Ngoại
giao VN: Làm
thế nào để
dẫn dắt?
Đinh Hoàng Thắng
14-3-2021
Sau kỷ niệm Chiến tranh Biên
giới (17/2) và
dịp tưởng niệm trận Gạc Ma (14/3), nay
chính phủ nhiệm kỳ mới ở Việt
Nam sẽ
đi về hướng nào trong an ninh vùng?
Chính phủ Việt Nam nói đã và đang sẵn sàng đóng vai trò dẫn dắt,
vai trò tiên phong, đóng góp vào công việc của khu
vực và thế giới. Nhưng trước khi bàn khía
cạnh quốc tế, chúng ta nên ưu tiên dẫn dắt chính bản thân mình.
Để dẫn dắt, rất cần tư duy đột phá. Trước
hết là đột phá trong các vấn đề sát sườn đối với an ninh và phát
triển của đất nước.
Luật Ba Đặc khu
Một
góc nhìn nổi trội
về an ninh hiện nay là Luật Ba Đặc khu. Các chuyên gia hàng đầu trong
nước đang “dẫn dắt” thúc đẩy để chính
quyền thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng về ba đặc khu. Ông Nguyễn
Xuân Phúc hứa sẽ đối thoại, lắng nghe và tiếp thu ý kiến của quần chúng,
của các nhà cách mạng lão thành, của các tầng lớp tri thức trong nước và
ngoài nước về Luật Ba Đặc khu.
Nhiều ý kiến cho rằng, vì tầm mức hệ trọng của Vân Đồn, Vân Phong, Phú
Quốc, sau khi thực hiện việc lấy ý kiến tham vấn cán bộ lão thành và các
giới khác nếu có, dự luật vẫn phải đưa ra trưng cầu dân ý.
Nhưng liệu “tân” chính phủ
và đặc biệt là “tân” Thủ tướng tới đây có nghĩ như thế không là
điều chúng ta chưa biết
được. Trong trường hợp này, Ngoại giao khó dẫn dắt lắm, thậm chí
có khi còn “bị dẫn
dắt” nữa là khác. Sườn
phía Tây, phía Bắc
và Đông Bắc của
VN đã bị bịt lối ra. Nếu Luật Ba Đặc khu được thông qua, những
hướng còn lại cũng bị chặn nốt. Việt Nam sẽ
rơi vào một tình huống hết
sức chông chênh về an ninh. Nếu
xảy ra một cuộc chiến tranh như cách đây 42 năm, không biết dàn lãnh đạo
mới Việt Nam sẽ xử lý tình
huống này như thế nào? Một vấn đề nữa,
đó là cần dẫn dắt để hoá giải những cảm giác bất an được ghi
nhận trong dư luận người dân. Ngoại
giao phải trả lời được câu hỏi: Với đà căng thẳng Trung – Mỹ đang
leo thang trên nhiều địa
hạt, đặc biệt là ở Biển Đông như hiện nay thì liệu
Trung Quốc có đánh Việt Nam hay không? Nếu đánh thì đánh từ biển
vào (Trường Sa trước?) hay tấn công ngay trên đất liền
trước? Càng bất an hơn, sau Đại
hội 13, Bộ trưởng Công an Trung Quốc là quan chức cao cấp nước ngoài đầu
tiên và duy nhất đến VN, nói là để chúc mừng thành công của Đại hội.
Chúc mừng nhưng khi gặp Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng VN,
ông ấy lại tuyên bố, chuyến thăm nhằm quán triệt nhận thức này, quán
triệt nhận thức kia…
Đối nội và đối ngoại là một
Muốn
ngoại giao VN đóng góp hiệu quả vào việc
giải quyết những vấn đề chung
thì nội lực bên trong phải mạnh. Có mạnh trong nước thì đối ngoại mới
hiệu quả, mới có hy vọng dẫn dắt trong khối. VN phải “hoà nhi bất đồng”
chứ không thể “đồng nhi bất hoà”.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dường như cảm nhận được điều này nên chính
ông từng kêu gọi đã đến lúc phải cải cách thể chế để tạo đột phát trong
phát triển.
