Nguyễn Hữu Hanh
Ấn bản lần 4
Năm 2008
Kính gởi Thân Phụ và Thân Mẫu
Câu chuyện về cuộc đời tôi xin đề tặng cho
cha tôi, ông Nguyễn Hữu Lư, và mẹ tôi, bà Thân Thị Quỳnh Trân, những người đã
cam gánh chịu những hy sinh to lớn để cho sáu đứa con của mình được học hành đến
nơi đến chốn hơn.
Cha mẹ chúng tôi đã nuôi dạy chúng tôi theo nền giáo huấn truyền thống của Khổng
giáo. Cha mẹ đã đào tạo tôi nên một con người chính trực. Tất cả những khuyết
nhược của tôi đều do hoàn cảnh xã hội, không dính líu gì đến gia đình tôi. Tôi mang ơn song thân tất cả mọi
chuyện trong đời: những kết quả tốt
trên con đường học vấn trong và ngoài nước, những thành công trên con đường sự
nghiệp ở trong nước và trên thế giới, những chức vụ mà tôi nắm giữ trong chính
quyền và trong giới kinh doanh quốc tế, sự kính trọng mà tôi dành được ở người
khác nhờ lòng trung thực của mình, cũng như sự thù ghét mà tôi đã gây ra bởi sự
cứng rắn tuân thủ những nguyên tắc chính trực mỗi khi dính líu tới quyền lợi của
công chúng.
N.H.H.
Gởi các con tôi
Để các con khỏi vướng vào cuộc chiến tranh khổ đau và huỷ diệt, ba bắt buộc phải gởi các con ra nước ngoài từ khi các con còn rất nhỏ, mới có từ một tới tám tuổi. Để theo đuổi sự nghiệp phục vụ đất nước mà ba coi như là mục tiêu tối thượng của đời mình, ba đã phải sống xa các con. Những năm tháng sống như vậy thì dù ba có thành công trong sự nghiệp đến đâu, cũng không phải là những năm tháng hạnh phúc nhất của đời ba. Ba chỉ muốn được sống với các con, bởi ba thương các con và nhớ các con hết sức; ba luôn luôn tìm cách đi thăm các con bất cứ khi nào có dịp.
Giờ đây chỉ khi về hưu ba mới
thật sự hạnh phúc vì có được điều ba mong ước hơn cả – được sống bên cạnh các
con.
N.H.H.
Lời cảm tạ
Tôi xin được gởi lời cám ơn
tới những bạn bè thân, anh Đoàn Thêm, chị Vũ Gia Kiều Dung, anh Phạm Kim Ngọc,
anh Nguyễn Kiên Định, đã từng khuyến khích tôi xuất bản cuốn sách này từ năm
1984, và cám ơn tất cả những ai quan tâm tới những gì tôi đã làm và kể lại trong
hồi ký này. N.H.H. Santa Barbara, Tháng Năm 2004
MỤC
LỤC
Tại sao tôi không muốn xuất bản sách trong
hai mươi ba năm qua
Quãng đời êm đẹp ở Việt Nam những năm 30 – 40
Buổi giao thời giữa nề nếp truyền thống đang
mất dần và cuộc sống mới
Nền giáo huấn ngàn xưa: Khổng giáo và Phật
đạo
Sợi dây vô hình nhưng hùng mạnh giữa con và cha mẹ
Lần đầu tiên gặp gỡ Tổng thống tương lai của Việt Nam
Buổi va chạm đầu tiên với ách thống trị thực
dân
Những năm tháng chiến tranh: Nhật chiếm đóng
và máy bay Đồng Minh oanh tạc đất nước
Con đường đại học bị gián đoạn vì chiến tranh
và tàn phá
Trận đói khủng khiếp vì chiến tranh
Trường quân sự. Chiến đấu chống quân Pháp tái
xâm lược
Giúp Việt Minh thành lập lực lượng bộ đội địa
phương
Tình bạn với hai người lính Nhật theo kháng
chiến Việt nam
Qua Paris tiếp
tục việc học
Phó giám đốc Sở
Tín dụng Ngân Hàng Trung Ương ba nước Đông Dương
Tổng giám đốc
Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
Cố vấn kinh tế
tài chánh cho Tổng thống Ngô đình Diệm
Thành lập Ngân
Hàng Thương Tín, Ngân Hàng Khuếch Trương, Công ty Bảo hiểm, Công ty Sản xuất
Giấy
Xem dáng mặt:
nhận diện khách có thể không tốt trong vấn đề vay mượn
Thương thuyết
với Bộ trưởng Tài chánh Pháp Antoine Pinay
- Thỏa ước kinh tế tài chánh tiền tệ với nước Pháp – Tình bạn lâu dài với ông
Antoine Pinay
Phản kháng Ngô
Đình Nhu, người em quyền uy của Tổng thống Diệm
Thành lập ngân
hàng khuyếch trương kỹ nghệ SOFIDIV
Đời sống nông
trại: Những mẫu chuyện kỳ thú về săn thú rừng.
Đám tang phụ
thân theo lễ nghi truyền thống
Chánh sự vụ Ngân
Hàng Thế Giới: sự nghiệp quốc tế đầy hứa hẹn
Về nước theo lời
mời của chính phủ: Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia
Làm việc với
Tổng thống Lyndon Johnson và các Đại sứ Mỹ
Làm việc với các
Thủ tướng, Bộ trưởng và Thống đốc
Ngân hàng các nước châu Á và châu Âu
Tổng uỷ viên
Kinh tế Tài chánh, phụ trách bốn Bộ: Tài chánh, Kinh tế, Thương mại và Kỹ nghệ
Gánh vác trách
nhiệm hạ giá đồng tiền quốc gia: thành công vang dội
Ván bài xì phé
với đám thương gia buôn gạo Trung Hoa
Ngăn chận đám
thương gia tham lam Đại Hàn mưu toan xâm nhập
Đòi hỏi chính
phủ Đại Hàn đáp ứng tương xứng
Chống tham nhũng
và buôn lậu
VII. Sự nghiệp quốc tế lần hai
Quản trị viên
phụ khuyết Hội đồng Quản trị Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Bất đồng ý kiến
với cách làm việc của các tổ chức quốc tế
Vụ kiện Ernest
Lederer về tội vu khống và nhục mạ
VIII. Sự nghiệp quốc tế lần ba
Cố vấn ngành
chương trình hổ trợ kỹ thuật của IMF
Về hưu sớm
IX. Chính sách ngoại giao của Mỹ
Những đường lối
tiếp cận ngoại giao sai lầm
Chính sách ngoại
giao của Mỹ trên thế giới: “đâu phải chính sách tốt đẹp nhất"
Đôi dòng tâm sự
LỜI NÓI ĐẦU
Có
nhiều người bạn biết tôi đã sống một cuộc sống đặc biệt và một sự nghiệp cũng
đặc biệt thú vị, đã gợi ý tôi kể lại chuyện đời mình. Tôi
luôn luôn từ chối vì tôi không muốn có thêm một cuốn sách nữa vào trong đống
sách của đám người thuộc chính quyền Saigòn cũ. Tôi đâu cần đến một cuốn sách để
tự biện bạch như họ, và tôi cũng không muốn viết ra những sự thật nửa vời hay
những sự thật bóp méo để biện minh cho hành vi quá khứ hay cho thái độ hiện tại.
Nhưng năm đứa con tôi, vốn sống xa cách tôi đã lâu, lại tha thiết muốn biết sự
nghiệp cũng như mối quan hệ của tôi với những nhân vật danh tiếng trên thế giới
như thế nào. Vì vậy mà bản thảo đầu tiên, tôi chỉ viết riêng cho gia đình tôi và
đặc biệt là cho năm đứa con tôi: tôi muốn mình hoàn toàn chân thật, không một
lời nói dối. Tôi muốn được hoàn toàn tự do khi kể lại các sự kiện đúng như tôi
đã chứng kiến, tôi muốn đánh giá các nhân vật đúng như tôi đã nhận định, và mô
tả các hoàn cảnh xã hội và chính trị đúng như tôi đã quan sát.
Trong hơn hai mươi ba năm qua, tôi không có ý định xuất bản cuốn sách của mình,
tôi vẫn cứ bị giằng co giữa những tư tưởng đối nghịch và những suy nghĩ trái
ngược nhau: tôi muốn kể lại một mảng lịch sử Việt Nam bởi vì tôi biết rất nhiều
điều bí mật, nhưng mảng lịch sử này lại mang đến cho tôi quá nhiều chuyện buồn
và quá ít chuyện vui. Tôi đã chứng kiến quá nhiều những con người thiếu tư cách,
và quá ít những con người thật sự đáng kính trọng. Ngay cả khi tôi viết sắp xong
bản thảo thứ hai này, tôi cũng chưa rõ mình có còn muốn xuất bản nó hay không.
