Địa chính trị Việt Nam nhìn từ đại lục Á Âu:
Christopher E. Goscha
Nguyên bản: La géopolitique vietnamienne vue de l’Eurasie : quelles leçons de la troisième guerre d’Indochine pour aujourd’hui? Hérodote 2015/2 (n° 157), tr. 23-38
Minh Toàn dịch
Chống đối kịch liệt sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Đông Dương,
những người ủng hộ và bảo vệ cho quan điểm này được xem là "phái chính
thống" ở Bắc Mỹ. Họ chỉ trích "chính sách bao vây" của Mỹ và "lý thuyết
domino" là những điều bào chữa cho việc tham dự của Washington ở Đông
Dương từ năm 1950 [2]. Họ thêm rằng, Việt Nam chưa từng có đủ quan trọng
về địa chính trị để biện minh cho việc can thiệp rộng lớn của Hoa Kỳ vào
Đông Dương. Lấy cảm hứng từ công trình rất có ảnh hưởng của William
Appleman Williams, nhất là cuốn The
Tragedy of American Diplomacy
(Bi kịch của ngoại giao Mỹ), những người phái "chính thống" tập trung
phê bình về việc can thiệp của Mỹ ở Việt Nam vào tham vọng kinh tế đế
quốc của Hoa Kỳ. Giống như Williams đã chỉ ra làm thế nào mà những chiến
lược của Mỹ nhằm thiết lập quyền bá chủ về kinh tế trên thế giới đã gây
ra chiến tranh lạnh (chứ không phải Staline gây ra), những người đồng
điệu với ông đã cố gắng chứng tỏ như thế nào mà việc bành trướng của Đế
quốc Mỹ đã là nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam.
Tuy cảm nhận rõ những phê bình này, chúng tôi buộc phải nhận thấy hai
vấn đề trong việc đọc của phái chính thống về chiến tranh Đông Dương.
Trước tiên, bằng việc nhất nhất dựa trên những phê bình "Đế quốc Mỹ" khi
họ đọc về chiến tranh Đông Dương, những người chính thống cung cấp cho
chúng ta một phân tích về Việt Nam và về địa chính trị của nó lấy Châu
Âu làm trọng tâm. Cách nhìn lạ lùng này, chủ yếu lấy Mỹ làm trung tâm
lịch sử, đã giấu đi những kịch bản không phương Tây khác, những nhân tố
khác, những cấu trúc giải thích khác cho phép hiểu về địa chính trị Việt
Nam trong quá khứ và hiện thời. Điều này đưa chúng ta đến ghi nhận thứ
hai : nếu phê bình theo kiểu Williams áp dụng tốt cho hai cuộc chiến
Đông Dương đầu (1946-1954; 1954-1975), chiến tranh Đông Dương lần ba
(1979-1991) thành ra vấn đề cho những người phái chính thống. Thực ra
người Âu-Mỹ vẫn còn ở đó, nhưng họ bị xếp vào vai phụ. Lần này, chính
những nước Á Âu cộng sản lần lượt chống đối lẫn nhau. Những người chính
thống gặp khó khăn khi giải thích điều gì đã xảy ra. Họ thích làm việc
với hai cuộc xung đột trước hơn, chúng dễ định hình hơn theo cách tiếp
cận lấy Châu Âu làm trung tâm của Williams và những nguồn tài liệu về
chúng dễ tiếp cận hơn.
Theo cách nhìn của chúng tôi, điều có vẻ có vấn đề trong phương pháp của
các nhà nghiên cứu chính thống là việc họ không biết những cách tiếp cận
mới trong lịch sử toàn cầu đã được khai quang từ gần hai mươi năm qua.
Và chúng khiến ta cảnh giác với những nguy hiểm về phương pháp và nhất
là về khoa học luận chỉ muốn phân tích thế giới theo quan điểm phương
Tây [3]. Những chuyên gia về lịch sử toàn cầu cũng mời gọi chúng ta xem
xét những cách phân chia niên đại khác và những khuôn khổ không gian
khác mà từ đó có thể khám phá những viễn cảnh khác. Chẳng hạn Jack Goody
và John Darwin gần đây đã chứng minh rằng khuôn khổ địa lý của Á Âu đúng
là có thể cho phép chúng ta giải phóng lịch sử thế giới khỏi cái áo bó
buộc của quan điểm lấy Châu Âu làm trung tâm [Goody, 2010 ; Darwin,
2008].
Bài này đề xuất "đưa trở về trung tâm" địa chính trị của Việt Nam trong
bối cảnh Á Âu và trong chiến tranh Đông Dương lần ba mà ở đây tôi dùng
làm trường hợp nghiên cứu. Trái với những điều phái chính thống đưa ra,
Việt Nam đã và vẫn hết sức quan trọng trong địa chính trị thế giới, quan
trọng ở vị trí của nó trên lục địa Á Âu cũng như ở chỗ nó mở rộng ra
biển Đông. Quả thực, lấy Việt Nam ra khỏi khuôn khổ Pháp-Mỹ làm phức tạp
cho việc phân tích. Nhưng chiến tranh Đông Dương lần ba, đặt trong khuôn
khổ Á Âu, cung cấp chính xác cho ta một khuôn khổ không gian thay thế để
hiểu tốt hơn tại sao đất nước nhỏ bé này cho đến nay thật quan trọng,
không chỉ cho Mỹ mà còn cho cả Nga, Trung Quốc, Nhật, thậm chí cho Ấn
Độ. Đây là điều mà những người phái chính thống vẫn chưa giải thích
được. Vậy hãy chuyển trung tâm cách nhìn của chúng ta.
Sau việc ngược về quá khứ ngắn gọn, tôi sẽ nói đến thời hiện tại để
chứng tỏ làm thế nào mà những rạn nứt xảy ra bên trong khối cộng sản Á
Âu xuất hiện năm 1950 đã kết hợp nguy hiểm trong những năm 1970. Chúng
mở ra hai điểm yếu : rạn nứt thứ nhất giữa Trung Quốc với Liên Xô ở phía
tây Á Âu, sứt mẻ thứ hai giữa Khơ-me Đỏ và Việt Nam ở châu thổ sông Mê
Kông. Hai rạn nứt này có nguồn gốc do sự bất đồng về việc hiểu về chủ
quyền quốc gia của những người chủ chốt trong khuôn khổ được xem là một
cộng đồng cộng sản liên quốc gia, trải dài từ Elbe đến tận biển Đông.
