiều hành vi dùng luật rừng để “tự xử” là một xã hội
thụt lùi trở về thời kỳ mông muội, dã man, con người coi thường luật
pháp, vì chính nhà nước này đã tự đặt mình, đặt đảng cầm quyền đứng cao
hơn luật pháp. Âu cũng là “luật nhân quả,” chính quyền đối với dân thế
nào thì dân sẽ đối lại như thế.
Giải cứu
Lúc đầu hai chữ “giải cứu” xuất hiện trên báo chí trong nước để nói đến
việc một mặt hàng nào đó, thường là nông sản, bị ế đọng, phải kêu gọi
cộng đồng, xã hội hoặc nhà nước mua tức“giải cứu”. Nào “giải cứu” thanh
long, dưa hấu, mít, khoai lang…
Chuyện này xảy ra nhiều lần đến mức báo chí phải giật tít: “Điệp khúc
‘giải cứu’ nông sản Việt” (VNEXpress), nguyên nhân là do “Năm nào cũng
có những đợt “giải cứu” nông sản, nhưng người nông dân Việt vẫn sản xuất
tự phát, thiếu hệ thống, để rồi rơi vào thế bị động”, phần khác nông
sản, hải sản Việt Nam quá phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc
nên khi Trung Quốc ngừng nhập khẩu một mặt hàng nào đó là người nông dân
Việt Nam lại khốn đốn.
Một ví dụ gần đây, khi Trung Quốc siết chặt biên giới để phòng dịch
Covid-19, nông sản Việt bị ùn tắc nhiều ngày tại các cửa khẩu biên giới
phía Bắc, cuối cùng phải quay về bán rẻ trong nước. Điều mà người nông
dân cần là một chính sách, giải pháp bền vững chứ không phải năm nào
cũng có chuyện “giải cứu”, bao nhiêu công sức mồ hôi nước mắt của người
nông dân đổ ra cuối cùng lại phải bán đổ bán tháo.
Khi đại dịch COVID-19 xảy ra, có nhiều người Việt đi học, đi du lịch, đi
thăm thân hoặc lao động ngắn hạn ở nước ngoài bị kẹt không về được vì
biên giới các nước bị phong tỏa, Việt Nam lại rộ lên chuyện “những
chuyến bay giải cứu”. Lúc đầu ai cũng mừng, xúc động với hình ảnh những
chuyến bay xuyên lục địa, đưa các công dân Việt Nam từ hải ngoại trở về
Tổ quốc thời điểm dịch căng thẳng đó. Một số bài báo giật những cái tít
rất kêu như “Những chuyến bay mang nặng ‘nghĩa tình’, xung phong vào tâm
dịch cứu đồng bào”, “Vào vùng dịch đón đồng bào”… Còn trên Facebook, đám
dư luận viên, “bò đỏ” bưng bô chế độ thì “hót” nào “Ngạo nghễ Việt Nam”,
nào “Bay thẳng vào tâm dịch để đón công dân của mình về nước chăm sóc!
Chỉ có thể là Việt Nam!” v.v…
Nhưng rồi sự thật dần dần phơi bày. Hóa ra có những cán bộ, quan chức đã
lợi dụng chuyện này để trục lợi chính sách, một chuyến bay “combo”
bao gồm vé máy bay, chi phí xét nghiệm, ăn ở trong thời gian cách ly…
được “thổi” giá lên cao ngất, lợi nhuận lên đến vài tỷ đồng một chuyến,
mà có gần 2,000 chuyến bay như vậy (“Mỗi chuyến bay giải cứu “bị thu lợi
vài tỷ đồng” VNExpress). Và trong thực tế, vì giá một chuyến bay “giải
cứu” quá cao như vậy nên rất nhiều người đã không thể mua được vé về
Việt Nam, và nhiều bi kịch đã xảy ra như người thân qua đời mà không về
được. Giờ đây cụm từ “chuyến bay giải cứu” có lẽ sẽ để lại trong nhiều
người những ấn tượng xấu khó phai mờ!
“Trùm cuối”
Hai chữ “trùm cuối”, không biết từ đâu ra, nhưng bắt đầu rộ lên từ khi
đại án vụ test kit “đểu” Việt Á bị phanh phui. Cho đến nay, đã có 62
người bị khởi tố, bắt giam trong vụ đại án Việt Á, trong đó có nhiều
lãnh đạo cấp cao của các bộ, ngành, địa phương. Cứ mỗi lần một quan chức
bị bắt là trên mạng, hoặc báo chí độc lập bên ngoài lại nổi lên câu hỏi
“Ai là “trùm cuối” vụ này?”. Có nghĩa, ai là người chủ mưu, chịu trách
nhiệm cao nhất của vụ đại án điển hình cho tham nhũng đã ở mức độ lũng
đoạn nhà nước này.
Đã có những lời đồn đại, phỏng đoán nhân vật đó phải cỡ là ông Phó Thủ
tướng Vũ Đức Đam, từng là Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng chống
dịch COVID-19, trực tiếp chỉ huy công cuộc phòng chống dịch trong giai
đoạn từ Tháng Một 2020 đến Tháng Tám 2021 hay Chủ tịch nước Nguyễn Xuân
Phúc hay Thủ tướng Phạm Minh Chính! Và liệu chiến dịch “đốt lò” của ông
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có dám đưa luôn những thanh củi bự cỡ đó?
Dù sao, chữ “trùm” khiến người ta liên tưởng tới trùm mafia, trùm băng
đảng. Mà thực sự thì đảng cộng sản ngày nay có khác gì một tổ chức mafia
chuyên vơ vét tài sản của đất nước, bóc lột, bóp nặn nhân dân? Còn
nhiều, nhiều nữa. Chế độ này còn tồn tại thì sẽ còn nhiều chính sách sai
lầm, nhiều bi kịch đau thương cho dân tộc, gắn với những cụm từ không
bao giờ phai mờ trong ký ức người dân. |