Cần phải nói rằng nếu như tôi đã được sống một cuộc đời thú vị, thì đó hoàn toàn
là do may mắn và những cơ hội ngẫu nhiên. Tôi sinh ra vào đúng thời điểm khoảng
đâu hai mươi năm trước khi đất nước được độc lập; tôi lớn lên trong những ngày
tháng cuối cùng của một nếp sống đang mất dần và những giá trị truyền thống đang
tàn lụi. Tôi
vào Đại học khi những trường học ưu tú nhất ở nước Pháp lần đầu tiên được phép
mở cửa đón sinh viên thuộc địa. Và khi bước chân vào đời lần đầu tiên, tôi đã
may mắn được làm việc dưới quyền một viên Thanh tra tài chánh người Pháp sáng
chói, trẻ trung và tài năng, có khuynh hướng xã hội, đầu óc phóng khoáng và rất
có cảm tình với đất nước Việt Nam. Khi
miền Nam Việt Nam bắt đầu có phần nào độc lập và lãnh tụ phe Quốc gia Ngô Đình
Diệm về nước, tôi đã được một số người vô tư không phe nhóm – cả Pháp lẫn Việt –
giới thiệu với ông Diệm như là một chuyên viên giỏi nhất và trẻ tuổi nhất, và
ông đã yêu cầu tôi làm cố vấn kinh tế tài chánh cho ông, khi ông trở thành Tổng
thống của Việt Nam Cộng Hòa. Sau
khi giành được độc lập, Nam Việt Nam là một quốc gia mới được hình thành, cần
phải thiết lập những cơ chế mới, những tổ chức mới. Tôi được giao phó những chức
vụ chuyên môn quan trọng để hỗ trợ cho các chính trị gia mới được bổ nhiệm vào
các tổ chức được cải tạo lại từ thời thuộc địa cũ và thành lập các cơ chế tài
chánh ngân hàng mới. Ngoài những công việc thường lệ, tôi phải xử lý những vấn
đề kinh tế tài chánh quan trọng nhất, và do đó cũng là những vấn đề hấp dẫn
nhất. Vì những Bộ liên quan (như Tài chánh, Kinh tế, Ngoại giao…) hầu hết đều do
những chính trị gia không có kiến thức chuyên môn cầm đầu, nên tôi cũng được
giao trách nhiệm điều khiển những cuộc thương thuyết đầu tiên về các vấn đề tài
chánh tiền tệ với các nước đồng minh mới và cũ của Việt nam như Mỹ, Nhật,
Pháp...
Và như vậy, tôi có được biết bao nhiêu là cơ hội tham dự vào
những công việc quan trọng nhất của một quốc gia mới hình thành, học hỏi và thu
thập được những kinh nghiệm quí giá trong các lãnh vực tiền tệ, kinh tế và tài
chánh. Tôi sẵn sàng gánh vác thêm trọng trách, nhận thêm nhiệm vụ và tìm kiếm
mọi cơ hội nhằm phục vụ đất nước để học hỏi thêm. Ở
nước ngoài, tôi có may mắn gặp và quen biết nhiều nhà lãnh đạo lớn trên thế
giới, những người có cảm tình với đất nước Việt Nam hoặc có dính líu tới tương
lai và sự sống còn của Việt Nam. Một vài người, như Thủ tướng Pháp Antoine
Pinay, đã trở thành bạn bè cố cựu của tôi và vẫn còn tiếp tục giúp tôi sau khi
tôi từ giã chính trường. Khi
Việt Nam gia nhập các định chế quốc tế thì tôi đang có một tư thế thuận lợi. Vì
đã từng ở trong các cơ quan tài chánh quan trọng nhất của quốc gia và do đó có
được những kinh nghiệm chuyên môn và kỹ thuật cần thiết, năm 1965 tôi được mời
giữ một chức vụ cao trong Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) – người Việt Nam đầu
tiên và duy nhất giữ chức Chánh sự vụ trong World Bank ngay bước đầu tiên. Nói
tóm lại, tôi đã gặp rất nhiều may mắn trong suốt cuộc đời sự nghiệp. Thế
nhưng tôi cũng trải qua biết bao thăng trầm do việc tuân thủ một cách cứng rắn
những nguyên tắc đạo đức, chẳng hạn như sự trung thực và liêm chính, mỗi khi
dính líu tới quyền lợi của đất nước. Tôi đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong
niềm tin rằng xã hội loài người chỉ tốt đẹp lên khi một số người trong chúng ta
coi lợi ích của cộng đồng hay của đất nước chẳng khác gì quyền lợi của chính
mình.
Nhưng bất hạnh thay trong suốt cả sự nghiệp lâu dài ấy, tôi nhận thấy rất ít
người thật sự lưu tâm tới quyền lợi chung. Hầu hết thời gian người ta không dành
cho quốc gia hay dân tộc, mà dành cho gia đình họ, quyền lợi riêng của họ, cái
ta của họ, và trên hết là túi tiền của họ. Tình trạng này không chỉ xảy ra trên
đất nước tôi mà, lạ lùng thay, nó cũng có ở những cơ quan quốc tế có uy tín
nhất, những nơi được coi là quy tụ những con người ưu tú nhất; thế nhưng bất
hạnh thay cũng là nơi mà tánh tham lam ích kỷ chi phối mạnh nhất, và các phẩm
chất chính trực và năng lực chuyên môn thường bị gạt ra rìa bởi những toan tính
chính trị và âm mưu tranh giành quyền lực; và cũng là nơi mà quyền lợi của các
cường quốc thường xuyên lấn áp quyền lợi của các nước thuộc thế giới thứ ba,
ngược lại những lời họ rêu rao là cổ súy và bảo vệ cho quyền lợi của các nước
nhược tiểu. Sau
khi đã rời khỏi mọi chức vụ, giờ đây nhìn lại tôi bắt đầu nghi ngờ rằng sự tận
tụy với lý tưởng phục vụ nhân dân, cũng như tư cách đạo đức và lòng trung thực,
vốn là động cơ thúc đẩy tôi dám đứng thẳng, miệt mài làm việc trong bao năm
ròng, phải chăng là sai lầm, không đúng chỗ và không đúng lúc. Trở
về Việt Nam làm việc dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm vào những năm 50, tôi đã
đem hết sức ra phục vụ nhân dân, đôi khi quên cả bản thân mình. Thế nhưng sự tận
tâm ấy không được lòng ai, ngoài T.T. Diệm và vài ba người nữa. Ngay cả gia đình
T.T. Diệm và đám người thân cận của ông cũng khó chịu với thái độ cứng rắn của
tôi khi xử lý những vấn đề công ích. Trong khi có biết bao nhiêu người sẵn sàng
đổ xô tới phục vụ để lấy lòng họ, thì tôi lại từ chối giúp họ trong những vụ làm
ăn riêng tư. Và tôi đã bắt đầu tạo cho mình những kẻ thù dấu mặt. Và
khi tôi hy sinh sự nghiệp tốt đẹp ở Ngân Hàng Thế Giới, từ bỏ một chỗ làm ngon
lành với lương bổng hậu, để theo lời mời của chính phủ Sài Gòn, trở về Việt Nam
nhận lấy một lô công việc và trách nhiệm nặng nề, đeo đuổi lý tưởng về một cuộc
trường chinh gian khổ góp phần cứu lấy đất nước, bằng cách đảm nhiệm phần lớn
việc lãnh đạo kinh tế và tài chánh nhằm quét sạch nạn tham nhũng và hối lộ trong
chính quyền Sài gòn, thì đó có lẽ cũng là một sai lầm lớn. Sau một loạt các cuộc
đảo chính và phản đảo chính, chính quyền càng ngày càng thối nát, xã hội Sài gòn
và các thành phố lớn càng ngày càng sa đọa; những viên tướng đầy quyền uy, những
vị Tư lệnh vùng, những viên Tỉnh trưởng, và đặc biệt là những bà vợ của họ, bỏ
mặc quyền lợi quốc gia mà chỉ cố tìm cách vơ vét cho đầy túi. Điều này làm cho
quân đội thất vọng và chán nản, làm cho quần chúng căm ghét và khinh bỉ; nó tiêu
huỷ mọi ý chí chiến đấu còn sót lại trong binh lính và nhân dân. Miền Nam tựa
như một trái cây chín rữa chỉ chờ ngày rụng dưới giông bão. Điều
mỉa mai cay đắng là để đền đáp lại những nỗ lực chống tham nhũng của mình, chính
tôi lại bị những kẻ dính líu, và bị tôi trừng phạt, buộc tội hối lộ và tham
nhũng! Khi tôi ngăn chận vụ nhập lậu “xe hơi Fatima”, tôi đã tạo ra cho mình một
lô kẻ thù, và đám này đã buộc tội tôi là bảo vệ quyền lợi cho con buôn xe hơi.
Khi tôi từ chối không cấp tiền hưu bổng và quyền mua nhà cho một người vốn là
cựu nhân viên Ngân Hàng Quốc Gia và là một tân Nghị sĩ Quốc hội, vì những thứ
này chỉ dành cho nhân viên Ngân Hàng Quốc Gia, mà ông ta thì đã từ chức rồi,
nhân vật này đã lập tức lợi dụng vị thế mới của mình, lên diễn đàn Quốc hội gay
gắt chỉ trích tôi bằng đủ mọi lời dối trá. Khi tôi đóng cửa một Văn phòng Ngân
Hàng Quốc Gia ở Paris vì bất hợp lệ, không đúng với nghiệp vụ của Ngân Hàng
Trung Ương một xứ nghèo nàn và tốn kém vô ích, chưa kể có thể có những mục đích
bất chính ở sau lưng, thì con người đã mở Văn phòng ấy, vốn không hề có một kinh
nghiệm hay hiểu biết về ngành ngân hàng, đã lên án tôi đủ thứ tội trên đời.
Những loại vu khống như vậy không phải là chuyện hiếm trong những năm tôi làm
việc dưới chế độ Sài Gòn. Tôi
làm gì được đây? Chúng ta đang sống trong một xứ sở “tự do” (!) và ai muốn làm
gì nói gì cũng được, dù trái với lương tâm. Điều hay nhất tôi có thể làm là bỏ
ra ngoài tai mấy chuyện đó, hy vọng rằng ở ngoài cuộc đời lớn rộng, có những
người tôn trọng lẽ phải, sáng suốt, sẽ nhận ra ai phải ai trái, ai đáng khen và
ai đáng trách. Năm
1968, lòng đầy ngao ngán, tôi xin rút lui khỏi mọi chức vụ trong chính phủ và
Ngân Hàng Quốc Gia. Điều thúc đẩy tôi quyết định rời bỏ đất nước và quay trở về
Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) nhiều hơn cả là sự thiếu năng lực và tình trạng
tham nhũng tràn lan của chính phủ và quân đội Sài Gòn, sự suy đồi của xã hội tại
các thành phố lớn. Đối với tôi, số phận đất nước này đã được an bài: ngoại trừ
một phép lạ, Nam Việt Nam không còn cơ cứu vãn.
Những năm tiếp theo đó ở nước Mỹ, tôi lại càng thêm ngao ngán và tuyệt vọng.