Những bất hòa này đã kích động những đường lối chủ nghĩa dân tộc và đã
kết hợp lại trong bối cảnh địa chính trị Á Âu như thế nào là những câu
hỏi nền tảng nếu ngày nay ta muốn hiểu cuộc chiến tranh thứ nhất giữa
cộng sản với nhau trong lịch sử thế giới. Đầu tiên ta hãy trở về quá khứ
để hiểu cách mà Cộng sản Việt Nam ở Đông Dương đã hóa thành những thùng
thuốc súng trong cuộc xung đột cuối cùng, cuộc chiến giữa Trung Quốc và
Việt Nam, và kết thúc chiến tranh lạnh ở phía đông lục địa Á Âu năm
1979, chứ không phải một thập kỷ sau đó ở Berlin. Điều này tiếp theo cho
phép ta hiểu theo một cách mới tại sao Việt Nam vẫn rất quan trọng đến
tận ngày nay trong địa chính trị thế giới thống trị bởi ba "đế quốc",
chứ không phải là một mà thôi...
Giống người Pháp mà họ đấu tranh chống lại, cộng sản Việt Nam suy tính
trên bình diện Đông Dương. Hội nghị Genève năm 1954 tỏ rõ giữa thanh
thiên bạch nhật những nỗ lực của Việt Cộng để dựng lên các nhà nước anh
em có chủ quyền ở Campuchia và ở Lào. Được Mỹ và Anh ủng hộ, người Pháp
từ chối công nhận sự có thực của những "chính quyền kháng chiến" hình
thành năm 1950 dưới chỉ đạo đích thân của Hồ Chí Minh. Với tán thành của
Trung Quốc và Liên Xô, họ đạt được việc loại khỏi bàn đàm phán những
chính phủ này, đồng thời đưa ra những nhà nước cộng tác với họ, lãnh đạo
bởi Bảo Đại (ở Việt Nam), Norodom Sihanouk (ở Campuchia) và Sisavavong
(ở Lào). Ở phạm vi Đông Dương, hai nhà nước cộng tác nổi lên trong chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, một được điều khiển bởi người Pháp và nhà
nước kia bởi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh.
Tuy nhiên, Pháp và Mỹ không phải là những người duy nhất phản đối việc
thành lập nhà nước do VNDCCH theo đuổi tại Campuchia và Lào. Trong những
tháng trước hội nghị Genève, Pandit Nehru ở Ấn Độ không ngừng lặp đi lặp
lại với lãnh đạo phái đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai rằng những nỗ lực của
Việt Nam nhắm tới việc thiết lập các nhà nước cách mạng liên minh, dưới
hình thức những phong trào Pathet Lào và Khơ-me Issarak còn lâu mới là
những động thái trung lập. Khối cộng sản không nên ủng hộ những "nhà
nước cách mạng" ở Lào cũng như ở Campuchia liên kết với VNDCCH này nếu
Trung Quốc muốn cải thiện quan hệ ngoại giao với Ấn Độ và với các nước
không cộng sản khác mong muốn thiết lập sự chung sống hòa bình nhân dịp
chấm dứt tình trạng thuộc địa ở Châu Á (và như thế đồng thời ngăn chặn
những mưu toan của Mỹ nhằm kìm hãm Trung Quốc qua trung gian Tổ chức
hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) được ký kết năm 1954). Cũng như điều Nehru
đã thông báo cho Chu, Đông Dương thuộc Pháp không thể dùng mô hình hậu
thuộc địa lâu hơn nữa cho những người cộng sản trong việc thành lập quốc
gia. Bản thân đứng đầu một quốc gia Á Âu, Nehru thiết lập cầu nối trực
tiếp giữa Đông Dương và Tây Tạng trong những thương lượng với Chu. Khi
việc ủng hộ những chính quyền cộng sản cách mạng này trở thành vật cản
cho thương lượng ngừng bắn ở Genève, Chu giữ khoảng cách với lập trường
của VNDCCH và thuyết phục Hồ từ bỏ những mưu toan cộng sản hóa Đông
Dương.
Những hòa ước ngừng bắn được ký kết tháng bảy 1954 gây nên hiệu ứng tồi
tệ nhất đối với hợp tác cộng sản giữa Việt Nam và Khơ-me. Việc đình
chiến không chỉ đòi hỏi VNDCCH rút các cán bộ chính trị, nhà nước và
quân đội của mình ở phía Việt Nam khỏi vĩ tuyến 17, mà nó cũng buộc thực
hiện cùng một thủ tục rút lui bên phía Campuchia. Tuy nhiên ở Lào, sự
đình chiến cho phép Pathet Lào tập hợp nhân sự trong hai tỉnh biên giới
với VNDCCH. Trong khi người Việt rút quân đội, họ liền gửi ngay hàng
trăm cố vấn giúp Pathet Lào theo đuổi việc xây dựng nhà nước, quân đội
và năm 1955 xây dựng Đảng cộng sản. Đồng thời, họ đưa hàng trăm sinh
viên Lào, rồi cả công chức, viên chức và sĩ quan Lào đến Việt Nam để
hoàn thiện việc giáo dục. Tóm lại, Hồ giữ nhà nước của mình tồn tại liên
kết với Lào bằng cách đào tạo mới một tầng lớp tinh hoa hành chính và
quân sự Lào.
