SÀI GÒN NHỎ
Đùng một cái, ngày 30 tháng 4…
THIÊN DI
Với lứa chúng tôi, bây giờ đã 60, Hè 1975 luôn gợi nhớ một nỗi buồn
da diết, một mùa hè bi tráng trong cuộc đời mỗi người Sài Gòn. 46 năm kể
từ ngày đó – 30 tháng 4 năm 1975 – nửa thế kỷ vật đổi sao dời, bao lớp
người ra đi, bao lớp người kế tiếp, bao nhiêu điều muốn nói, bao tâm tư
ẩn tàng… Ngày
đó, chúng tôi 15 tuổi học lớp 9 – lứa tuổi hoa xuân đầy nhiệt huyết,
niềm tin và căng tràn sức sống được nuôi dưỡng bởi mộng đẹp sẽ góp sức
xây đời cho một ngày mai Việt nam huy hoàng – thì đùng một cái: thay
đổi, thay đổi hoàn toàn, thay đổi đến tận bây giờ. Thế
hệ chúng tôi – với bao người nay thành đạt nơi trời Âu, Mỹ, Úc; hoặc
nhẫn nhục an phận ở Việt Nam, hoặc bỏ thân nơi muôn trùng sóng vỗ xa
khơi – là thế hệ vàng thuở đó. Từ năm 1970 trở về sau, cùng với nền kinh
tế miền Nam đang đà khởi sắc, nền giáo dục cũng được đổi mới theo hướng
khai phóng và sáng tạo. Học sinh được tăng cường ngoại ngữ Anh, Pháp và
trui rèn theo hướng giáo dục toàn diện. Mọi cấp lớp được khuyến khích
thi đua học sinh giỏi, lớp giỏi, trường giỏi; thầy cô giỏi được các
trường mời về dạy với lương cao, nhiều ưu đãi; học sinh giỏi thi đậu Tú
tài II hạng bình trở lên có nhiều cơ hội du học tại Nhật, Mỹ, Tây Đức…,
và nếu đậu hạng ưu, tối ưu thì có học bổng săn lùng. Một viễn cảnh bừng
sáng thì bỗng dưng – sau ngày định mệnh mùa Hè năm đó – trở thành một
thế hệ tan tác, tan đàn xẻ nghé, trong buổi giao thời bi kịch của lịch
sử.
Trường Lasan Taberd của chúng tôi, cùng với các trường danh tiếng khác,
là nơi cho “ra lò” bao người ưu tú cho xã hội. Trường vừa tổ chức thành
công kỷ niệm 100 năm thành lập vào năm trước thì năm sau biến cố
30-4-1975 ập đến. Giữa tháng 6 năm 1975, Taberd “bị” trở thành “tụ điểm”
tập trung các sĩ quan và công chức chế độ cũ để đi “học tập cải tạo 10
ngày”; nhưng rồi thì tùy theo cấp bậc và khối ngành làm việc mà chỉ được
“trở về nhà” sau ba năm, năm năm, 10 năm, 15 năm, 17 năm, 20 năm hoặc
không bao giờ về vì đã bỏ thân nơi miền sơn lam chướng khí. Sáng
ngày 8 tháng 4, tụi tôi đang học trong lớp ở dãy lầu 4 phía đường Hai bà
Trưng thì nghe hai tiếng nổ rất lớn gây rung rinh cửa sổ lớp học. Học
sinh chui vội xuống dưới bàn, tưởng đâu là pháo kích; 10 phút sau, nghe
tiếng đạn rốc két bắn ì ì rồi yên lặng trở lại. Chiều về, đọc báo mới
biết là Dinh Độc Lập bị bỏ bom. Sau buổi học đó, trường cho toàn thể học
sinh nghỉ hè sớm. Từ ngày đó, trong vòng ba tuần, mọi việc biến chuyển
nhanh, sốc, xoay vần ào ào: tin rút lui, “di tản chiến thuật”, thương
vong…, tất cả được báo về không phải hàng ngày mà là hàng giờ; rồi biểu
tình ì xèo, râm ran tin đảo chánh, tin Mỹ giảm viện trợ rồi sau đó cắt
luôn; ông Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4, ông Hương lên thay đến 28 tháng
4 thì giao lại cho ông Minh; các gia đình giàu có, thế lực thì bán tháo
đồ đạc nhà cửa tài sản để chạy chọt có được vé di tản bằng tàu, bằng máy
bay. Mọi thứ xoay mòng mòng, cho đến cái ngày định mệnh 30 tháng 4… Thật