Có
chuyên gia hy vọng, Thủ tướng kế nhiệm sẽ tiếp tục sự nghiệp của chính
phủ trước đây. Đó là cải cách thể chế, chuyển sang kinh tế số hóa và
phát huy vai trò của kinh tế tư nhân, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước.
Công cuộc cải cách này –
chuyên gia gọi là “Đổi mới-2” – Ngoại giao có thể góp phần dẫn dắt.
Ngoại giao hãy trở thành chất xúc tác để “hoà đồng bộ” một số định chế
trong nước còn vênh với các định chế khu vực và toàn cầu mà VN đã cam
kết từ trước đến nay. Các hiệp định song phương và đa phương ký kết
trong thập niên hội nhập sâu rộng và toàn diện là những tiền để thuận
lợi để ngoại giao góp phần dẫn dắt nội trị.
Đối ngoại và đối nội tới đây phải là hai mặt của một đồng tiền, trở thành tổng thể chính sách được tích hợp từ các động lực trong nước và quốc tế. Ngoại giao là kênh thích hợp để Việt Nam có thể truyền tải một số giá trị tiến bộ và phổ quát. Việ Nam cần có thái độ rõ ràng, minh bạch thông qua một số động thái ngoại giao khả tín. Sau phiên tòa phúc thẩm vụ Đồng Tâm, báo Tuổi trẻ Online buộc phải gỡ bài về Ngoại trưởng Singapore khi ông phát biểu: “Cầm súng bắn người dân nước mình là đỉnh cao nỗi ô nhục quốc gia”. Ông Ngoại trưởng này đồng thời kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar tìm các giải pháp hoà bình để giải quyết bất ổn. Ta không thể coi đảo chính quân sự ở Myanmar vừa qua chỉ là “cuộc bạo động”, mà phải gọi sự vật đúng tên. Phải tích cực trong việc đưa ra các sáng kiến để thúc đẩy quá trình dân chủ hoá ở Myanmar, lên án chế độ quân phiệt. Khi họp với các ngoại trưởng ASEAN, chúng ta cũng chưa chủ động có đề xuất gì cụ thể là điều đáng tiếc. Nếu Việt Nam là một trong các thành viên của “ASEAN Trojka” như các nước Indonesia, Malaysia và Singapore đề xuất, chúng ta có thể làm gia tăng quyền lực trung gian giữa Việt Nam với Myanmar, qua đó giữa ASEAN với khu vực và thế giới. Làm như thế mới là cách dẫn dắt có hiệu quả.
Lướt sóng trên đấu trường
ĐNÁ
Trong đấu trường Đông Nam Á, sự phức hợp trong
quan hệ Trung – Mỹ thực sự là một thách thức đối với hầu hết các thành
viên ASEAN. Việt Nam không phảỉ là ngoại lệ. Bởi vì, vị trí này
luôn luôn là ngã tư chiến lược, là
nơi mà lợi ích của các
đại cường giao nhau và phần
lớn va đập
nhau. Sự cạnh tranh ngày nay
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ chỉ là một giai đoạn khác của một động lực đã
nằm sẵn hàng thế kỷ
trong bản năng sống còn của khu vực.
VN hẳn nhiên cùng
một lúc, vừa phải
phòng ngừa, vừa cân bằng, nhưng
cũng vừa “khoát
nước theo mưa”
(hedge, balance,
and bandwagon).
Điều này nằm
trong “gen chính
trị” của VN
trong lịch sử. CSVN
hẳn nhiên không thể
coi nhẹ các mối quan hệ chính
trị – kinh tế với
Trung Quốc, nhưng đa
số các nhà lãnh đạo
VN cũng không đơn giản chỉ cấu trúc quan hệ giữa
Hà Nội với Bắc Kinh
trên cơ sở duy
ý thức hệ, thương mại hay đầu tư. Chủ
nghĩa dân tộc vẫn là một lực tác động mạnh mẽ
đến bang giao.