Ngoài một số thành tích sáng chói của sinh viên Việt Nam và một vài thành công
đáng kể của các chuyên gia Việt Nam trẻ tuổi, thì cộng đồng người Việt di tản đã
gây nên tai tiếng xấu xa trong cái xã hội đã dung dưỡng họ: bên cạnh những người
đang cố gắng làm lụng để nuôi nấng con cái, một số người di tản lại đem qua đây
những thói xấu cũ, lừa đảo và chôm chỉa bất cứ khi nào có dịp. Không phải chỉ có
những người nghèo khổ phải sống bằng tiền trợ cấp, mà cả những tầng lớp trên
(bác sĩ, dược sĩ, những người môi giới cổ phần, mua bán bất động sản v.v…). Một
ngày nọ tại Westminster, bang California, người ta trông thấy tám mươi vị bác sĩ
và dược sĩ Việt Nam bị còng tay dẫn đi sau một toán cảnh sát Mỹ. Xấu hổ thay cho
cộng đồng người Việt chúng ta ở đây, và xấu hổ lây cho cả quê hương đất nước
chúng ta bên kia nữa! Có
đôi khi tôi cảm thấy tuyệt vọng với cộng đồng người Việt trên đất Mỹ, những
người tự xưng là đại diện cho đất nước tôi và cho dân tộc tôi bên quê nhà. Đâu
rồi bốn ngàn năm văn hiến mà họ rêu rao là cội nguồn của họ? Đâu rồi đức hạnh và
phẩm chất cao quí của cha ông và của những lớp người đi trước mà họ cho rằng
mình thừa hưởng? Phải chăng xã hội chúng ta đã suy đồi đến nỗi tư cách đạo đức
và lòng trung thực ngày nay quá hiếm hoi, và những con người đáng kính quá ít? Năm
1991, khi tôi về thăm lại Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh, tôi đau lòng
trông thấy nhân dân sống trong những điều kiện nghèo nàn và khốn khổ. Tôi muốn
giúp đỡ đồng bào tôi, dù có những trở ngại chính trị và những hy sinh tài chánh
về phía tôi. Tôi đã về thăm quê hương bốn lần, theo lời mời của Thủ tướng chính
phủ Việt Nam lúc ấy, bằng tiền túi của mình, nhằm cố gắng góp phần cải cách và
xây dựng lại đất nước. Nhưng những điều kiện của đất nước lúc đó chưa thích hợp
cho những nỗ lực như vậy, và năm 1994 tôi đành phải chấm dứt mọi kế hoạch. Sau
khi thấy không giúp được xứ sở trong bốn chuyến về nước, tôi hy vọng dùng cuốn
sách của tôi, để trao kinh nghiệm nghề nghiệp, chuyên môn, cho dân, cho
nước nhưng tiếc thay, bức thành kiểm duyệt qúa cao nên chuyện
này cũng không thành.
Khi người
ta không hiểu đâu là điều lợi, đâu là điều hại cho đất nước, thì bất cứ điều gì
mới lạ cũng là quốc cấm cả! Tôi
phải thành thực thú nhận rằng nếu hôm nay tôi phải làm lại những gì tôi đã làm
trong các năm 50 và 60 của thế kỷ qua, tôi không dám chắc mình còn đủ can đảm để
duy trì sự thẳng thắn, lòng trung thực và tận tụy như xưa, khi đối diện với ngần
ấy sự vô tâm, thói ích kỷ và tệ tham nhũng. Quả là buồn khi phải đi đến một kết
luận như vậy. Tôi
cố tự thuyết phục mình rằng ở sâu trong lòng người dân Việt vẫn còn những đức
tính và giá trị truyền thống, được lưu truyền qua hàng ngàn năm văn hoá, thử
thách và chiến đấu – một điều mà tôi đã được thấy, nhất là ở thôn quê xa đô thị.
Đó
là điều duy nhất còn cho tôi niềm tin vào đồng bào và quê hương đất nước.
N.H.H
Santa Barbara, Tháng Năm
2004
I. THỜI THƠ ẤU
Tôi
sinh ngày 10 tháng 11 năm 1923 tại cố đô Huế trong ngôi nhà của bên ngoại tôi,
vì mẹ tôi muốn sinh đứa con đầu lòng tại quê bà hơn là tại ngôi nhà đầu tiên của
chúng tôi ở Quảng Trị, cách Huế quê hương bà chừng 60 cây số. Cha
tôi vốn rất gắn bó với làng quê của ông, nơi ông nội tôi đang sống; trong bất cứ
chuyện gì cha tôi cũng nghiêng về phía gia đình và làng xã ông. Ông cư trú và
dạy học ở Quảng Trị, cách làng Đại Hoà chúng tôi khoảng 12 cây số. Quan điểm của
ông là việc làng lo trước, việc nước lo sau. Mỗi tháng ông đi bộ ít nhất một lần
về thăm cha mẹ. Sau này ông đi bằng xe đạp, khi ông dành dụm đủ tiền sắm một
chiêc xe đạp mua từ bên Pháp, một chiếc hiệu Saint Étienne mà ông cưng quí suốt
đời. Thời đó, xe đạp và xe kéo là hai loại phương tiện di chuyển cá nhân duy
nhất ở Việt Nam. Xe hơi riêng hiếm đến nỗi có thể đếm trên đầu ngón tay. Thay
vì làm khai sinh cho tôi đúng ngày sinh ở Huế, cha tôi đã chờ cho tới dịp về
thăm làng mới đăng ký trước bạ cho tôi ở làng ông. Vì vậy mà ngày và nơi sinh
chính thức của tôi là 15 tháng Ba năm 1924 tại làng Đại Hoà, tổng An Dạ, phủ
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, thay vì mồng Mười tháng Mười Một năm 1923 tại thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên. Sau
này mẹ tôi kể lại rằng khi tôi chào đời, cha tôi đã vào Huế thăm bà và khi cô y
tá bế đứa bé là tôi cho ông xem, ông đã lóng ngóng ôm đứa nhỏ vào trong hai cánh
tay dài ngoằng của ông và hôn con, nuớc mắt chảy dài xuống hai gò má. Đoạn ông
quay lại nói với mẹ tôi “Tôi muốn cho con được học hành tử tế hơn tôi, nhưng tôi
chỉ là một tên thầy giáo nghèo xác, làm sao lo nổi cho con vào học đại học Hà
nội hay đại học Pháp!” Ông đã từng được nhận vào trường đại học Hà nội, nhưng
không được học, vì ông nội tôi không chịu chu cấp cho ông học thêm nữa. Thế
nhưng ông nội tôi, vốn là một vị quan trong triều về hưu, lại rất giàu; chỉ có
điều ông tập trung mọi sự hào phóng vào ba người con trai con đời vợ trước, còn
cha tôi là con của bà vợ kế. Và về sau, ông nội tôi cũng để lại toàn bộ gia sản
cho ba người con vợ lớn của ông thôi. Tuổi
thơ tôi dính mắc với đủ thứ bịnh: quai bị, sởi, hen suyễn, vàng da v.v... Cha
tôi hết sức thương tôi vì tôi là đứa con đầu lòng và là con trai trưởng. Truyền
thống gia đình Việt Nam đặc biệt coi trọng con trai trưởng, bởi người trưởng nam
sẽ là người gánh vác công chuyện gia đình và lo toan việc thờ cúng tổ tiên; anh
ta được giáo huấn đầy đủ các tiêu chuẩn về đạo đức và cách xử thế ở đời để tới
phiên anh, anh sẽ dạy lại cho mấy đứa em, cha mẹ anh sẽ không cần phải lo nữa,
họ trông cậy anh đảm trách việc đó. Cha tôi đã dạy dỗ tôi rất nghiêm khắc trên
nền đạo đức và triết lý của Khổng giáo và Phật giáo. Ông không dạy mấy em tôi
như vậy; ông giao việc đó cho mẹ tôi. Mẹ tôi vốn tánh rộng rãi khoan hoà, không
theo sát đạo lý cặn kẽ như cha tôi. Thuở trước, truyền thống giáo huấn theo
Khổng giáo rất hữu hiệu. Nhưng kể từ thế hệ tôi, phương pháp này bắt đầu kém
hiệu quả, vì trong xã hội hiện đại, em út không còn kính trọng anh chị như thuở
xưa, đặc biệt là khi chúng tôi qua sống bên châu Âu hay Mỹ, nơi cha mẹ đối xử
với tất cả con cái y hệt như nhau. Thế nhưng cha tôi không bao giờ thay đổi cung
cách của ông. Sau này, khi tôi trở về Việt Nam làm việc, ông thường vào Sài Gòn
thăm tôi bốn năm lần mỗi năm, ở với tôi một thời gian để bàn chuyện gia đình,
nhưng không hề làm vậy với các em tôi. Khi
tôi còn nhỏ, cha tôi thường dắt tôi theo trong những chuyến đi săn hay đi câu
của ông. Những chuyến đi này thường dài từ 40 tới 50 cây số lội bộ, leo núi,
băng rừng, ngủ giữa đồng rộng, trên sườn đồi hay cạnh bờ sông – không lều trại,
không túi ngủ, chỉ có ít tấm chiếu lát và mền thô. Đi
câu thú vị vô cùng vì phong cảnh thiên nhiên thường xinh đẹp và sông suối thường
đầy cá. Dòng nước chảy xuyên qua các khe suối hay đổ xuống những con thác nhỏ,
hay nước trong các con sông uốn trôi lững lờ giữa đồng cỏ xanh, đều rất sạch,
trong vắt, không một chút bợn nhơ hay ô nhiễm. Chúng tôi câu bằng những cái cần
thô sơ làm từ các cành tre nhỏ chặt ngay trong rừng, nhưng bao giờ cũng thành
công vì lũ cá trong rừng chẳng biết gì hơn ngoài những thức ăn và những miếng
mồi mà mẹ thiên nhiên dành cho chúng.
