Mấy câu chuyện tư vấn và phản biện
Đào Công Tiến
Nhớ lại và suy ngẫm từ mấy câu chuyện tư vấn và phản biện mà tôi – một
Đảng viên 83 tuổi đời, 60 tuổi đảng đã dành nhiều thời gian, tâm huyết
và ít nhiều của sự hiểu biết cho việc tư vấn và phản biện về những
chuyện có liên quan đến dân, đến nước và đến cả cách hành xử của đảng
Cộng sản
1.
Sản phẩm tư vấn và phản biện đầu tiên sau 30.4.1975 nằm trong bài phát
biểu của tôi tại Đại hội đại biểu của Đảng bộ Khối cơ quan Dân chính
Đảng Trung ương Cục miền Nam – Đại hội cấp dưới tiến đến Đại hội Đảng IV
(1976). Bài phát biểu có đề cập đến chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp
miền Nam. Vấn đề nóng được chú ý gây tranh cãi trong bài phát biểu là đề
nghị không lấy mô hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc áp đặt
lên công cuộc hợp tác hóa đối với nông dân, nông nghiệp, nông thôn miền
Nam. Đề nghị đó không vào được các văn kiện Đại hội Đảng IV. Rồi Hợp tác
xã Tân Hội (Tiền Giang), Hợp tác xã Phú Lợi Thượng (Bến Tre) và nhiều
nơi khác – hầu như tỉnh nào cũng có hợp tác xã mọc lên bằng sự áp đặt,
rồi cũng ngã xuống trên sân nhà của chúng.
2.
Tại Đại hội đại biểu lần thứ 5 của Đảng bộ Tp.HCM – Đại hội cấp dưới
tiến đến Đại hội Đảng VII
(1991) tôi được trình bày bản tham luận, với hai vấn đề lớn được đề cập
– CNXH và Đổi mới. Vấn đề nổi cộm là ý kiến khác “chính thống” về CNXH
và Đổi mới.
CNXH theo chủ thuyết Mác-Lênin -
Chủ nghĩa cộng sản và Quốc tế vô sản với đường lối giai cấp quá
cực đoan, tuyệt đối hóa công hữu tư liệu sản xuất, độc quyền lãnh đạo
bằng siêu quyền lực danh cho đảng Cộng sản – đảng của giai cấp công nhân
mà Đảng Cộng sản Việt Nam “nguyện trung thành vô hạn” và lấy đó làm nền
tảng tư tưởng chính trị và là kim chỉ nam cho tư duy lý luận và hành
động cách mạng của Đảng. CNXH – cái được Đảng chọn mù mờ về lý thuyết,
đã và đang lâm vào khủng hoảng, sụp đổ trong đời sống hiện thực. CNXH
đó, không phải là cái chúng ta chọn cho đường lối phát triển. Cái cần
chọn là khôi phục và phát triển sau chiến tranh – là dân sinh, dân chủ,
nhân quyền của thời bình và nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập để đi
vào kỷ cương lề luật. Vì thế, cũng chẳng có thời kỳ quá độ lên CNXH,
hoặc chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, như đã đề cập trong các dự thảo
văn kiện Đại hội Đảng VII mà chúng ta đang bàn thảo.
Đổi mới trong nhiều văn kiện của Đảng, Đảng tự nhận rằng: Đổi mới do
Đảng khởi xướng mà có. Còn trong đời sống hiện thực, Đổi mới đã có những
nội hàm đột phá để phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần; phá bỏ
những rào cản ngăn sông cấm chợ để liên kết hợp tác trên thị trường đối
với người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua. Đổi mới
tuy chưa toàn diện, nhưng cũng có những nội hàm ươm mầm cho cải cách thể
chế chính trị - xã hội. Những nội hàm đột phá đó, phần lớn được hình
thành và phát triển hoàn thiện từ những khởi xướng của người dân tại
nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình nông dân, thợ thủ công,
tiểu thương vì cuộc sống và lẽ sống của mình, họ đã tự phát “xé rào”
vượt cơ chế chính sách hiện hữu đầy sai trái. Đó là mũi đột phá được
khởi xướng từ dân – là cơ sở, gốc rễ của Đổi mới. Đổi mới từ chuyện lớn
của dân, của nước và cũng là chuyện lớn của Đảng. Đảng chấp nhận việc
làm của dân, như là chấp nhận giải pháp tình thế trước áp lực của khủng
hoảng đã đến lúc không còn chịu nổi. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư khóa V,
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI, và nhất là Nghị quyết của Đại
hội Đảng VI chấp nhận Đổi mới.
Với những trình bày ở trên, xin đề nghị không nói khởi xướng Đổi mới
thuộc về Đảng. Nếu nói khởi xướng thì phải nói thuộc về dân.
Tiếp nối hành trình Đổi mới gặp không ít cản ngại từ tư duy giáo điều
XHCN, sợ “Đổi mới được kinh tế nhưng mất tư tưởng, được bộ phận nhưng
mất tổng thể, được trước mắt nhưng mất lâu dài, được kết quả hiển nhiên
nhưng xa rời mục đính và những nguyên tắc cơ bản, được của cải nhưng
hỏng quan hệ sản xuất và con người”. Sự mơ hồ trong tư duy lý luận như
vậy đã làm cho Đổi mới không toàn diện, không triệt để, do dự, thiếu dứt
khoát, nhất là đối với đòi hỏi đổi mới thể chế chính trị gắn liền với
đổi mới kinh tế.
