LUẬT KHOA
7-2-22
“Quan hệ” và chủ nghĩa thiên vị trong phân bổ nguồn cứu trợ sau thiên
tai ở Việt Nam
Lượng hóa hiện tượng “một người làm quan, cả họ được nhờ”.
BÙI CÔNG TRỰC
Từ năm 2020, các tác giả của Luật Khoa tạp chí đã liên tục cảnh báo rằng
những nền tảng chính trị, xã hội và pháp lý của Việt Nam hiện nay là mầm
mống có thể khiến tham nhũng gia tăng trong những năm COVID-19.
Trong bài viết “Dè
chừng tham nhũng trong đại dịch” (đăng vào tháng 7/2020), [1] người
viết đã chỉ ra trong tất cả các bước của quá trình cứu trợ đại dịch đều
tiềm ẩn rủi ro tham nhũng; từ đánh giá và định hướng chương trình cứu
trợ ban đầu, cho đến gây quỹ – xây dựng ngân sách và phân bổ hay xác
định và đăng ký danh sách đối tượng được hỗ trợ.
Tuy nhiên, đáng tiếc là bài viết chỉ dừng lại ở mức đưa ra các cảnh báo
thể chế.
Tương tự, việc người dân Việt Nam ra rả nói với nhau về việc các hộ gia
đình “có quen biết” dễ nhận cứu trợ hơn, hay nhận nhiều hơn, được ưu
tiên hơn đã là câu chuyện thường nhật. Tuy nhiên, vấn đề cũng chỉ dừng
lại ở mức độ quan sát, truyền miệng hay niềm tin.
Đó là lý do người viết cực kỳ vui mừng khi tìm được một nghiên cứu thống
kê có uy tín về vấn đề này ở Việt Nam.
Nghiên cứu có tên gọi “Political
connections and post-disaster assistance in rural Vietnam” (tạm
dịch: “Quan hệ chính trị và vấn đề hỗ trợ sau thảm họa tại nông thôn
Việt Nam”) được đăng trên European Journal of Political Economy, [2] chỉ
vừa được xuất bản vào gần cuối năm 2021. Có thể nói đây là một nghiên
cứu đáng giá vào đúng thời điểm, khi mà câu chuyện từ thiện của nhà nước
và giới nghệ sĩ, cũng như vấn đề cứu trợ trong đại dịch COVID-19 vẫn còn
đang nóng hổi.
Thông tin nền tảng cho nghiên cứu
Trước tiên, các tác giả bắt đầu với các nghiên cứu trước đó, vốn cũng
tìm hiểu mối liên hệ của việc thành viên trong một hộ gia đình
(household) có người nhà là đảng viên, là quan chức với các vấn đề khác
như thu nhập trung bình của hộ, mức độ hạnh phúc hay các lợi ích kinh tế
– xã hội khác.
Theo tổng hợp từ các nghiên cứu trước, một số lợi ích mà gia đình các
đảng viên Đảng Cộng sản (hoặc có kết nối chính trị nói chung) nhận được
có thể bao gồm:
(1) không bị nhà nước thu hồi đất hoặc ít nằm trong diện giải tỏa hơn;
(2) dễ vay vốn ngân hàng hơn;
(3) khu vực địa phương dễ nhận đầu tư hạ tầng hơn.
Ngoài ra, nếu bạn đọc quan tâm, Luật Khoa cũng đã có một bài viết khác
của tác giả Võ Văn Quản tóm tắt vai trò của thẻ
đảng với thu nhập và mức độ hạnh phúc của các hộ gia đình Việt Nam.
[3]
Những quan sát trên tạo nền tảng cho các giả định trước nghiên cứu
(hypothesis) của nhóm tác giả rằng sẽ có những thiên vị nhất định trong
vấn đề phân bổ nguồn cứu trợ tại Việt Nam dựa trên mối quan hệ chính
trị.
Trong phần này, các tác giả cũng giải quyết các phản biện và thắc mắc có
thể có, liên quan đến mẫu nghiên cứu và tính đại diện của mẫu nghiên
cứu. Các tác giả thu thập và tận dụng nhóm dữ liệu của Vietnam Access to
Resources Household Survey (VARHS), do Viện Thế giới Nghiên cứu Kinh tế
Phát triển của Đại học Liên Hợp Quốc (United Nations University’s World
Institute for Development Economics Research – UNU-WIDER) cung cấp. Đây
có thể nói là một bộ dữ liệu có chiều sâu lẫn chiều rộng và do một tổ
chức khảo sát có uy tín thu thập.
Ngoài ra, nhóm tác giả xác định một số khái niệm quan trọng có ảnh hưởng
tới việc tổng hợp và đánh giá số liệu.
Một trong số đó có thể kể đến quá trình định nghĩa ai được xem là có vị
trí chính trị, vị trí công quyền (public officials). Đáng tiếc đây cũng
là một điểm trừ của nghiên cứu theo quan điểm của người viết, bởi các
tác giả chỉ xác định người nắm công quyền là giới công chức làm việc
trong hệ thống hành chính xã, thị trấn, huyện, v.v. mà loại trừ các chức
danh trong các tổ chức chính trị xã hội quần chúng như Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên hay Hội Nông dân.