Tại
những địa điểm mà cha tôi biết rất rõ, chúng tôi chặt một ít tre rồi dầm xuống
nước; sáng hôm sau chúng tôi có thể nhìn thấy từng đàn cá đang xúm xít rỉa lá
tre dưới làn nước trong veo, làm cho bụi tre chỉ còn trơ cành và gốc. Thế rồi
chúng tôi liệng xuống một thỏi nhỏ thuốc nổ, chờ nó nổ và lũ cá ngất ngư rồi,
chúng tôi lao xuống nước tóm những con cá bị thương nhưng vẫn còn quẫy rất dữ,
đôi khi làm chúng tôi bị thương không ít. Mỗi
khi cảm thấy khúc sông nào đó có nhiều cá hanh trắng quí hiếm, cha tôi
hái một số lá non từ một loại cây leo đặc biệt về nhồi thành bánh. Sau đó chúng
tôi giăng lưới bắt tôm dưới bờ sông lên, thận trọng nhét một viên nhỏ thứ bánh
đó vào trong bụng con tôm còn sống rồi thả chúng lại xuống sông. Rồi thì, lạnh
run trong cái lạnh buổi sáng sớm, chúng tôi trùm mền hay chiếu lát, kiên nhẫn
ngồi trên bờ, chờ cho tới khi những con cá hanh trắng nổi dật dờ trên mặt nước.
Sau khi ăn phải những con tôm kia khoảng nửa giờ, lũ cá hanh bị say thuốc, bắt
đầu trồi lên mặt nước, phơi bụng bơi lòng vòng, và chúng tôi bơi ra tóm lấy
chúng trước khi chất thuốc hết hiệu lực.
Chúng tôi kho cá nấu cơm ăn ngay tại chỗ cắm trại, đó là những bữa ăn ngon nhất
trong đời tôi. Chúng tôi san sẻ thức ăn với những người đi cùng đường; phần nào
không đem về được cho mẹ tôi, chúng tôi cho những người dân tộc thiểu số ở các
làng bên, hay cho dân xóm vạn ven sông. Có đôi khi chúng tôi nhóm một cụm lửa
lớn bên bờ sông để hun khói mớ cá bắt được trước khi đem về nhà. Đi
săn thì không thú vị bằng vì cha tôi chỉ sắm nổi một khẩu súng săn nhỏ, ca-líp 16; các loại thú săn thường là gà gô, trĩ, gà rừng, thỏ rừng,
thỉnh thoảng vài con hươu nhỏ. Với một khẩu súng nhỏ như vậy, chúng tôi không
dám vào sâu trong rừng, nơi lợn lòi và cọp không phải là trò chơi của chúng tôi. Cha
tôi rất thích đi du lịch đây đó. Trong những ngày tháng ấy, những lần đi tắm
biển là cả những chuyến viễn hành, vì chúng tôi thường phải đi bộ từ nhà ra bãi
biển. Đâu có đủ xe đạp cho tất cả mọi người. Có đôi khi chúng tôi kiếm tiền thuê
một chiếc thuyền, một chiếc tam bản
– cái tên gọi từ tiếng Trung quốc có nghĩa là ba tấm ván – dài khoảng 6 mét, có
mái khoang che bằng tre nứa. Thời
gian ấy chúng tôi còn sống ở Quảng Trị. Bãi biển gần nhất là Cửa Việt nằm cách
khoảng 16 cây số nên chúng tôi thường phải ra đi từ 4 giờ sáng. Chúng tôi đem
theo thức ăn, và dùng bữa dưới bóng râm của những cây fi-lao, một loại
cây thông, cao, lá nhỏ và dài như kim, reo vi vu trong làn gió biển nghe rất êm
tai. Lá fi-lao không có mũi nhọn như lá thông nên có thể nằm ngủ trên đám lá
dưới gốc fi-lao êm hơn nằm dưới gốc thông. Bao giờ chúng tôi cũng dừng chân ở
một làng chài để mua hải sản, món tuyệt nhất là sò huyết, một loại sò nhỏ, vỏ
sậm đầy lông, khi nướng trên lửa than sẽ mở miệng và cho ra một chất nước màu đỏ
như huyết, ăn rất ngon.
Cửa biển thứ hai, xa hơn, là cửa Tùng, nằm ở vĩ tuyến 17, sau này chia đôi Việt
Nam thành hai miền Nam, Bắc. Cửa Tùng cách nhà chúng tôi khoảng 60 cây số nên
chúng tôi thường thuê thuyền tam bản để đi. Bốn, năm người chúng tôi chiếm
khoang chính rộng khoảng 3 mét và dài 5 mét, khoang kia nhỏ hơn dành cho gia
đình chủ thuyền, với 4 người – cặp vợ chồng và hai con nhỏ. Khoang thuyền chỉ đủ
chỗ để ngồi hoặc nằm chứ không đứng được, vì nó chỉ cao khoảng mét hai tính từ
sàn lên mái khoang. Thế nhưng tất cả mọi người ăn, ngủ, giặt giũ và mọi thứ linh
tinh ở trên đó. Chúng tôi xuống sông tắm rửa mỗi khi dừng thuyền lại để nghỉ
ngơi hay ngắm cảnh. Thuyền lướt đi theo nhịp đẩy mái chèo mà người chủ thuyền
hoặc vợ anh ta chèo với những động tác hết sức uyển chuyển, theo tiếng hò khoan
nhặt của họ.
Trong tất cả những bãi biển đẹp trên thế giới mà tôi từng đặt chân tới trong
nhiều năm du lịch khắp nơi, thì không nơi nào có thể sánh được cửa Tùng và Đại
Lãnh ở miền Nam Việt Nam, với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ của nó. Tôi chỉ sợ
việc phát triển đất nước có thể làm mất đi vẻ đẹp của hai chốn này, vì người ta
thường có khuynh hướng huỷ hoại tất cả mọi thứ bởi chính lòng ham muốn phát
triển thêm và làm đẹp thêm những cảnh quan vốn xinh đẹp ấy. Cũng tại cửa Tùng tôi được thưởng thức ba món ăn mà tôi không hề gặp ở nơi nào khác: Ốc gạo,
một loại ốc nhỏ rất sạch, màu vàng, sống trong cát ở cửa sông, có vỏ tròn, lớn
cỡ một hột đậu phụng bự. Luộc ốc bằng nước sôi xong, chúng tôi dùng gai cây
chanh lể ốc ra nhấm nháp, sau khi đã khươi miếng vảy che miệng ốc đi –
thịt chúng mềm, đậm đà, hết sức thú vị. Cá mó, một loại cá thân lép có đủ thứ màu sáng,
ngó rất buồn cười, nhưng thịt ngon tuyệt vời. Và
hải sâm tươi mà chúng tôi đi lượm buổi sáng sớm giữa các khe đá khi triều
xuống. Loài này mỗi khi nhặt lên lại tiết ra một chất nước đặc ngộ nghĩnh màu
đỏ, nhưng khi nấu với nấm rơm thì ăn ngon hơn bất cứ loại hải sâm khô nào, dù
đắt tiền, ở các tiệm ăn. Bao
giờ tôi cũng lò dò theo cha tôi trong những chuyến đi câu ấy, lúc thì vùng vẫy
bơi lặn trong nước sông, lúc thì lang thang chân trần trên bãi biển, đến nỗi
trượt chân té ngã giữa các tảng đá. Một hôm ở cửa Tùng chúng tôi chứng kiến một
sự cố vừa buồn cười vừa tội nghiệp. Cùng đứng câu với chúng tôi ở một vùng nước
cạn trên bãi là hai người đàn ông và một người đàn bà. Đàn ông thường chỉ đóng
khố, và mấy cái khố thường rách tả tơi, ngoài ra họ không còn mặc thêm gì nữa.
Họ không hề ngượng khi phơi bày thân thể sau mấy cái khố rách nát. Người dân
nghèo hay tận dụng tất cả mọi thứ, kể cả giẻ rách. Thỉnh thoảng họ lại lặn xuống
nước để bắt cua hay tôm hùm bằng tay không. Sáng hôm đó, một người đàn ông lặn
xuống nước, và thình lình tôi trông thấy anh ta vọt lên khỏi mặt nước la hét,
một con cua dính cứng ở dương vật. Anh ta lê từng bước đi chậm chạp, bộ dạng đau
đớn và kỳ cục rất buồn cười, với con vật độc ác đung đưa giữa hai chân. Chúng
tôi cười đến nỗi chảy cả nước mắt và thắt cả bụng. Cha tôi vội lao tới giúp anh
ta, nhưng ông cũng đang cười rũ đến nỗi ông không gỡ con cua ra được. Cuối cùng
ông lượm một cục đá đưa cho người đàn ông, anh ta cố lết tới ngồi dạng chân trên
một tảng đá. Nhưng anh ta đau quá không cử động nổi nên anh ta nhờ cha tôi đập
giùm, và cha tôi đã đập con cua, nhưng suýt chút nữa ông cũng bị nó kẹp. Con cua
quờ quạng rớt xuống, nhưng cái càng của nó vẫn cứ kẹp ở chỗ cũ và cha tôi phải
đặt người đàn ông nằm xuống trên mặt đá để đập dập nó ra. Sự cố này dường như
kéo dài vô tận, và người đàn ông kia chắc phải đau khủng khiếp vì gương mặt anh
ta tái xanh tái tím. Gia
đình tôi rất nghèo nên đối với tôi, đồ chơi là thứ xa xỉ dành cho đám bà con
giàu có của tôi ở kế bên nhà. Bắt chước bọn trẻ con hàng xóm, tôi tự tạo lấy đồ
chơi cho mình: một chiếc xe tăng làm bằng một trục chỉ trống, với một que tre và
mấy cọng thun làm bộ máy nổ, lực đẩy được cung cấp bởi cọng thun xoắn lại và dầu
nhớt bôi trơn là sáp đèn cầy; một cái ná làm bằng một nạng cây hình chữ Y với
hai sợi dây cao su và một miếng da giày cũ.