tình mà nói: ban đầu, tâm trạng chung của người dân Sài Gòn trong buổi
trưa hôm 30 tháng 4 ấy là nhẹ nhõm – không phải vui mừng vì bên này
thắng, bên kia thua; dân Sài Gòn không bao giờ có tâm thế đó – mà
là cảm giác nhẹ nỗi lo khi đất nước hết chiến tranh loạn lạc, bom đạn
không còn gào thét, xóm làng không còn tan hoang, máu không còn đổ,
xương không còn chất chồng… Tuy nhiên, niềm vui “thơ ngây” đó đã nhanh
chóng tắt ngóm! Thất
vọng đầu tiên là – lạ quá – thằng cha Tư Đảng, đạp xe ba bánh đổ nước
mướn, tự dưng khoác súng AK nhảy ra làm trưởng công an; cha Ba Lùn hớt
tóc dạo giờ là trưởng ấp; cha Năm Nông chột mắt bán bong bóng dạo bây
giờ là chủ tịch phường. Sao kỳ vậy! Cấp chỉ huy phải là người có ăn học,
có uy tín chứ; sao lại “tùm lum” như vậy. Nhưng rồi những cái tùm lum
lại trở thành chuyện bình thường, rất nhiều… Sau khi “gom” được “ngụy
quân, ngụy quyền” đi “học tập cải tạo” vào tháng 6 năm 1975; bắt đầu tới
“cải tạo văn hóa, tư tưởng”: các chiến dịch tịch thu văn hóa phẩm, đốt
sách, thiêu hủy bất cứ cái gì thuộc về “văn hóa đồi trụy”. Sách truyện
thiếu nhi như Tuổi Hoa, Tin Tin, Xì Trum… thậm chí cả con tem, cũng
không thoát nạn. Hàng vạn bản nhạc, băng nhạc, sách báo, nhiều tác phẩm
xưa hiếm, tượng đài, điêu khắc…, tất cả đều bị xé, đốt, đập bỏ!
Người dân chòm xóm được khuyến khích theo dõi, rình mò nhau để “báo cáo”
chính quyền. Cái lối quái dị ấy gọi là “an ninh nhân dân”, là nâng cao
tinh thần “cảnh giác cách mạng”. Nghe đài BBC là một tội lỗi. Nhà có
người “vượt biên” thì bị “báo cáo” để “xóa hộ khẩu” hoặc để “niêm phong”
tài sản. Hàng tuần họp tổ dân phố để nghe chỉ thị và phê bình nhau, để
nhận sổ gạo và tem phiếu nhu yếu phẩm. Họ hàng bà con muốn đi lại thăm
nhau ở tỉnh khác phải xin “giấy phép đi đường”. Công an có quyền bất
chợt khám xét nhà nửa đêm nếu có nghi ngờ hoặc bị tố cáo điều gì đó. Rồi
đến các cú “nốc ao” kinh tế: – 11
tháng 9-1975: chiến dịch đánh tư sản X1, thực tế là đánh vào các cư dân
thành thị, tịch thu tài sản, buộc những cư dân này phải đi “kinh tế
mới”. – 22
tháng 9-1975: đổi tiền – 1 đồng mới bằng 500 đồng cũ. –
Tháng 11-1975: không còn hai miền, mọi thứ đều rặp theo chính sách luật
lệ của miền Bắc. Năm
đó, 1978, chúng tôi học lớp 12. Ngày 26 tháng 3, chiến dịch đánh tư sản
khốc liệt nhất mang tên X3 giáng xuống mọi nhà. Quốc Hùng – hiện ở Long
Beach, Los Angeles – là thằng bạn thân ngồi kế tôi ở dãy bàn cuối, vào
lớp mà mắt đỏ hoe: nhà nó – chỉ là một cửa hàng nhỏ ở chợ Trần Chánh
Chiếu – bị “đánh” tư sản, tịch thu sản nghiệp, bị “xúc” đi “kinh tế
mới”. Ông già của Hùng nằm “xụi” ở nhà bà con, do đứt mạch máu não vì
tức giận. Cuối Hè năm đó, Hùng vượt biên; ba Hùng vẫn nằm một chỗ và chỉ
chịu nhắm mắt ra đi ba tháng sau đó, ngay khi nhận được tín vật là sợi
dây chuyền bạc Hùng gởi về, cho biết đã đến đảo ở Mã Lai. Thế
đó, tưởng hết chiến tranh thì xã hội bình yên, nhưng không. Sau chiến
tranh, cuộc sống mọi nơi còn thê lương hơn thời còn đạn bom khốc liệt.