Tuy nhiên ở Campuchia, mọi việc chuyển biến theo chiều hướng khác, bằng
cách yêu cầu VNDCCH rút khỏi toàn bộ lãnh thổ Campuchia, hòa ước Genève
cho phép một nhóm cộng sản Campuchia khác sắp đặt một chính phủ và một
quân đội kháng chiến không liên kết và tự do không bị Việt Nam kiểm
soát. Nhóm này do một nhân vật tên Saloth Sar lãnh đạo, được biết đến
nhiều hơn với tên Pol Pot. Ngoài ra, bằng việc sáng suốt ngả về phía Hà
Nội trong suốt chiến tranh Việt Nam (chẳng hạn, cho phép đường mòn Hồ
Chí Minh đi qua phía đông Campuchia), Norodom Sihanouk đạt được việc bảo
vệ hiệu quả quyền lực của mình, bằng cách ngăn cộng sản Việt Nam lật đổ
mình, hoặc không để họ giúp sức cho những người cộng sản chống đối quân
chủ, nổi tiếng cách đáng buồn với tên "Khơ-me đỏ" mà Sihanouk đặt. Thực
vậy, VNDCCH đã chấm dứt những mưu toan lật đổ hoàng thân trước kia. Cuối
cùng, tuy rằng Pol Pot và thân thuộc đã duy trì liên lạc với những người
cộng sản Việt Nam mạnh hơn mình, họ không hề có ý định tái lập cấu trúc
nhà nước hành chính và quân sự của mình theo kiểu trước năm 1954. Không
xem cộng sản Việt Nam là đồng minh cho việc xây dựng nhà nước của mình
như Pathet Lào, trái lại Khơ-me đỏ coi các lãnh đạo Việt Nam, những đồng
minh Khơ-me và Sihanouk đều chính là những đe dọa đè nặng đến đường lối
tốt đẹp của quá trình hình thành nhà nước.
Điều này đặc biệt trở nên rõ ràng hơn năm 1970, khi Sihanouk bị truất
ngôi sau cuộc đảo chính quân sự và khi quân đội Mỹ và nam Việt Nam xâm
nhập Campuchia với dự định phá hủy các cơ sở của địch và những đường
tiếp tế của đường mòn Hồ Chí Minh. Thay vì hoan nghênh liên minh giữa
VNDCCH và Sihanouk, do Trung Quốc thúc đẩy, những người Khơ-me đỏ thực
sự nghi ngại khả năng người Việt Nam chỉ đón nhận cách mạng Campuchia
tới điểm mà họ đã để lại năm 1954 và rằng họ chỉ khôi phục nhà nước đang
xây dựng này theo "kiểu Pathet Lào". Nếu Việt Nam không tự xem mình là
người đe dọa, hoặc chưa bao giờ có ý định "đô hộ" Campuchia như Khơ-me
đỏ sau này tin như thế, thì họ lại cho rằng thân cận của Pol Pot chia sẻ
giấc mơ đánh bại Mỹ của họ, và cả giấc mơ tạo lập các chế độ cộng sản
độc lập và đối tác trong toàn bộ Đông Dương
với Việt Nam.
Trong trường hợp này, người Việt đã sai lầm nghiêm trọng. Khi Quân đội
nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tham dự vào Campuchia năm 1970, người Khơ-me
đỏ đã làm hết sức mình để đòi lấy chủ quyền quốc gia và nhà nước, không
chỉ chống lại quan điểm của Washington và đồng minh Campuchia của Mỹ, mà
họ còn chống lại quan điểm của Hà Nội và cộng tác Campuchia của phía
này. Những người Khơ-me đỏ nhất quyết đòi VNDCCH tôn trọng nghiêm chỉnh
luật pháp của Campuchia quy định trong lãnh thổ của họ. Họ kiểm soát
việc vào biên giới, thiết lập thuế và cố gắng, tuy gặp nhiều khó khăn,
kiểm soát những phong trào quân sự của QĐNDVN cũng như mối quan hệ của
họ với dân trong vùng. Tóm lại, họ nỗ lực thiết lập chủ quyền toàn bộ
của mình. Sự trở lại của người Việt, của những công chức và quân nhân
Campuchia thuộc thời kỳ trước 1975 không làm yên tâm đầu não lãnh đạo
Khơ-me đỏ. Họ càng nghi ngại thêm việc sẽ mất chủ quyền quốc gia, thậm
chí một cuộc đảo chính. Điều này giải thích tại sao những việc xô xát
quân sự giữa những người cộng sản Việt Nam và Khơ-me nổ ra ngay từ năm
1970 [Chanda, 1986 ; Rowley, 1984 ; Goscha, 2006, p. 152-186 ; Jackson,
1989, p. 37-78].
Ngày 17 tháng tư 1975, đảng của Pol Pot nắm quyền ở Phnôm Pênh, tự hào
là đã "tự mình" đạt được điều này, hơn một tuần trước khi Sài Gòn rơi
vào tay QĐNDVN. Vài tháng sau đó, khi những người lãnh đạo Việt Nam
thắng cuộc muốn chúc mừng đồng cấp Campuchia về việc thiết lập Campuchia
dân chủ mới do Pol Pot lãnh đạo - và nói về một "đoàn kết Đông Dương"
thực thi về mọi mặt - những người cộng sản Campuchia liền nhanh chóng
phản ứng lại: họ xem điều này là quan hệ "đô hộ" và diễn giải lời nói
này như là mưu toan mới của Việt Nam nhằm thiết lập sự kiểm soát của
mình, làm tổn hại đến chủ quyền toàn vẹn của Campuchia. Mặc dù lịch sự
cám ơn với nụ cười làm yên lòng, Pol Pot tiếp tục coi những người cộng
sản Việt Nam là mối đe dọa thường trực đến sự độc lập quốc gia
Campuchia. Vậy thế là nổi lên rạn nứt đầu tiên trong địa chính trị Á Âu.
Bất đồng giữa Trung Quốc với Liên Xô và sự sụp đổ của Cộng sản Á
Âu
Giữa năm 1975, chưa ai có thể tưởng tượng cách thức đổ vỡ giữa Trung
Quốc và Liên Xô sẽ tạo ra một hiệu ứng dài suốt trục Á Âu trong khối
cộng sản và bùng nổ tương tác với bất đồng giữa Việt Nam và Campuchia ở
sườn châu thổ sông Mê Kông. Cộng đồng cộng sản bắt đầu rạn nứt sâu sắc
với sự giải Stalin hóa do Nikita Khrouchtchev phát động 1956. Mao Trạch
Đông nhanh chóng nghĩ rằng những người Sô viết đã đánh mất la bàn tư
tưởng của họ và việc Khrouchtchev bỏ học thuyết đã gây ảnh hưởng địa
chính trị đáng kể cho thế giới cộng sản, đặc biệt cho Trung Quốc. Sau đó
cùng năm, những vấn đề của Sô Viết ở Ba Lan, nhất là ở Hungary tạo nên
dấu hiệu cảnh báo đặc biệt loan đến tai Bắc Kinh [Jian, 2001 ; Lüthi,
2008].