Nhưng có những ngày tôi buồn bã không biết làm gì, sau mấy trò bắn bi hay ném
xu. Một hôm tôi đứng sau cánh cửa chờ cha tôi đi đánh tennis trở về. Tôi vừa
chơi với tấm lưới trên khung cửa vừa ngóng chừng bóng dáng chiếc xe đạp của ông
xuất hiện cuối con đường. Khi ông bước vào nhà, ông bắt gặp tôi đang thọc cây
vào tấm lưới cửa, và ông
dùng cây vợt tennis nện một cú lên đầu tôi. Đau hết sức. Đó là lần đầu
tiên ông đánh tôi và cũng là lần đầu tiên tôi giận ông, dù chỉ vài ba phút, bởi
tôi luôn luôn thương và kính trọng ông vô cùng. Ngày
hôm sau, ông mua cho tôi một món quà, như để bày tỏ tình thương và lòng hối hận,
món đồ chơi đầu tiên và duy nhất mà tôi được tặng trong thời thơ ấu – một con
chuột máy. Món tiền này là cả một sự hy sinh của ông; tôi quí con chuột đến nỗi
tôi đã gìn giữ nó nguyên vẹn trong hơn mười năm, không phải như một món đồ chơi,
mà như một kỷ vật cha tôi để lại, và như một kỷ niệm về lần bị phạt đầu tiên. Mặc dù nghèo, cha mẹ tôi lại rất giàu lòng trắc ẩn. Nhiều học sinh nghèo được cha mẹ tôi nuôi ăn ở: họ là anh em tôi. Hầu hết họ là người tốt, về sau đều trở nên những con người xứng đáng. Một số trong họ tham gia cách mạng và không bao giờ quên ơn cha tôi. Hầu hết bọn họ đều coi mình là thành viên trong gia đình và cư xử như con cái trong nhà. Cũng giống như những người con nuôi, những người học trò cũ của cha tôi đều suốt đời quí trọng ông và thương yêu ông như cha của họ.
Khi tôi mới lên 6, ông hay gởi tôi về làng, giúp bà con trong
việc đồng áng, như đạp nước vào ruộng với các nông dân trồng lúa, tham dự những
buổi giã gạo ban đêm của các cô gái làng. Ông thường nói, tôi phải sống gần
người nghèo mới biết thương họ. Ngay lúc còn nhò, tôi đã thấy lòng tê tái
khi nhìn thấy cảnh khổ của những người
nghèo, và thường kiếm tiền để cho người hành khất
Ảnh hưởng của cha tôi đối với tôi rất lớn. Khi học trung học, tôi đã biết thưong
những người bạn nghèo khó, tìm cách giúp họ. Sau này khi về Viêt Nam làm việc,
tôi thường góp sức với một người Anh, dân miền Scotland, vốn nổi tiếng là dân hà
tiện, nhưng lại hay giúp người, thường mổi tuần, lại đi với tài xế, về vùng dân
nghèo Saigon-Chợ Lớn, để phát chẩn. Tôi đi theo ông, vui lòng đóng góp cùng ông
giúp dân. Mới thấy giữa đô thị giàu sang, có bao nhiêu cảnh đói khổ của
người dân nghèo!
Rồi khi sống ở Hoa Kỳ, , tôi vẫn thường gọi tiền hổ trợ cho các tổ chức từ thiện
Mỹ, các nạn nhân động đất, lụt bão… hàng năm 400 Mỹ kim, các hội từ thiện Viêt
Nam 200 MK. Và mỗi năm, gởi 500 MK tiền hoc bổng cho các sinh viên của làng tôi
ở Quảng Trị và sinh viên của một giáo phận ở Nha Trang. Đôi khi nghĩ buồn cho
một số nhà gìàu Việt Nam, không biết từ thiện là gì, trong khi ở Chợ Lớn có
nhiểu người Trung Hoa bỏ ra rất nhiều tiền để xây trường học cho đồng bào họ.
Đầu năm 2004, tôi xuất bản cuốn sách bằng tiếng Anh “Brushing The
World Famous”, tôi cho Hội từ thiện Mỹ “the American Heart Association” quyền
tác giả của tôi, 20% tiền bán sách, đổ đồng 1500-2000 MK mỗi năm; khi tôi xuất
bản cuốn sách tiếng Việt của tôi, “Làm Việc Với Các Nhân Vật Danh Tiếng Thế
Giới”, tôi trả tất cả chi phí in sách, rồi tôi cho viện Việt Học ở Westminster,
California, tất cả sách in ra. Về Việt Nam, tôi in thêm sách và tất cả đều cho
bạn bè, và những người thích đọc sách. Tôi
mong các triệu phú, tỉ phú Việt Nam, nghĩ một tí đến những kẻ nghèo của dân tộc,
của đất nước… Năm
1930, cha tôi được thuyên chuyển về Huế, làm hiệu trưởng một trường học gần
hoàng thành cũ. Chúng tôi sống trong khu vực Đại Nội, gần hồ Tịnh Tâm danh
tiếng, một khu nghỉ mát của hoàng gia, nơi ngày xưa các hoàng đế tới ngắm hàng
vạn bông sen trong hồ… Nhà chúng tôi ở trước một cái hồ nhỏ và chúng tôi vẫn
thường ra đó câu cá mỗi ngày, sau giờ tan trường và trước bữa ăn tối – thời gian
được coi là lúc cá ăn mồi nhiều nhất.
Khi mùa mưa tới, toàn bộ khu vực này chìm dưới nước, hai anh em tôi tha hồ có
chuyện vui; vì nước dâng lên rất bất ngờ, chảy từ nơi này qua nơi khác, tràn
ngập các con đường, nên lũ cá cũng lớ ngớ lội qua mặt đường, tìm một chỗ nấp an
toàn. Chúng tôi đứng chờ sẵn trên đường, đuổi theo và đập chúng bằng gậy hoặc
bằng dao. Chúng tôi cũng đi tới các khu nghĩa trang, nơi các nấm mộ cũng đang
ngập nước, và những con chim mỏ nhát, một loại chim mỏ dài, quá mệt mỏi
vì phải bay trong mưa bão, muốn tìm một chỗ khô ráo để nghỉ, đã hạ cánh đậu trên
các ngôi mộ. Khi đêm xuống, chúng tôi khoác áo tơi, đội nón lá, cùng với các
người anh em khác hì hục lội trong làn nước lụt từ ngôi mộ này qua ngôi mộ khác
để tóm cổ lũ mỏ nhát – có khi tới 15-20 con trong một đêm. Đuổi bắt cho được
chim mỏ nhát từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác rất cực, nhưng vui, và chén lũ
chim nướng thì tuyệt cú mèo! Năm
tôi sáu tuổi, cha tôi gởi tôi trọ học ở một nơi cách nhà chừng 10 cây số. Ông thầy ở đó cho tôi cùng ba tên học trò nhỏ
khác ăn, ở, học hành, và cai quản luôn công việc của chúng tôi sau giờ học. Thức
ăn rất tệ, kỷ luật hà khắc và hình phạt bị khẻ thước trên đầu ngón tay là chuyện
thường xuyên. Mỗi ngày, sau sáu giờ học tập ở trường, về nhà chúng tôi còn phải
chúi đầu vào học thêm bốn tới năm tiếng nữa. Tôi nhớ nhà và cha mẹ đến nỗi một
hôm, sau buổi học, bỗng dưng một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm lòng tôi và tôi bỏ
trốn, chạy một mạch về nhà. Đó là một chuyến đi khủng khiếp và dài dằng dặc đối
với một đứa nhỏ sáu tuổi – chạy bộ một quãng đường dài 10 cây số. Về tới nhà tôi
mới hay mẹ tôi bịnh rất nặng phải chuyển vào bệnh viện. Đây là lần đầu tiên tôi
nhận thức ra rằng có một mối liên kết vô hình nhưng rất mạnh giữa cha mẹ và con
cái, bất chấp thời gian và khoảng cách: khi một tai nạn hay một biến cố quan
trọng xảy ra cho một đứa con, hoặc cho cha hay mẹ, thì cha mẹ hay đứa con sẽ có
linh cảm rằng vừa mới xảy ra một điều gì đó quan trọng trong gia đình.