Cái khó đối với “tân”
chính phủ là rồi đây, mỗi khi có bế tắc hay căng thẳng trong bang giao,
Bắc Kinh thường viện dẫn đến “đại cục” hay “thoả thuận cấp cao” là những
“tập hợp mờ” mà chỉ rất ít nhà lãnh đạo Hà Nội quán triệt được nội hàm
cụ thể. Hơn nữa, chính sách cân bằng dễ biến dạng thành “đu dây” với
những hậu quả khó lường trước. Với
Hoa Kỳ cũng là một phép thử khó khăn về phương cách Ngoại giao dẫn dắt
giới hoạch định chính sách để kiến tạo nền tảng cho một mối
“quan hệ đối tác chiến lược” giữa hai nước có chung lợi ích và
tầm nhìn. Việt Nam trên
thực tế bị kẹt về mặt địa-chính trị giữa Hoa Kỳ, cường quốc thống
trị và Trung Quốc, cường quốc mới nổi.
Phần
lớn giới quan sát cho rằng VN
có thể tiếp tục duy trì vị thế
“cân bằng động”
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, trong khi một
số ý kiến khác lo ngại rằng,
VN có thể trở thành
nạn nhân của những căng thẳng ngày
càng gia tăng giữa hai cường quốc.
Nhưng nếu
dẫn dắt tốt, Việt Nam có thể tiến gần hơn với Hoa Kỳ bằng cách áp dụng
một “khuôn khổ liên kết mềm với Mỹ”, trong đó
Washington hỗ trợ nhiều hơn cho các nhu cầu về quốc phòng và an
ninh của Hà Nội. Để
đổi lại, Hoa Kỳ có thể giành được
“lòng tin chiến lược”
của Việt Nam bằng cách đáp ứng các mối quan tâm chính của Hà Nội,
tức là không can thiệp vào chính trị trong nước và không có ý định thay
đổi thể chế ở đây.
Đồng thời, Việt Nam, với tư cách là một cường quốc bậc trung, cần đầu tư
nhiều hơn vào việc thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực.
Bài học “dân tộc với thời
đại” Một trong những bãn lĩnh
mới, tâm thế mới,
theo lãnh đạo Bộ Ngoại giao,
là Việt Nam sẽ chủ động tham gia vào
quá trình định hình các
cấu trúc khu vực, xây dựng các khuôn khổ ở tầm khu vực, liên khu
vực và toàn cầu.
Trước đây, chúng ta chưa thể hình dung sẽ xuất hiện một cấu trúc an ninh
mới có quy mô toàn cầu như “không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở”
(FOIP) của “Bộ tứ”,
bao gồm Úc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Chỉ cách đây hai năm, chưa ai
nghĩ ASEAN sẽ có phản ứng tích cực trước khung khổ địa-chính trị đó và
khẳng định được một AOIP
(Quan điểm của ASEAN về FOIP).
FOIP lại vừa
xuất hiện thêm một “Bộ
tứ” thứ hai
ở châu Âu – “Bộ tứ”
xuyên Đại Tây Dương –
bao gồm Mỹ, Pháp, Đức, Anh.
Đối
với các nước ASEAN, trong đó có Việt nam, việc biến “Bố
tứ” thành một tổ
chức an ninh tập thể để đối phó với Trung Quốc sẽ buộc các chính phủ
phải chọn bên. Mà “chọn bên” là một
sứ mệnh đầy thách thức.