Praha : một biến cố cộng sản Châu Âu và Châu Á
Nhưng nổi bật hơn bất kỳ biến cố nào khác, đó là việc Liên Xô xâm lược
Tiệp Khắc vào tháng tám 1968 làm chia rẽ trung tâm chủ nghĩa cộng sản Á
Âu bằng việc đặt hai nước mạnh nhất bên bờ chiến tranh. Vi phạm trắng
trợn của Mát-xcơ-va vào chủ quyền quốc gia của một nước, hơn nữa lại là
một nước cộng sản, đã thuyết phục Mao rằng Liên Xô đã trở nên một đe dọa
nghiêm trọng, chứ không phải chỉ Hoa Kỳ. Một tháng sau, tuyên bố của
Liên Xô về "chủ quyền và nghĩa vụ quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa"
khó lòng làm dịu lo ngại của Trung Quốc, ngược lại còn nhân thêm lên,
giống như việc tuyên bố "học thuyết Brezhnev". Tình hình tồi tệ đến nỗi
tháng ba 1969, quân đội Trung Quốc và Xô Viết đã đối đầu nhau, ngắn
nhưng dữ dội dọc theo biên giới chung của hai nước xuyên qua Trung Á,
đồng thời mỗi bên lắp đặt vũ khí nguyên tử của mình.
Như thế, sự xâm lược Tiệp Khắc của Liên Xô làm cho cả Trung Quốc và Hoa
Kỳ lo lắng. Mao dừng Cách mạng văn hóa của mình, hướng chính trị ngoại
giao của Trung Quốc từ chủ nghĩa quốc tế vô sản sang chính sách thực
dụng và cho phép mở ra thương lượng với Hoa Kỳ, từ đó thực hiện trở mặt
ngoạn mục, nhắm tới cô lập Liên Xô. Richard Nixon và Henry Kissinger vào
Nhà trắng đầu năm 1969, quyết tâm đặt chính sách ngoại giao Mỹ trên
đường lối "thực dụng". Cả hai tin chắc rằng việc giúp đỡ Trung Quốc đẩy
lùi ảnh hưởng của Liên Xô trên quy mô toàn cầu, buộc Mát-xcơ-va nhượng
bộ về vũ khí nguyên tử và khai thác sự chia rẽ bên trong của những người
cộng sản để kết thúc chiến tranh Việt Nam là vì quyền lợi người Mỹ. Kể
từ năm 1972, quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đi vào một thời đại mới
của hợp tác kinh tế và khoa học và cùng nhau chống lại "sự bá chủ" của
Liên Xô trên thế giới. [Jian, 2006 ; Qiang Zhai, 2000].
Bước ngoặt lịch sử này trong quan hệ Trung-Mỹ và sự chuyển hướng về một
nỗ lực chung ngăn chặn Liên Xô và đồng minh ảnh hưởng trực tiếp đến mối
quan hệ Việt-Trung và Việt Nam-Campuchia. Nhấn mạnh vào điểm này : Praha
là một sự kiện cộng sản cho Châu Âu cũng như Châu Á và Việt Nam cũng
nhanh chóng nhận thấy hậu quả gián tiếp. Người Trung Quốc trước thì phê
phán Hà Nội đã thương lượng với Mỹ sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, đầu
năm 1968. Nhưng đụng phải sự xâm lược của Liên Xô vào Tiệp Khắc vài
tháng sau đó, họ bắt đầu gây áp lực với Hà Nội theo hướng khác và cổ vũ
lãnh đạo bắc Việt thương lượng với Mỹ ở Paris. Bắc Kinh chắc chắn tiếp
tục ủng hộ những nỗ lực của những lãnh đạo này với mục đích để buộc Mỹ
phải rời khỏi Việt Nam. Tuy nhiên hiện tại, các con mắt hướng về
Mát-xcơ-va, những người lãnh đạo Trung Quốc đồng thời nỗ lực cải thiện
quan hệ với Hoa Kỳ, hay kẻ thù của Hà Nội. Chuyến đi lịch sử của Nixon
đến Trung Quốc đầu năm 1972, không thể xảy ra bất ngờ ở thời điểm xấu
nhất của chiến tranh Việt Nam (người Mỹ ném bom Hà Nội và đặt mìn cảng
Hải Phòng) và Nixon đã khai thác tối đa lợi thế này. Mát-xcơ-va cũng cổ
vũ mạnh mẽ Hà Nội thương lượng, Liên Xô cũng tìm cách cải thiện mối quan
hệ với Mỹ. Nhưng quyết định không để Việt Nam ngả về phía Trung Quốc,
Liên Xô cung cấp vũ khí hiện đại cần thiết cho đại tướng Võ Nguyên Giáp
lao vào cuộc tổng tấn công, từ Phục Sinh đến tháng tư 1972 và vào mùa
xuân 1974-1975.
Căng thẳng giữa Cộng sản Việt Nam và Khơ-me đỏ
Tình thế kể từ đó thuận lợi cho sự hội tụ của hai bất hòa ở trục Á Âu.