Năm
tôi bảy tuổi, tôi được nhận vào học trường tiểu học Paul Bert – cái tên được đặt
để tưởng niệm viên Toàn quyền thực dân Pháp – cách nhà tôi khoảng 3 cây số, cha
tôi làm hiệu trưởng ở đó. Lẽ ra tôi đã vào đây từ năm ngoái, nhưng chưa đủ tuổi,
nên đành phải học tư ở ngoài – thời đó bảy tuổi mới bắt đầu được học lớp Năm –
lớp đầu tiểu học. Ngày ngày tôi đi bộ đến trường, đem theo sách vở và bữa ăn
trưa gồm có cơm nắm và muối mè hay muối đậu. Tôi ở lại trường suốt ngày, và cứ
đến buổi trưa, tôi lại ngửi thấy cái mùi muốn nôn mửa mà tôi ghét cay ghét đắng
của thịt chó nướng từ một tiệm ăn Bắc Kỳ ngoài trời, gần bờ sông Hương. Vì vậy
mà ngày nào tôi cũng phải tìm cách ăn giữa hai giờ học để tránh cái mùi thịt chó
cứ theo ám bữa cơm trưa của tôi. Và đó cũng là lý do vì sao lớn lên tôi rất ghét
món thịt cầy, vốn là món ăn khoái khẩu của một số dân miền Bắc. Thật khôi hài
khi một mùi hôi như vậy lại cận kề con sông Hương – “con sông của hương thơm”. Nhắc
tới chó, tôi phải nói rằng tôi luôn luôn ghét chó, bởi hồi nhỏ tôi đã bị chó cắn
tới ba lần và cứ mỗi lần như vậy tôi lại phải chịu hai mươi mốt mũi kim tiêm vào
bụng để ngừa bịnh dại – những mũi kim tiêm đau khủng khiếp, đau hơn ta tưởng rất
nhiều. Sau này, trong thời gian sống ở Mỹ, có một đêm khi tôi đang chạy thể dục
chầm chậm trong một sân trường gần nhà, thì từ trong một bụi rậm, một con chó
đen to lớn xồ tới cắn vào cánh tay phải tôi. Thật rùng rợn khi trong một đêm
trời rất tối và rất yên tĩnh, bỗng có một vật gì đen ngòm và to lớn bất thình
lình nhảy xổ lên anh và cắn anh! Mỗi khi tôi đến thăm một người em hay một người
bà con, nhìn thấy họ vuốt ve con chó cưng của họ, tôi không thể sờ vào nó hay
giả bộ thích nó được. Bất cứ khi nào nó liếm tay tôi, tôi đều rùng mình và cảm
thấy một luồng sóng run rẩy chạy dọc xương sống… Năm
1935 cha tôi được thuyên chuyển vào Quảng Nam, một tỉnh kề cận Huế ở phía Nam,
giữ chức chánh thanh tra học đường, phụ trách tất cả các trường trong tỉnh. Ông
cư trú ở Điện Bàn, ngay tại uỷ ban quận. Dưới quyền ông là tám mươi tám trường
tiểu và trung học, rải dài từ biên giới Lào tới bờ biển Thái Bình, một diện tích
chừng 80 cây số chiều dọc và 200 cây số chiều ngang. Với chiếc xe đạp cũ, ông
quyết định mỗi năm phải ghé thăm mỗi trường ít nhất hai lần, và mỗi lần như vậy
thanh tra từng lớp học (mỗi trường năm lớp). Ông thường khởi hành lúc 4 hoặc 5
giờ sáng và trở về nhà khoảng 6 –7 giờ tối, đem theo cơm nguội cùng muối mè hay
muối đậu. Có khi ông ở lại qua đêm tại nhà một người bạn, hay ngủ trên một cái
ghế dài ở một trường nào đó. Ông là người sống giản dị nhưng tận tụy với bổn
phận và công việc đến nỗi tất cả các giáo viên đều thương và quí ông. Ông đi xe
đạp trong một thời gian dài và nhiều đến nỗi sau này trong bài điếu văn đọc tại
đám tang ông, một người bạn của ông, cũng là một giáo viên, nói rằng có lẽ cha
tôi đã đi tới 4 vòng bao quanh trái đất trên chiếc xe đạp cũ kỹ duy nhất của
ông. Ông làm việc có lương tâm và chăm chỉ đến nỗi năm nào ông cũng được cấp
trên khen ngợi, tán dương và khen thưởng. Tên ông luôn luôn đứng ở hàng đầu
trong danh sách đề bạt hằng năm.
Anh em tôi học ở Vĩnh Điện, cách nhà 6 cây số, đi bộ. Thời gian đó chúng tôi
chưa có giày dép gì cả, gia đình tôi vẫn còn rất nghèo và cha mẹ tôi chưa đủ sức
mua giày cho bất cứ ai trong nhà trừ cha tôi. Chúng tôi cuốc bộ trên con đường
quốc lộ 1, lúc bấy giờ đã được tráng nhựa. Khi trời nắng nóng, nhựa hắc ín mềm
ra và nóng bỏng; và bàn chân chúng tôi đau nhức sau 6 cây số cuốc bộ về nhà. Mỗi
năm có hơn sáu tháng mưa, khi trời mưa giữa trưa thì nước bốc hơi và không khí
đầy hơi nóng hết sức ngột ngạt. Chúng tôi vẫn khoác những cái áo tơi và nón lá
chúng tôi từng mang khi đi bắt chim mỏ nhát ở Huế. Chúng tôi đi học từ sáng sớm
và ở lại trường suốt ngày. Khoảng giữa 11 giờ rưỡi và 2 giờ trưa, chúng tôi chơi
hoặc học bài trong sân chơi của nhà trường. Bữa ăn trưa của chúng tôi là cơm vắt
với muối mè hay muối đậu.
Chính trong khoảng thời gian này tôi gặp vị Tổng thống tương lai của Việt Nam,
ông Ngô Đình Diệm, lần đầu tiên. Anh trai của ông, Ngô Đình Khôi, là Tổng đốc
tỉnh Quảng Nam, mà Vĩnh Điện là tỉnh lỵ. Người con duy nhất của Khôi, Ngô Đình Khải, rất
gần gũi với cha mình. Cũng như ông Diệm, cả hai đều là người Thiên Chúa giáo
cuồng nhiệt và triệt để chống Cộng. Ngô
Đình Diệm là một thành viên của viện Cơ Mật dưới triều vua Bảo Đại vào những năm
30. Ông là người nhiệt thành theo chủ nghĩa Quốc gia và đã từ chức vì bất đồng ý
kiến với viên Khâm sứ Pháp, người giám sát tất cả mọi hành động của triều đình
Huế. Những quan điểm quốc gia của ông không làm vừa lòng thực dân Pháp nên Bảo
Đại phải để ông đi. Diệm vào Quảng Nam ở với anh của ông là Khôi, trồng hoa,
nuôi chim quí và chơi phong lan. Cha tôi cũng nuôi chim và trồng hoa phong lan
và cái thú vui chung này đã tạo nên một mối quan hệ thân thiết giữa ba người.
Khôi và Diệm quí cha tôi vì sự thanh liêm và năng lực của ông. Cha tôi thường
ghé thăm họ ngày chủ nhật, và lúc nào cũng dắt tôi theo. Cả ba người cùng nhau
ngắm hoa và bầy chim xinh xắn mà họ nuôi dưỡng. Đôi lúc họ thảo luận chính trị,
nhưng hạ giọng nói rất nhỏ và liếc nhìn chung quanh như coi chừng bọn mật báo
viên hay điểm chỉ được gài trong đám nhân viên hay đầy tớ của họ. Một đôi khi
cha tôi bận việc, ông sai tôi xuống phố đưa hoa và chim cho ông Diệm, và ông này
thường xoa đầu tôi như để khen thưởng. Việc này sẽ rọi một ít ánh sáng lên cuộc
gặp gỡ sau này giữa tôi và ông Diệm. Ngô
Đình Khôi và con trai ông ta có một kết cuộc bi thảm vào năm 1945 khi người Cộng
sản lật đổ chính quyền ở Quảng Nam. Nhân danh quần chúng nhân dân, họ lập toà án
quân sự và kết án tử hình Khôi. Khi họ dẫn ông ta ra sân bắn, con trai ông là
Khải nắm lấy áo cha mình kéo lại. Những người cán bộ Cộng sản quát tháo và đánh
anh ta, Khải nói chẳng thà anh ta chết với cha, và họ bắn cả hai người. Một
vài ngày trước đó, ông Diệm đã trốn ra Bắc với hy vọng tới được lực lượng Quốc
gia đóng ở ngoài ấy để đi tìm sự giúp đỡ của quân đội Nhật Bản. Nhưng hình như
ông không tiếp xúc được với bộ chỉ huy quân đội Nhật nên phải trốn tránh nhưng rồi vẫn bị
bắt và giải ra Hà nội. Ông được thả ra theo lệnh của ông Hồ Chí Minh – ông Hồ
coi ông Diệm như là một người Quốc gia yêu nước. Vào
thời gian ấy tôi bắt đầu làm quen với môn quần vợt – tennis. Cha tôi là
một trong những người Việt Nam đầu tiên chơi tennis vào những năm đầu thập niên
20 ấy. Đầu tiên ông gia nhập một câu lạc bộ ở Quảng Trị do chính người Việt Nam thành
lập, vì cái Club Sportif (câu lạc bộ thể thao) chỉ dành riêng cho người Pháp,
tương tự như việc phân biệt chủng tộc giữa người da đen và da trắng ở Mỹ trước
những năm 60. Vĩnh Điện vốn ở xa các thành phố lớn, không hề có câu lạc bộ lẫn
sân quần vợt. Cha tôi đã tự mình xây một cái sân “đất nện” với sự góp sức của
những người “anh em” của tôi. Nhưng đất ở đây không phải loại đất đỏ, mềm và
mịn, ở các sân đất châu Âu hay Mỹ. Khi khô nó cứng như xi-măng, còn khi ướt nó
mềm và trơn trượt. Lưới là một tấm rào đan bằng tre. Chúng tôi chơi bằng những
cái vợt cắt từ các tấm ván, không hề có lưới đan mặt vợt, còn bóng là những quả
bóng xài rồi được vất bỏ tại các sân quần vợt ở Faifo (Hội An), một thành
phố cách nhà tôi chừng 10 cây số, mà lũ trẻ lượm bóng ở câu lạc bộ đem bán lại.
Nhưng chúng tôi rất hãnh diện về cái sân của mình. Nhiều nhà vô địch môn quần
vợt đã tới chơi bóng với chúng tôi, vì cha tôi vốn là người hào phóng và mẹ tôi
là một tay đầu bếp cừ khôi và cũng là một bà chủ nhà duyên dáng hiếu khách.Tôi
đã học đánh tennis với những cái vợt gỗ như vậy và đã thu hoạch cái thói quen
chơi bóng tệ hại từ đó. Sau
khi xong bậc tiểu học, tôi được cha tôi gởi ra Huế để theo học trung học đệ nhất
cấp ở trường Khải Định (đặt theo tên vua Khải Định). Tôi ở ký túc xá của nhà
trường: khoảng 100 học sinh ngủ trên hai dãy giường gỗ cứng, không nệm, dưới một
cái mùng. Thức ăn dở kinh khủng còn kỷ luật thì nghiêm khắc. Tới giờ ăn, chúng
tôi được dọn ăn cứ bốn tên một bàn với ba hoặc bốn dĩa đồ ăn. Bọn tôi còn trẻ và
đứa nào cũng háu ăn. Khi một dĩa thức ăn vừa được bày ra trên bàn, ba tên kia
lập tức gắp lấy món ăn bỏ vô chén của mình, trên bàn hầu như không còn gì cả.