Vì vậy, giới quan sát có
phần bất ngờ khi Thiếu tướng Công an Đỗ Lê Chi – Cục trưởng Cục Khoa
học, Chiến lược và Lịch sử Công an, thuộc Tổng cục Tình báo VN – đã phát
biểu công khai trong nước về khả năng hình thành một liên minh quân sự
“NATO ở Đông Nam Á” và vai trò Việt Nam trong liên minh khu vực ấy.
Theo TS. Đỗ Lê Chi, vấn đề
không phải là có nên tham gia hay không, mà vấn đề là, Việt Nam cần chủ
động thúc đẩy việc hình thành một tổ chức an ninh đa phương, ràng buộc
tại khu vực, vì lợi ích của tất cả các bên. Lâu nay ta vẫn luôn chủ
trương chủ động hội nhập, nhưng có khi ta vẫn bị động. Các nước lớn
triển khai chính sách mà mình cứ phải cân đong đo đếm là có tham gia hay
là không. Điều này cho thấy vai trò dẫn dắt của chúng ta chưa phải lúc
nào cũng cao.
Liệu
“tân” chính phủ VN
rồi đây có
thực sự thúc đẩy tầm nhìn FOIP? Và
có xem xét lại triết lý quốc phòng “bốn không một nếu”? Về trụ
cột kinh tế, câu trả lời có thể là “yes”. Diễn đàn Doanh nghiệp Ấn Thái
Dương thường niên
lần thứ 3 (IPBF-3) đã diễn ra tại Hà Nội năm ngoái là minh
chứng rõ ràng. Nhưng về trụ cột an ninh, nhất là trong chiều kích “ngăn
chặn” Trung Quốc, câu trả lời nhiều khả năng sẽ là “not yet”. Trong khi
đó “Bộ tứ” khuyến
khích VN nên sớm
trở thành thành viên “theo sát” của FOIP (shadow member). Điều
đáng nói là, giữa các trụ cột của FOIP, ranh giới không phải lúc
nào cũng rạch ròi. Mùa hè vừa qua, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã tuyên bố
Mỹ đang thúc đẩy xây dựng một “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế”, với sự
tham gia của Việt Nam. Mạng lưới này được hình thành trên nền tảng “Bộ
tứ”, được
Washington xem như điểm nhấn quan trọng trong chính sách thương mại thúc
đẩy phát triển kinh tế toàn cầu thời hậu COVID-19. Ngày
12/3, sau một buổi họp thượng đỉnh trực tuyến với Thủ tướng các nước Ấn
Độ, Nhật Bản và Úc trong khuôn khổ Diễn đàn Đối thoại không chính thức
bốn bên (Bộ tứ), Tổng thống Joe Biden thông báo một sáng kiến chung: Sản
xuất một tỷ liều vac-xin ngừa COVID-19 tại Ấn Độ. Đây cũng là bước đầu
tiên của tân Tổng thống Mỹ trong cuộc phản công ngoại giao chống Trung
Quốc.
“Chúng
tôi mong muốn có một khu vực tự do, rộng mở toàn diện, an toàn, thấm
nhuần các giá trị dân chủ và không ràng buộc”.
Bản thông cáo chung kết thúc cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên của
“Bộ tứ”.
Được
biết, cuộc họp với các lãnh đạo “Bộ tứ” lần này là nhằm tạo tiền đề cho
cuộc họp trực tiếp sau đó cũng trong năm nay.
*
Với tất cả các nan đề vừa
điểm xuyết ở trên, câu hỏi ở đây là liệu chính phủ mới ở Việt Nam
sẽ phải làm gì, để nền Ngoại giao VN thực sự có thể dẫn dắt, có
thể đi đầu trong bối cảnh an ninh khu vực chuyển biến gia tốc, hay
lại bị “cuốn theo chiều gió” rồi để thời cuộc dẫn dắt?
TS.
Đinh Hoàng Thắng hiện là
Giám đốc Truyền thông Viện PLD
–
Viện Nghiên cứu các vấn đề về Chính sách, Pháp luật và Phát triển tại
Hà Nội. Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-3-21 |