Trong khi thế giới cộng sản, từ Praha tới Mê-kông, nát thành từng mảnh,
căng thẳng giữa Khơ-me đỏ và Việt Nam, giữa Trung Quốc và Liên Xô, và
căng thẳng ngày càng xấu giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng trầm
trọng thêm. Những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt ngày càng khó chiều
lòng. Bị ngập trong nỗi sợ Liên Xô điên cuồng, trong nỗi sợ bị bao vây,
và trong sự ám ảnh mọi lúc rằng sự xâm phạm chủ quyền sẽ ảnh hưởng đến
mình, từ đây họ diễn giải bất kỳ dấu hiệu - thực hay tưởng tượng- về sự
thiên vị của Hà Nội cho Mát-xcơ-va như là một đe dọa tiềm tàng cho an
ninh của họ. Bằng cách đẩy lùi những mưu toan Trung-Mỹ nhằm ngăn chặn
mình ở đông Á Âu, Liên Xô tăng cường mối quan hệ với Hà Nội và gia tăng
sự hiện diện của mình ở Châu Á thông qua cảng Vladivostok của họ. Năm
1971, khi Kissinger thăm Bắc Kinh, đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội đã chỉ
rõ rằng, nhờ vào vị trí vững chắc và chiến thắng của Việt Nam, "để so
sánh mà nói thì chúng ta có nhiều khả năng thiết lập chính sách trong
vùng này hơn. Không loại trừ Đông Dương có thể trở thành chìa khóa của
chúng ta cho toàn bộ Đông Nam Á. Mặt khác, hiện nay không có bất kỳ ai
trong khu vực này mà chúng ta có thể dựa vào ngoại trừ VNDCCH[4]". Không
chắc rằng Hà Nội có đã nắm bắt được những nguy hiểm tiềm tàng mà một
chiến lược như thế của Liên Xô có thể kéo theo, trong một khuôn khổ thời
cơ thật không ổn định, lẫn việc họ có đã nắm bắt được như thế nào mà
chiến lược này có thể làm Trung Quốc và Khơ-me đỏ xích lại gần nhau
trong một liên minh thù địch với Việt Nam.
Nhưng để hoàn toàn xác đáng, ở thời điểm đó cũng không chắc rằng bất cứ
ai thực sự nắm bắt được ba yếu tố liên đới này khi Đông Dương trở thành
cộng sản năm 1975 : thứ nhất, trong chiều kích nào Trung Quốc e sợ bất
kỳ sự cởi mở nhỏ nào của Hà Nội với Liên Xô có thể biểu thị một đe dọa
bao vây to lớn cho an ninh quốc gia của họ; thứ hai, trong chiều kích
nào những lãnh đạo Khơ-me đỏ, ám ảnh còn hơn và từ nay đứng đầu toàn bộ
Campuchia, ngày càng tin chắc rằng cộng sản Việt Nam
đã trở thành đe dọa cho an
ninh quốc gia của họ, phải chống lại bất kỳ giá nào; thứ ba, và vấn đề
chính nằm ở đây, làm thế nào hai điểm trên có thể kết nối với nhau thành
một liên kết đặc biệt nguy hiểm, có thể làm tan rã toàn bộ cộng đồng
cộng sản trên trục Á Âu.
Nguy cơ chiến tranh giữa những người cộng sản ở Châu Á
Bóng ma chiến tranh giữa người cộng sản với nhau ở Châu Á trở nên một
khả năng rất thật kể từ năm 1977, cũng như sự suy chuyển xấu của nó có
thể dẫn đến một chiến tranh Á Âu rộng lớn giữa những người cộng sản.
Cùng năm, cộng sản Việt Nam gửi quân xâm nhập vào sâu Campuchia. Do sự
đột nhập này, mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt. Trung
Quốc dừng hợp tác quân sự và kinh tế với đồng minh cũ Việt Nam, trong
khi Việt Nam khóa Lào mạnh mẽ hơn trước. Đầu năm 1978, tất cả các thủ đô
cộng sản trải dài từ Mát-xcơ-va đến Phnôm Pênh, đi qua Bắc Kinh và Hà
Nội, biểu lộ sự thiếu tin tưởng nghiêm trọng. Đã không có một thời điểm
tốt đẹp để một lãnh đạo cộng sản có đủ cái đầu lạnh can thiệp tháo ngòi
căng thẳng giữa các nước anh em thù hận của gia đình cộng sản Á Âu.
Người Mỹ có lẽ chắc chắn sẽ không làm điều này. Bị cố vấn an ninh quốc
gia của mình, Zbigniew Brzezinski thúc dục, Jimmy Carter chơi quân bài
"Trung Quốc" nhằm ngăn chặn Liên Xô ở Châu Á. Bị cô lập, Hà Nội ký một
hiệp ước phòng thủ song phương với Mát-xcơ-va vào tháng mười một 1978,
trước khi tiến hành chống Khơ-me đỏ. Nhưng bằng cách hành động như thế,
cộng sản Việt Nam nuôi dưỡng nỗi sợ của Trung Quốc khi thấy Đông Dương
rơi vào tay Liên Xô. Trong khi Việt Nam chuẩn bị tràn vào Campuchia và
thiết lập một chính phủ mới liên kết với Lào và Việt Nam, Đặng Tiểu Bình
chơi "lá bài Mỹ" bằng cách đi
Washington đầu năm 1979, trong một chuyến viếng thăm cũng lịch sử
như chuyến thăm của Nixon đến Trung Quốc năm 1972. Họ Đặng hứa cho Việt
Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia nhưng mọi người biết rằng Liên
Xô mới chính là mục tiêu đích thực mà ông ta hướng tới. Chính quyền
Carter đã tán thành và để Trung Quốc mở cuộc hành quân chống Hà Nội và
Mát-xcơ-va. Lôgic Á Âu của Brzezinski kể từ đó được khởi động [5]. Ngày
25 tháng mười hai 1978, QDNDVN tiến vào Campuchia, lật đổ dễ dàng Khơ-me
đỏ và đẩy họ đến biên giới Thái Lan, sau đó thiết lập một chính phủ cách
mạng mới lên nắm quyền, trung thành với Hà Nội và Mát-xcơ-va. Tất cả các
nhân tố từ nay đã yên vị để thành nỗi kinh hoàng kinh khủng nhất của
Khơ-me đỏ về hiện thực bất ổn, mà lúc đầu phần nhiều là hư cấu. QDNDVN
kết thúc triều đại khủng bố của Khơ-me đỏ và tái lập an ninh cho Việt
Nam ở phía nam đất nước [6]. Việt Nam lấy lại việc xây dựng nhà nước
Đông Dương ở Campuchia, công khai nối lại việc tạo thành các "chính phủ
cách mạng" liên kết do Hồ Chí Minh đặt ra năm 1950. Trung Quốc tấn công
phía bắc Việt Nam ngày 17 tháng hai 1979. Nếu những hình ảnh vệ tinh Mỹ
làm an tâm Trung Quốc rằng người Liên Xô không tấn công từ phương bắc,
điều này thực tế loại trừ việc mở một mặt trận chiến tranh thứ hai ở Á
Âu. Hồng quân Trung Quốc phải chịu tổn thất nặng nề vì muốn cho Việt Nam
một bài học. Một khía cạnh khác cũng quan trọng không kém, Trung Quốc
không có một hải quân xứng với nó trong những năm 1980 và không thể nào
cản nổi sự bành trướng của hải quân Liên Xô ở vùng biển phía Nam nhờ vào
cảng Cam Ranh. Như vậy quân đội Trung Quốc mất mặt
vừa trên bộ vừa trên biển. Đó
là bài học then chốt Trung Quốc rút ra từ chiến tranh Đông Dương lần ba.