Tôi là đứa ăn chậm – tới giờ này cũng vậy – nên tôi vừa và xong miếng cơm đầu
tiên thì trên bàn đã hết sạch. Hầu hết thời gian tôi đều rời bàn với cái bụng
trống, và tôi phải tìm cách trốn ra ngoài – sau giờ học mọi cánh cửa đều bị khoá
– để mua bánh mì ở một bà bán hàng vốn rất am hiểu tình cảnh của những tên học
trò ăn chậm như tôi. Đó là một mục chi tiêu lớn trong ngân sách còm cõi hàng
tháng của tôi, và tôi đành phải hy sinh những mục khác.
Bởi vì trường Khải Định là một trường hỗn hợp trai gái học chung,
nên có một nữ sinh cứ mỗi buổi sáng trên đường tới lớp lại đi băng ngang sân
chơi của chúng tôi. Cô rất dễ thương và rất xinh đẹp và tôi cảm thấy yêu cô, lần
đầu tiên trong đời. Nhưng vì rụt rè, không bạo gan như đám con trai sành sỏi,
tôi không bao giờ dám nói chuyện với cô. Về sau tôi nghe cô đã vào tu viện và
trở thành một nữ tu. Năm
1941 tôi tốt nghiệp với thứ hạng cao, cha mẹ tôi thưởng tôi bằng cách cho đi
nghỉ hè ở Đà Lạt, một nơi nghỉ mát ở cao nguyên, với người chú của tôi – chú
Tân. Đà Lạt là một nơi nghỉ mát rất đẹp do thực dân Pháp xây dựng dành riêng cho
người Pháp. Người Việt Nam không được sống ở đây nếu không được phép. Những
người Việt Nam từ tỉnh khác muốn lên đây phải có giấy thông hành – “passport”,
hay thẻ căn cước. Vào thời gian ấy, chỉ có một con đường lộ để lên Đà Lạt – một
con đường hẹp chạy vòng vèo qua các cánh rừng, và một đường sắt có răng cưa cho
xe lửa. Tôi
về Quảng Trị, quê tôi, để xin cấp thẻ căn cước, và chính nơi đây lần đầu tiên
tôi nếm mùi cay đắng với nền hành chánh độc tài của thực dân. Vừa đặt chân đến
Quảng Trị, tôi đi ngay tới Toà Thị chính để nộp đơn xin cấp thẻ căn cước. Tôi
đang đi bộ một mình ở một bên đường, thì thình lình từ phía bên kia, tôi nhìn
thấy một viên Thiếu uý Pháp chạy ào về phía tôi, và, cực kỳ đáng sửng sốt, hắn
xáng cho tôi một bạt tai vào mặt.
“Mày không biết tao hả”, hắn hỏi. “Tao là Sếp Garde Indigène toàn thị xã này mà
mày lại dám không chào tao! Lần sau thấy tao thì lo mà chào, dù ở xa cũng phải
chào. May mà tao thấy mày là dân ngoài thành phố, không thì tao đã tống mày vô
tù rồi!” Tôi
sôi lên vì tức giận và căm thù, nhưng làm sao được? Tôi chỉ cần nói một tiếng là
hắn tống cổ tôi vô tù ngay lập tức. Và nếu tôi vẫn khăng khăng đòi công lý, hắn
không những chỉ tống tôi vô tù, mà còn vu tôi là cộng sản và sẽ cho tôi tiêu
luôn, không bằng cách này thì bằng cách khác. Sau này tôi biết đó là cách đối xử
mà người dân Việt Nam ở các tỉnh lẻ phải gánh chịu mà không kêu ca vào đâu được.
Thời gian đó tại các thuộc địa của Pháp, viên chức Pháp có quyền hành tuyệt đối,
và người Pháp muốn làm gì cũng được. Không hề có luật lệ trong cách đối xử với
người dân bản xứ! Sự cố này đã có một tác động sâu xa tới tình cảm của tôi đối
với người Pháp và ách thống trị thực dân, đối với đất nước và đồng bào Việt Nam
của tôi. Một quyết định hình thành trong đầu tôi, một lời hứa long trọng với
chính mình: tôi sẽ dốc tất cả sức lực để tống cổ bọn Pháp ra khỏi đất nước. Sau
khi thi đậu Tú Tài Một ở năm áp chót cấp trung học – theo lối giáo dục Pháp, với
thứ hạng cao, tôi được thưởng nguyên một bộ veston: trong đầu óc tôi, tôi
đã thành người lớn! Một lần nữa tôi được lên Đà Lạt ở nhà chú Tân tôi. Tôi cũng
được mời dạy Toán cho hai cô con gái của viên Thống đốc Pháp ở Đà Lạt. Điều này
đã cho tôi có một tư thế đặc biệt, và rất nhiều người nhìn tôi một cách thán
phục và thèm thuồng, nhất là đám con gái.
Chính tại Đà Lạt tôi đã gặp mối tình đầu tiên trong đời, một tình yêu thật sự, đó là một cô gái dịu dàng xinh đẹp người Huế, cô con gái lớn của một nhà thầu rất giàu. Tôi cũng được mời dạy Toán cho cô và cô em gái của cô. Rồi cả hai đều yêu tôi, nhưng tôi chỉ yêu người chị, và cô cũng đáp lại mối tình của tôi. Cô em gái vốn ít bị cha mẹ để ý xét nét nên được tự do hơn, cố hết sức làm tôi chú ý tới mình, nhưng lòng tôi chỉ hướng về người chị, cô dịu dàng hơn và cũng xinh đẹp hơn. Thế nhưng mối tình của chúng tôi không bao lâu phải chấm dứt lúc cha cô biết gia đình tôi rất nghèo và cấm cô không được gặp tôi nữa, khi mùa hè đã hết và những giờ học Toán đã xong. Phần tôi, vì lòng tự ái, tôi cũng nhất định quên cô, khi tôi nghe câu chuyện đó, mặc dầu tôi luôn luôn yêu cô. Sau này tôi được biết mẹ cô hết sức tiếc nuối khi bà biết tôi đã tốt nghiệp trường Đại học Thương mại danh tiếng nhất Paris, thủ đô nước Pháp, và tôi đã giữ những chức vụ cao trong chính quyền và trong những tổ chức quốc tế.
II. THỜI TRUNG HỌC VÀ ĐẠI HỌC
Năm
1944, tôi tốt nghiệp trung học khi thi đậu bằng Tú Tài Hai, thường được gọi là
Bac II, với hạng Bình (Mention Bien). Điều này làm cho cha mẹ tôi rất
đỗi vui lòng và tự hào vì hai người tuy rất nghèo nhưng đã ráng chịu thiếu thốn
nhiều bề để cho tôi và em Minh tôi được học lên trung học. Có một chuyện vui là
vào năm thi Tú Tài I, sau phần thi viết, tôi đang xem bảng thì có một cô giáo
người Anh ra tìm tôi, tự giới thiệu là cô Wilkinson ở Hà Nội vào chấm thi. Cô
cho tôi hay bài của tôi được điểm cao nhất, và cô muốn gặp người học sinh đạt
được điểm cao nhất ấy… Sau đó, khi thi vấn đáp, cô lại khen tôi. Cô rất xinh đẹp
nên tôi không khỏi đôi khi bâng khuâng nhớ nghĩ về cô. Dưới thời thuộc điạ,
người da trắng hay khinh miệt người da vàng, mà có một câu chuyện như vậy cũng
là một điều rất lạ. Mẹ
tôi đặc biệt sung sướng vì giữa gia đình bên nội và bên ngoại của tôi có một sự
thi đua, có thể nói là ganh đua, rất dữ tuy vẫn thân tình, về chuyện học hành
của con cái. Dĩ nhiên là mẹ đứng về phía chúng tôi vì là con ruột của bà. Tôi
vốn học giỏi khi còn học trung học và cả sau này khi lên đại học, lúc nào tôi
cũng xuất sắc hơn đám anh chị em bà con và cả mấy ông cậu của tôi. Cứ sau mỗi kỳ
thi, một vài ông cậu của tôi lớn tiếng tuyên bố sẽ đậu cao, nhưng khi kết quả
được công bố thì họ rớt đài, còn tôi thì không nói gì nhưng cuối cùng lại đậu
cao. Điều này làm cho bọn thanh niên em út cười nói đã đời và cha mẹ tôi thì cứ
mỉm cười thú vị. Chuyện tôi học giỏi và thi đâu đậu đó giúp cha mẹ tôi thêm can
đảm, hy sinh thêm nhiều tiền của để cho tôi vào học ở trường đại học Hà Nội và
sau này ở Pháp. Và cho tất cả các em trai và em gái tôi vào học ở các trường đại
học châu Âu và Mỹ. Thời
bấy giờ chúng tôi đang sống dưới sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Năm 1941 sau
một cuộc chiến ngắn ngủi, quân Pháp thua trận một cách thảm hại ở biên giới phía
Bắc và buông súng đầu hàng. Chính quyền thực dân Pháp phải chấp nhận cho quân
đội Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ bán đảo Đông Dương. Người Nhật vẫn để viên Toàn
quyền Pháp cai quản việc hành chánh trong nước, nhưng trong tất cả mọi lãnh vực
khác thì họ nắm lấy quyền chuyên chính của một đội quân chiếm đóng. Máy bay Đồng
Minh (gồm các nước Mỹ, Anh, Trung Hoa) dội bom mỗi ngày, nhất là tuyến đường sắt
vốn là tuyến vận chuyển chính của quân đội Nhật. Xe lửa chỉ chạy ban đêm, ban
ngày nghỉ. Hành khách thì ban ngày ngủ trên các toa xe, hay trong các nhà ga xe
lửa, để đêm lại lên tàu tiếp tục cuộc hành trình. Đôi khi đang giữa đêm chúng
tôi nghe tiếng bom nổ và con tàu dừng lại giữa đường và hành khách phóng xuống
các đám ruộng chung quanh hay chạy nấp trong các bụi cây để tránh miểng bom đạn.