Vào lớp mỗi ngày hổng biết đứa nào còn, đứa nào “dọt”; bo bo, khoai
lang, khoai mì nhiều hơn gạo trong các bữa ăn; thuốc chữa bệnh thì có
“xuyên tâm liên” thay cho trụ sinh, kháng sinh; ngoài đường thì chỉ thấy
đi bộ và xe đạp. Tội nhất là các gia đình có người thân bị “đi học tập
cải tạo” – phải bán dần của cải ít ỏi còn lại để sống qua ngày… Mọi
việc bắt đầu được “bên thắng cuộc” nhìn nhận ra sai lầm vào năm 1986 –
11 năm sau khi “thắng cuộc”. Cuộc sống chuyển biến tích cực dần từ năm
1994, sau khi Mỹ gỡ cấm vận và nhất là khi quan hệ ngoại giao với Mỹ trở
lại bình thường từ tháng 7 năm 1995. Hơn 20 năm cho một cuộc chiến
(1954-1975) với hàng triệu người chết, đất nước hoang tàn; thêm 20 năm
cho dâu bể điêu tàn (1975-1995) cùng hàng chục vạn người bỏ mạng, xã hội
lầm than! Bao nhiêu buồn vui, tủi hờn. Triệu người vui lẫn triệu người
buồn. Những nỗi buồn không nguôi! Đúng là mệnh nước nổi trôi! Ai khóc,
ai cười? Mơ
ước chấm dứt “20 năm nội chiến từng ngày” để cùng nhau “dựng lại người,
dựng lại nhà”; nào có được như Mẹ Việt Nam mong đợi: … Ta
cùng lên đường đi xây lại tình thương
Lòng mẹ ta xưa kia bao la như Thái Bình Dương
Những đứa con là sông mừng hôm nay xóa hết căm hờn
Mượn phù sa đắp trên điêu tàn lòng nhân ái lên nụ hồng…
(Dựng lại nhà, dựng lại người – Trịnh Công Sơn) Hận
thù và hằn học, cao ngạo và đố kỵ “thắng-thua”, u mê và cố chấp… đã ngăn
cách trăm sông con không cùng về hân hoan trong vòng ôm của biển mẹ, non
nửa thế kỷ qua, và cho đến bao giờ? Chợt
nhớ lại kết thúc nội chiến Hoa Kỳ năm 1865, cũng tháng Tư, giữa đội quân
thắng trận miền Bắc do tướng Grant chỉ huy và đội quân thua trận miền
Nam do tướng Lee thủ lĩnh. Một cuộc đầu hàng kiêu hùng và một bên thắng
cuộc quân tử, cao thượng: ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn
không có tù binh, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương. Đẹp tuyệt!
Sự hùng cường của nước Mỹ khởi nguồn từ tinh thần nhân văn và hành xử
nhân bản. Gì
thì gì, cần có mơ ước và phải nuôi dưỡng ước mơ về một ngày mai tươi
sáng trên đất Việt và cho dân Việt. Cái đúng, cái đạo nghĩa, cái cao
đẹp, cái chân lý rồi sẽ lên ngôi, dù rằng muộn! …
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình, muôn người hạnh phúc chan hòa…
(Ly rượu mừng, Phạm Đình Chương)
Tháng 4, 2021 *
Trường Lasan Taberd nay là trường chuyên Trần Đại Nghĩa; cổng chính 53
Nguyễn Du hướng ra Nhà Thờ Đức Bà, cổng sau đường Gia Long (nay là Lý Tự
Trọng), bên hông là đường Hai Bà Trưng. |