Ngay cả chống tham những tuy có được phát động, nhưng nặng về chống đỡ,
thậm chí chống đỡ thụ động, chưa thực sự đi vào chiều sâu từ cội nguồn
sinh ra tham nhũng.
Quy định pháp luật vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp căn cơ của Đổi mới
bị hụt hẫng suốt nhiều thập niên cho đến nay. Các quyền tự do dân chủ đã
được Hiến pháp 2013 quy định (tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình) không được thực hiện đầy đủ trên
thực tế. “Xin cho” còn làm thay cho “điều gì luật pháp không cấm thì
được làm”. Đất đai với “sở hữu toàn dân” và “nhà nước quản lý” làm mất
quyền của dân và gia tăng sự lạm dụng từ Nhà nước và các nhóm lợi ích
bất chính gây bất ổn xã hội (như vụ Đồng Tâm mới đây) . . .
3.
Không thể cứ độc quyền lãnh đạo bằng siêu quyền lực đối với “Đảng lãnh
đạo Đảng, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội”, “Đảng lãnh đạo Đảng” mới
nghe tưởng phải, nhưng có chuyện lớn nào của Đảng không gắn kết với
chuyện dân chuyện nước mà Đảng hành xử một mình? Còn chuyện nhà nước và
xã hội – thực chất là chuyện dân chuyện
nước, “nước lấy dân làm gốc”, mà Đảng độc quyền lãnh đạo một mình
thì dẫn tới độc tài, độc Đảng và Đảng trị là điều khó tránh khỏi.
Ban phát quyền lực như thế sẽ nảy sinh hai hệ lụy khó tránh khỏi: (1)
“quyền lực tuyệt đối, tha hóa tuyệt đối” sẽ giết chết Đảng; (2) không có
quyền - nhất là lợi quyền, thì vô trách nhiệm, vô cảm dẫn đến “dân hư”.
“Nước lấy dân làm gốc” mà gốc hư hỏng, bệnh hoạn thì tránh sao được hệ
lụy không lường?
4.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt, có cả
ngàn năm phải đối mặt với mưu đồ xâm phạm chủ quyền, như chủ quyền biển
đảo hiện nay, của các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc. Chỉ tính
từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Việt Nam liên tục bị
nhiều “cú đánh” và cả những cú lừa cay độc hơn cả “cú đánh”.
“Đổi trắng thay đen” để đánh bồi thêm cùng với cấm vận của Mỹ đối với
Việt Nam, về sự có mặt của
quân tình nguyện của Việt Nam trên đất Campuchia theo tiếng gọi giải cứu
thảm họa diệt chủng do Khơ me Đỏ gây ra.
“Lèo lái” buộc Việt Nam chấp nhận giải pháp “chia đôi” đất nước, “chia
rẽ” dân tộc tại vĩ tuyến 17 ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược nói chung và Điện Biên Phủ nói riêng kết thúc thắng lợi –
chấn động địa cầu, để cơ hội hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ rời khỏi tầm tay. Sự kiện nầy diễn ra tại cái gọi là Hòa đàm
Genève và bị coi là ươm mầm chia rẽ lớn nhất đối với cộng đồng người
Việt và dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam có sự can thiệp của các nước
lớn, trở thành cuộc chiến tranh lớn nhất, kéo dài nhất, đẫm máu nhất, và
là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn tồi tệ nhất, với Việt Nam và thế
giới sau Đại thế chiến thứ hai.
“Quay lưng lại” với Công ước Liên Hiệp quốc về luật biển năm 1982, nhà
cầm quyền Trung Quốc đã đưa ra yêu sách phi pháp bằng cái gọi là Đường 9
đoạn – Đường lưỡi bò, để hòng tạo cơ sở pháp lý cho việc xâm phạm chủ
quyền biển đảo của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Bằng “lời ngon”, “tiếng ngọt”, “bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng”, cùng
chung ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác-Lênin và biện minh rằng, còn
Đảng Cộng sản, còn chế độ XHCN là còn tất cả nên phải giữ gìn cho nhau
bằng mọi giá – bằng sự mơ hồ mất cảnh giác, bán rẻ chủ quyền trong đó có
chủ quyền biển đảo – như đánh chiếm Hoàng Sa, cụm đảo Gạc Ma thuộc
Trường Sa của Việt Nam, đưa các trạm HD 981, HD 08 và nhiều lượt tàu vào
vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam, đứng sau lưng Khơ me Đỏ đánh
Việt Nam ở biên giới Tây Nam, xua 60 vạn quân đánh Việt Nam ở biên giới
phía Bắc.
Những sự kiện nêu trên là hành vi xâm lược, mà kẻ xâm lược thuộc về các
thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc theo chủ nghĩa Đại Hán.
Thay lời kết
Lệ thuộc vào giáo điều ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác - Lê nin, cùng
với lệ thuộc vào các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc không chỉ
là chuyện quá khứ, mà cũng là chuyện của hiện tại. Không thoát ra khỏi
“lệ thuộc kép” này thì không thể giữ được chủ quyền – độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Để thoát ra khỏi “lệ thuộc kép” đó, phải cải cách toàn diện hệ thống
chính trị theo hướng tôn trọng nhân quyền, tự do dân chủ, nhà nước pháp
quyền, tam quyền phân lập. Không có sự cải cách đó, mọi ý đồ tốt đẹp sẽ
chỉ là ảo tưởng, bất khả thi, kể cả việc bài trừ quốc nạn tham nhũng.
Tháng 3 năm 2020
|