Theo người viết, đây là những nhóm chính trị đóng vai trò quan trọng
không kém trong việc định hình, xây dựng và phân bổ nguồn cứu trợ tại
từng địa phương. Việc loại bỏ chức sắc trong các tổ chức này có thể
khiến cho bức tranh toàn cảnh về mối liên hệ giữa quan hệ chính trị và
phân bổ nguồn cứu trợ không được toàn diện cho lắm.
Tuy nhiên, có lẽ điều này sẽ giúp chúng ta giới hạn được phạm vi và
thông điệp của nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu
Sau quá trình thống kê, các tác giả nhận thấy nhóm quan hệ chính trị phổ
biến nhất là có bạn bè là quan chức, trong khi nhóm ít phổ biến nhất là
có người thân trực tiếp trong gia đình là quan chức. Dù sao đi chăng
nữa, phân tích cho thấy các làng, xã với lượng quan hệ chính trị cao hơn
luôn nhận được nguồn cứu trợ tốt hơn, nhiều hơn so với các làng, xã còn
lại.
Bảng số liệu trích từ nghiên cứu.
Mô tả bằng bảng số liệu trên, các tác giả ghi nhận rằng chỉ một đơn vị
thay đổi trong các mối quan hệ chính trị dẫn đến khả năng nhận thêm
nguồn lực cứu trợ tăng lên đến 30,7%. Như vậy, điều này hoàn toàn tương
ứng với phát hiện của các nghiên cứu trước đó, cũng như giả định của
chính nhóm đặt ra ở mục đầu tiên.
Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, nhóm tác giả đi sâu vào việc phân tích
khả năng các quan hệ khác biệt có dẫn đến sự khác biệt trong việc phân
bổ nguồn cứu trợ hay không.
Với ba nhóm quan hệ bao gồm thành viên gia đình (household members),
người thân cùng huyết thống (relatives) và bạn bè (friends), cùng hay
không cùng nơi sinh sống, nhóm tác giả kết luận sự thiên vị về phân bổ
nguồn cứu trợ mạnh nhất vẫn là dựa trên huyết thống và nguồn gốc gia
đình, quê hương (hometown favouritism). Trong khi đó, các kết nối xã hội
như bạn bè không tạo khác biệt đáng kể trong việc phân bổ cứu trợ.
Đi xa hơn, nhóm nghiên cứu thậm chí phân loại và tìm hiểu xem liệu vai
vế và mối quan hệ gia đình khác nhau (giữa bố mẹ, con cái, cháu, v.v.)
có tạo ra sự khác biệt nào hay không. Trên cơ sở đó, sự thiên vị được
tìm thấy khi gia đình có con, cháu giữ các chức danh nhà nước, nhưng lại
không được tìm thấy khi bố, mẹ, người lớn trong gia đình giữ các chức
danh này.
Đây là một phát hiện tương đối thú vị, bởi cách đây không lâu câu
chuyện tiêm vaccine nhờ “ông ngoại” phần nào cho thấy nền tảng của
chủ nghĩa thiên vị không nhất thiết phải là từ người trẻ dành cho người
lớn tuổi trong gia đình. [4]
***
Tựu trung, tuy nghiên cứu không đánh vào một chủ đề hoàn toàn mới lạ tại
Việt Nam, nó giúp chúng ta tái khẳng định với những bằng chứng cụ thể về
sự bất bình đẳng giữa những hộ gia đình, địa phương có người thân đang
nắm trọng trách nhà nước so với những hộ gia đình, địa phương không có.
Một trong những kết luận của nhóm nghiên cứu khiến người viết tương đối
thắc mắc và không đồng tình, đó là việc họ cho rằng trong các chính
quyền toàn trị (authoritarian regimes), quá trình phân bổ nguồn lực sẽ
hiệu quả hơn và chính xác hơn. Họ cũng nói thêm việc phân bổ viện trợ
không đồng đều là kết quả của quá trình tản quyền (decentralisation) cho
địa phương trước đó. Hy vọng chúng ta sẽ có nguồn lực và thời gian để
bàn về vấn đề này trong một bài viết khác.
Chú thích
1. Trực, B. C. (2021a, July 19). Dè chừng tham nhũng trong đại dịch.
Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2020/07/de-chung-tham-nhung-trong-dai-dich
2. Trinh, T., Feeny, S., & Posso, A. (2021). Political connections and
post-disaster assistance in rural Vietnam. European Journal of
Political Economy, 102097. https://doi.org/10.1016/j.ejpoleco.2021.102097
3. Quản, V. V. (2021a, January 25). Thẻ đảng, thu nhập, và mức độ
hạnh phúc của gia đình Việt Nam. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2021/01/the-dang-thu-nhap-va-muc-do-hanh-phuc-cua-gia-dinh-viet-nam
4. Tuổi Trẻ Online (2021a, July 20). Cô
gái khoe được tiêm vắc xin Pfizer “nhờ ông ngoại”, giám đốc bệnh viện
nói gì? TUOI TRE ONLINE. https://tuoitre.vn/co-gai-khoe-duoc-tiem-vac-xin-pfizer-nho-ong-ngoai-giam-doc-benh-vien-noi-gi-20210720121049424.htm |