Nhưng Đặng Tiểu Bình bắt Mát-xcơ-va và Hà Nội phải chịu sự thất thế
nghiêm trọng nhất là về mặt trận ngoại giao và kinh tế. Đặng được Mỹ,
Thái và Nhật ủng hộ, đã tập hợp các lãnh đạo Châu Á (ASEAN)
theo quyền lợi của mình và chỉ đạo thành công cuộc tấn công để giữ
Khơ-me đỏ ở biên giới Thái Lan-Campuchia và ở Hội đồng Liên hiệp quốc.
Họ Đặng cô lập Liên Xô và Việt Nam khỏi Châu Á trong khi ông tiến hành
hiện đại hóa nhanh chóng Trung Quốc. Để đạt được điều đó, ông có thể dựa
vào khu vực này là khu vực năng động nhất trên thế giới, cùng lúc ngăn
cản đối thủ của mình tiếp xúc khu vực này. Tuy nhiên phải trả giá cao :
Trung Quốc ngày nay muốn chúng ta quên đi sự ủng hộ của họ đối với chế
độ tàn bạo của Khơ-me đỏ.
Tuy vào thời điểm đó không ai có thể nắm bắt được rõ điều gì đã xảy ra,
thế giới cộng sản vừa hoàn toàn sụp đổ năm 1979. Việc sụp đổ xảy ra ở
Đông Dương không hề cho thấy rằng đó là ngẫu nhiên : chính là ở ngã ba
này mà bất đồng Trung-Xô, Việt Nam-Campuchia và bất đồng Trung-Việt, từ
những năm 1970, đã đi qua căn nhà cộng sản Á Âu, đã đâm mạnh vào nhau và
đối đầu nhau. Sự hợp lưu của những bất đồng này đã đưa tới chiến tranh,
lần đầu tiên trong lịch sử đặt đối đầu những người cộng sản giữa họ và
thật ngược đời cho thấy Bắc Kinh và Washington liên minh với nhau để
ngăn chặn Liên Xô. Trái với tình huống năm 1950, sự đối đầu ở Á Âu không
còn diễn ra giữa các khối "tư bản" và "cộng sản". Khối cộng sản đã hết
tồn tại. Sự đối đầu cũng không còn liên quan đến ý thức hệ, điều đã từng
là một trong những thành phần thiết yếu của định nghĩa chiến tranh lạnh.
Vậy không có gì ngạc nhiên khi người Mỹ đã để SEATO (Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á) chết hẳn vào tháng sáu 1977. Chiến tranh lạnh chắc chắn đã
không kết thúc ở Berlin năm 1989 với sự sụp đổ của Bức tường, theo một
nhãn quan hết sức lấy Châu Âu làm trung tâm, nhưng kết thúc vào một thập
kỷ trước đó ở Á Âu năm 1979 với chiến tranh Đông Dương lần ba.
Cuối cùng lãnh đạo quốc gia nào đã can thiệp để chấm dứt cuộc chiến gần
nửa thế kỷ của Đông Dương và đạt tới việc mở ngõ cụt Trung-Xô và tạo nền
tảng cho điều này? Ronald Reagan ít hơn Mikhaïl Gorbatchev. Thực vậy ông
này tin chắc rằng cách duy nhất để đặt Liên Xô vào đường ray của thịnh
vượng quốc gia và phát triển những cải cách trọng yếu là xem xét lại
toàn thể chính sách ngoại giao của Mát-xcơ-va từ đông sang tây, và từ
bắc xuống nam. Trên hết tất cả, ông từ chối tiếp tục tài trợ cho một đế
chế có tính chính đáng yếu ớt ở Đông Âu và những cuộc viễn chinh quá tốn
kém ở Châu Phi và Châu Á. Những hành động này chỉ càng làm khó khăn hơn
cam kết của Liên Xô về việc bớt căng thẳng với Mỹ, Nhật, Châu Á, Nam
Hàn, thậm chí Trung Quốc. Nếu quân đội Việt Nam trở thành một trong
những quân đội lớn nhất trên thế giới, đó chính là nhờ vào những thiết
bị cần thiết mà Mát-xcơ-va cung cấp. Sự ủng hộ của Liên Xô đối với kế
hoạch của Việt Nam nhằm thiết lập nhà nước ở Campuchia cũng quan trọng,
vì Trung Quốc đã đứng đầu chống đối quốc tế về mưu đồ này. Loại trừ lâu
dài Mát-xcơ-va khỏi một trong những khu vực năng động nhất thế giới
trong những năm 1980, nói cách khác là toàn bộ Châu Á, đã được bảo đảm.
Như vậy Gorbatchev mong muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc của
Đặng cũng như với Hoa Kỳ của Reagan. Ông thương lượng theo viễn cảnh này
để ra khỏi chiến tranh lạnh với Reagan ở phía Tây và chấp nhận những yêu
cầu chính của Đặng để bình thường hóa quan hệ Trung-Xô ở phía đông Á Âu
: giảm quân đội Liên Xô ở biên giới Trung-Xô; rút quân đội Liên Xô khỏi
Afghanistan; và kết thúc sự chiếm đóng của Việt Nam dưới sự bảo trợ của
Liên Xô ở Campuchia. Trong 1988-1989, mối quan hệ Trung-Xô phát triển
nhanh chóng, trong khi quân đội Xô viết rút khỏi Afghanistan, quân Việt
Nam rời Campuchia, và Mát-xcơ-va cam kết giảm hiện diện hải quân ở vịnh
Cam Ranh. Quan hệ giữa Liên Xô với Việt Nam bị ảnh hưởng ngay tức thì.
Khi chế độ cộng sản ở Đông Âu sụp đổ kể từ 1989, kéo theo sự tan rã của
Liên Xô hai năm sau đó, cộng sản Việt Nam rơi vào tình trạng hầu như
hoàn toàn bị cô lập trên trường quốc tế. Theo chỉ đạo của Liên Xô, Hà
Nội chấp nhận thương lượng một hiệp định chính trị để ngừng chiến ở
Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Tháng mười 1991, với
chiến tranh lạnh từ nay bị nhốt chặt ở Châu Âu và ở Châu Á, các tác nhân
chính của chiến tranh Đông Dương lần ba chấp nhận ủng hộ một hội nghị
hòa bình, tổ chức bởi Liên hiệp quốc ở Paris. Hội nghị chính thức kết
thúc xung đột này. Năm 1998, Pol Pot chết và Khơ-me đỏ tan rã. Cuối cùng
chính Mikhaïl Gorbatchev mà Châu Á đã nợ sự trở lại của nền hòa bình
biệt tích từ lâu.
Việt Nam : nơi mà các đế quốc thế giới bám lấy…
Nếu vấn đề kiểm soát Á Âu nằm ở trọng tâm của chiến tranh Đông Dương lần
ba, vấn đề kiểm soát biển Đông cũng đồng thời được đặt ra. Hai khía cạnh
liên quan mật thiết với nhau, vì thực sự mọi tác nhân đều chia sẻ vùng
biển này, bao gồm cả Mỹ. Khi Liên Xô thay thế Mỹ ở vịnh Cam Ranh năm
1979, đừng quên rằng như vậy họ có được một lối vào chiến lược trọng yếu
ở biển Đông cho đến eo biển Malacca. Bằng cách liên kết với Trung Quốc
chống lại Liên Xô trong những năm 1978-1979, người Mỹ mất độc quyền hải
quân ở biển Đông mà họ có được từ thất bại của Đế quốc Nhật năm 1945.
Đặng Tiểu Bình đồng thời hiểu nước của ông phải nhanh chóng trang bị một
hải quân hiện đại biết chừng nào, có thể đảm bảo an ninh và lợi ích của
nước mình ở phía đông và điều này là lần đầu tiên kể từ thế kỷ XV (năm
1433, triều đại nhà Minh rút các hạm đội của mình. Chúng đã đi đến tận
bờ biển châu Phi vài năm trước đó). Hậu quả của chiến tranh Đông Dương
lần ba như vậy mở rộng ra ngoài giới hạn của lục địa Á Âu, tới tận biển,
nơi những gã khổng lồ Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ- cả ba đều là những cấu
trúc đế chế khổng lồ. Điều này càng biểu lộ mạnh mẽ hơn trước. Bằng cách
chỉ tập trung vào "Đế quốc Mỹ", những người chính thống của chúng ta
không thấy hai đế quốc khác cực kỳ Á Âu này và không thấy làm thế nào mà
hết nước này đến nước khác bám vào Châu Á hơn trước.
Việt Nam nằm chính ở ngã ba của cạnh tranh hải quân giữa những nước Đế
quốc này, mà nó đã trả giá thời kỳ Napoléon III và các đô đốc của mình
chinh phục Nam Kỳ thế kỷ XIX. Đừng quên rằng hải quân Nga dùng vịnh Cam
Ranh của Việt Nam trước khi bị thất bại nhục nhã trước Nhật ở Tsushima
năm 1905. Vẫn cũng chính từ Cam Ranh mà người Nhật đã tấn công Đông Nam
Á năm 1942, sau trận đánh bom ở Trân Châu cảng. Ngay từ 1950, người Pháp
mở các cảng Việt Nam cho Mỹ để ngăn chặn cộng sản Trung-Xô. Người Mỹ tự
vào Cam Ranh trong chiến tranh Việt Nam. Với độ lùi thời gian, ta có thể
nói rằng Brzezinski đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khi liên kết
thật chặt chẽ với Trung Quốc những năm 1978-1979. Từ đó ông ta đã đẩy
Việt Nam giao chìa khóa Cam Ranh cho Liên Xô, và điều này cho phép họ
phục hồi lại hải quân lần đầu tiên kể từ năm 1905 ở vùng biển Đông Nam
Á. Trong mọi hoàn cảnh dù tốt hay xấu, Việt Nam giữ một vị trí địa chính
trị cốt yếu cho đến tận ngày nay.
Vậy hãy tránh việc lấy Châu Âu làm trung tâm của trường phái chính
thống. Quan điểm này không cho phép chúng ta xem xét đến những kịch bản
khác, những khuôn khổ không-thời gian khác, những lịch sử địa lý khác.
Hãy dám khẳng định chiến tranh Đông Dương lần ba và những chiều kích địa
chính trị lục địa Á Âu mà nó đưa ra ánh sáng, bao gồm cả phần hàng hải,
có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn địa chính trị Châu Á đương thời và vị
trí then chốt mà Việt Nam tiếp tục nắm giữ ở đây. Tuy vấn đề ở Trung
Đông và ở Ukraina nghiêm trọng, chính quyền Obama cố gắng kiên trì kiềm
lại ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc và hải quân của họ đang phát
triển mạnh ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương lần đầu tiên kể từ thế kỷ
XV. Washington thấy rõ sự hiện thời đang lên của sức mạnh hải quân Trung
Quốc, nên ngày nay vun đắp quan hệ tốt đẹp với nhiều nước Châu Á khác
nhau, gồm cả Việt Nam, và dẫn đầu những cuộc tập dượt quân sự cùng với
các nước này. Nhưng chính quyền Mỹ có thể nhắm tới cả hải quân Nga?
Tổng thống Nga Vladimir Poutine đã bắt đầu tái kích hoạt chính sách Châu
Á trong khuôn khổ của những nỗ lực rộng lớn hơn của mình nhằm đẩy lùi
ảnh hưởng Âu-Mỹ ở Đông Âu. Đây là vấn đề về một "liên minh" mới với
Trung Quốc để đạt được điều này. Bằng chứng ư? Dự kiến là Nga và Trung
Quốc sẽ tiến hành tập dượt hải quân cùng nhau ở biển Địa Trung Hải và ở
Thái Bình Dương năm 2015. Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc miêu tả những
tập dượt Trung-Nga vào tháng mười một 2014 : "Giữa tình hình thế giới
cực kỳ dễ bùng nổ, tăng cường quan hệ láng giềng tốt đẹp và đáng tin cậy
giữa hai nước là đặc biệt quan trọng", ông nói thêm "đây không chỉ là
một nhân tố quan trọng cho an ninh của hai nước, nhưng còn là sự đóng
góp vào hòa bình và ổn định ở lục địa Á Âu và bên ngoài [7]".
Nằm giữa đất và biển, vịnh Cam Ranh sở hữu một vị trí rất quan trọng
trong tính toán Á Âu này vì nó nằm ở chỗ giao nhau của ba quốc gia đang
tranh đua là Trung Quốc, Nga và Mỹ. Năm 2012, bộ trưởng quốc phòng Mỹ
Leon Panetta thăm Cam Ranh, trong khi Việt Nam thận trọng cảnh báo Trung
Quốc rằng họ sẽ đẩy lùi những nỗ lực của Trung Quốc nhằm thống trị biển
Đông và các đảo có dầu mỏ mà Việt Nam tuyên bố là của mình. Nhưng
Poutine cũng kín đáo nối lại quan hệ với Việt Nam, không chỉ thăm dò ảnh
hưởng của Mỹ ở phía Đông khu vực Thái Bình Dương, nhưng còn kiềm hãm sự
bành trướng hàng hải của Trung Quốc. Nga giúp Việt Nam phát triển đội
tàu ngầm và có quyền thăm hải quân Việt Nam ở vịnh Cam Ranh [Blank, 2012
; 2014]. Sự hiện diện của Âu-Mỹ ở Trung Âu rõ ràng không phải là thành
tố duy nhất mà sách lược của Nga chú ý tới, điều này nhắc ta một lần nữa
về sự nguy hiểm khi chỉ chăm chăm chú ý tới cách tiếp cận duy Châu Âu về
nhiều kết giao rộng lớn hơn với Á Âu.
Việt Nam đã làm tốt khi nhớ lại những quan hệ Á Âu của chiến tranh Đông
Dương lần ba bằng cách giữ gìn không ký liên minh với bất kỳ siêu cường
nào. Nhưng cộng sản Việt Nam cũng rút ra bài học quan trọng khác của
chiến tranh Đông Dương lần ba : cần thiết phải duy trì mối quan hệ thân
thiết, hữu nghị và an ninh với Lào và Campuchia. Điều này nghĩa là ngăn
tinh thần chống Việt Nam phát triển ở Viên Chăn và nhất là ngăn sự buông
lỏng, thậm chí sự tiến triển theo hướng không dự kiến được ở Phnôm Pênh.
Có tính cách phát hiện, ngày nay Hà Nội nỗ lực cẩn thận tránh ký kết
liên minh với bất kỳ đại cường nào, hoặc tránh chơi với nước này chống
nước kia; vả lại cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên trì củng cố quan hệ
"hữu nghị" và "đặc biệt" không chỉ với nhà nước Lào mà họ đã góp phần
dựng lên năm 1950, mà cả với nhà nước Campuchia do Hun Sen lãnh đạo mà
họ đã xây dựng lại từ tro tàn của nhà nước Khơ-me đỏ. Tuy Việt Nam đã
rút khỏi Campuchia năm 1988, dù thế họ không ngừng tiếp tục duy trì
chính sách liên kết Đông Dương cũ, không phải là không thành công. Đây
là động thái rất tế nhị, vì nếu mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia
xấu đi (và điều gì cũng có thể xảy ra ở khu vực này của thế giới), khi
đó khả năng một cuộc đối đầu lớn có thể trở thành sự thực.
Chú thích [trong nguyên văn không có chú thích (1)!]
[2] Cuộc tranh luận địa chính trị của những người Bắc Mỹ về tính chính
đáng của chiến tranh Việt Nam đặt đối lập một bên là những người lên án
việc can thiệp của Mỹ, được xem là phiên bản "chính thống" từ năm 1960,
và một bên là những người bào chữa cho sự can thiệp này, tức những người
"theo chủ nghĩa xét lại". Những người này kiên quyết bảo vệ quan điểm,
nhất là trong những năm 1980 đánh dấu bởi thời tổng thống cộng hòa
Ronald Reagan. Xem thêm chi tiết John Dumbrell,
Rethinking the Vietnam War
<http://www.palgrave-journals.com >
[3] Về lịch sử toàn cầu/thế giới, xem số đặc biệt, "Peut-on écrire
l'histoire du monde?", Le Débat,
n° 154(mars-avril 2019)
[4] Trích từ Ilya Gaiduk, 2003, p. 201.
[5] người gốc Ba Lan, Brzezinski vẫn còn là nhân vật trung thành theo
nhà địa lý Anh Halford MacKinder và những ý tưởng của ông cho rằng lục
địa Á Âu là một "đảo người" của địa chính trị thế giới.
[6] Trong khoảng từ tháng tư 1975 đến tháng mười hai 1978, khoảng 2
triệu người Campuchia bị chết dưới thời Khơ-me đỏ.
[7] Trích trong TASS, 18/11/2014, bài trên mạng :
http://tass.ru/en/russia/760322, xem ngày 9 tháng hai 2015.
Nguồn :
https://www.cairn.info/revue-herodote-2015-2-page-23.htm
|