Vì tất cả các cây cầu đều bị sập hoăc bị phá huỷ hoàn toàn nên người ta qua sông
trên những chiếc phà cũ kỹ chạy bằng mô-tơ cũ hoặc kéo bằng tay để rồi lại leo
lên một chiếc xe lửa khác ở bên kia sông. Chúng tôi phải mất ba ngày để đi từ
Huế đến Hà nội, cách nhau chừng 500 dặm. Hà
nội là một thành phố rất đẹp, hoàn toàn khác Huế và các thị trấn quanh Huế.
Thành phố cổ kính này, với những ngôi chùa và đền miếu xinh đẹp, đã gây một ấn
tượng sâu sắc trong lòng một thanh niên nghèo đến từ một thị trấn xa xôi hẻo
lánh. Tôi mua một chiếc xe đạp cũ và
đạp lòng vòng khắp Hà nội trong khi chờ năm học tới. Vì
đại học Hà Nội chỉ có ba phân khoa là Luật, Y và Khoa học, nên tôi ghi danh học
Luật và Y khoa. Tôi học rất chăm và luôn luôn ở trong tốp sinh viên đứng đầu của
trường Y. Lần đầu tiên trong đời, tôi để dành nhiêu thời giờ suy nghĩ về chính
trị và tình yêu nước. Tôi dự các buổi mít-tinh của phong trào sinh viên và tham
gia vào những vụ quấy rối bọn sinh viên người Pháp và bọn mật vụ Pháp được gài
vô để theo dõi sinh viên Việt Nam. Những trận đánh nhau giữa sinh viên Việt Nam
và sinh viên Pháp xảy ra hầu như mỗi ngày sau giờ tan học và thường có tôi trong
những vụ đánh nhau trên đường phố.
Người bảo trợ cho tôi đi học là cậu của mẹ tôi, ông là Tổng đốc của một tỉnh kế
cận. Rõ ràng ông không thích thái độ chính trị của tôi. Cứ mỗi tháng, cùng với
hai người cậu, tôi lại đạp xe vượt 40 cây số đường trường để về Hưng Yên thăm
ông cậu và nghe ông quở trách. Hai cậu tôi thì không giống tôi, họ được coi là
những sinh viên gương mẫu vì họ không tham dự vào các hoạt động chính trị. Bởi
vì một phần học phí của tôi là do ông cậu chu cấp nên điều này là cả một vấn đề
lớn cho tôi và cho mẹ tôi. Thế
rồi tất cả đều chấm dứt ngày 9 tháng Ba năm 1945, khi giữa đêm tối quân đội Nhật
thình lình đảo chính và chiếm trọn bán đảo Đông Dương và bỏ tù tất cả các quan
chức và nhân viên người Pháp, tước vũ khí quân đội Pháp. Tất cả mọi trường trung
và đại học đều đóng cửa và sinh viên được khuyến cáo trở về nhà chờ chỉ thị của
chính quyền quốc gia Việt Nam vừa mới được thành lập với sự giúp đỡ của quân đội
Nhật. Dư luận râm ran về chuyện Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sắp về nước, sau nhiều năm
lưu vong ở Nhật Bản. Bởi vì ông là một người Quốc gia đã chấp nhận từ chức chớ
không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, nên mọi người đều phấn khởi và tràn trề
hy vọng, mong ông về sớm để thành lập chính phủ. Than ôi, điều ấy không bao giờ
có. Không rõ chuyện gì đã xảy ra với ông.
Tôi
về nhà.
Trong những tháng tiếp theo, đất nước trải qua
một trận đói khủng khiếp. Người chết đói la liệt khắp mọi nơi. Từng đoàn, từng
đoàn người đói lũ lượt kéo đi khắp làng, khắp phố kiếm ăn và xin cứu giúp. Bởi
vì gia đình tôi có truyền thống mở rộng cửa đón khách nên người ta kéo tới xin
ăn, có đôi khi giữa bữa ăn, họ đến tận bàn ăn, nhìn vào thức ăn nghèo nàn của
chúng tôi với cặp mắt thèm thuồng và cái miệng chảy nước miếng. Chúng tôi cũng
không đủ ăn, nhưng phải chia bớt cho họ. Tôi biết là trong trận đói này có hơn
một triệu người chết đói. Vậy mà đất nước tôi lại là một trong những nước sản
xuất lúa gạo nhiều nhất thế giới, mỗi năm xuất khẩu hơn một triệu tấn! Tôi nghe
nói là người Nhật vì cũng thiếu gạo nên đã chở tất cả số gạo đang có về Nhật,
làm cho Việt Nam lâm vào tình trạng thiếu gạo hết sức trầm trọng. Cả
nhà chúng tôi ai cũng thiếu ăn, nhưng cha mẹ tôi thiếu ăn hơn tất cả: trước hết
vì phải ưu tiên dành cho con cái, và sau đó còn phải giúp đỡ người khác. Hơn bao
giờ hết, căn nhà chúng tôi đông nghẹt những đứa trẻ được nhận nuôi, bạn bè và bà
con đủ kiểu. Chúng tôi chỉ ăn một ngày hai bữa, mỗi người được hai chén chứa đủ
các thứ rau nhặt nhạnh sau vườn, phía trên phủ vài hột cơm. Đôi khi hết gạo,
chúng tôi phải thay bằng mấy lát sắn khô. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng được cung
cấp ít chất đạm nhờ mấy con cá mà em Trí của tôi và tôi câu được ở con sông gần
đó, hoặc một hai cái trứng mỗi tuần từ bầy gà vịt nuôi trong nhà. Đây quả là
quãng thời gian của biết bao nhiêu đau khổ và hy sinh. Sau này, khi tôi là Tổng
giám đốc của hai ngân hàng, tôi thường đi lại Paris, New York, Washington nhiều
lần và được các ngân hàng bạn chiêu đãi thịnh soạn. Khi tôi ăn trứng cá, gan
ngỗng và uống đủ thứ rượu khai vị, sâm banh, và hai hay ba ly rượu vang
trong một bữa ăn, tôi không thể nào không nhớ lại những ngày tôi chỉ được một
cái chén đựng đủ thứ rau khốn khổ sau vườn nhà. Khi
tôi còn nhỏ, chúng tôi sống ở Quảng Trị trong một ngôi nhà gạch do cha tôi xây,
nằm trên con lộ chính của thị xã. Nhưng từ đó trở đi, vì cha tôi là một thầy
giáo giỏi và năng nổ nên cứ được thăng chức đều đặn hai năm một lần, và chúng
tôi phải di chuyển nhiều lần từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngoại trừ ở Quảng Nam,
nơi cha tôi thuê được một ngôi nhà ngói, còn thì ở bất cứ nơi đâu ông chuyển
tới, cha tôi cũng phải dựng một căn nhà mái tranh, nền đất nện và vách hên tre
trét bùn. Thông thường chỉ có một phòng riêng có tấm ngăn dành cho cha mẹ tôi,
còn cả bọn chúng tôi ngủ trên mấy chiếc giường gỗ hay bộ ngựa không đệm. Ngôi
nhà lúc nào cũng đông cứng người vì cha tôi thường hay đưa về nhà những sinh
viên nghèo hay những người bà con nghèo làm con nuôi. Ở bất cứ nơi đâu chúng tôi
chuyển đến, tôi cũng có từ tám tới mười người anh em hay chị em nuôi, và ban đêm
giường nào cũng chật cứng người nằm. Cha tôi lúc nào cũng đầy lòng thương người,
tuy lúc nào ông cũng nghèo. Tôi
còn nhớ mãi nỗi sợ cháy nhà vào mùa hè, khi đợt gió Lào khô khốc, rất nóng và
rất mạnh từ đất Lào thổi qua Việt Nam (tương tự gió Santa Ana ở vùng California)
với vận tốc lên tới 50-60 km một giờ, làm ngọn lửa bốc cháy, lan hết dãy nhà
tranh này tới dãy nhà tranh khác, đôi khi đốt trụi cả ngôi làng. Cha tôi leo lên
nóc nhà, tưới nước lên mái tranh để ngăn lửa. Vì chúng tôi chẳng bao giờ có nước
máy nên cả bọn chúng tôi chạy ùa tới giếng nước, dùng gàu kéo nước lên và chuyền
tay tới cha tôi. Ngọn lửa bốc cao lên trời làm bầu trời đỏ rực và nóng hổi.
Quang cảnh thật là đáng sợ và nếu ngọn lửa liếm tới nhà chúng tôi, chắc nó sẽ bị
thiêu rụi trong vòng vài phút. May sao là chúng tôi chưa hề bị cháy nhà lần nào,
mặc dù tất cả các ngôi nhà đều xây như nhau với mái tranh và phên tre. Sau
khi chính phủ Việt Nam đầu tiên của Trần Trọng Kim được thành lập dưới lá cờ độc
lập Quốc gia (trong khuôn khổ khối Thịnh Vượng Đại Á) thì một trường quân sự –
trường Thanh Niên Tiền Tuyến – được thành lập tại Huế, và tôi cùng một số sinh
viên từ Hà Nội và Sài gòn đăng ký vào đây. Thầy dạy chúng tôi là những sĩ quan
Việt Nam trong quân đội Pháp bỏ về. Tất cả chúng tôi đều rất tự hào được ở trong
ngôi trường quân sự đầu tiên để phục vụ Tổ Quốc. Trang bị của chúng tôi rất ít,
chỉ là những khẩu súng cũ kỹ từ thời thế chiến thứ nhất được quân đội Nhật bí
mật trao cho. Và rất ít đạn dược. Chúng tôi hầu như không có tập bắn, nhằm dành
đạn cho những trường hợp khẩn cấp. Thời
gian đó De Gaulle đã trở về nắm quyền ở Pháp sau khi Đức bại trận và nước Pháp
đang tìm cách tái chiếm Đông Dương vốn được coi là “hòn ngọc của đế quốc Pháp.”
Nền độc lập quốc gia dưới sự bảo trợ của Nhật Bản làm nhân dân phấn khởi rất
nhiều. Nhưng sau khi Nhật thua trận, chúng tôi luôn lo lắng là Pháp sẽ xâm lược.
Việc lính Anh vào miền Nam để giải giới quân Nhật càng làm tăng thêm nỗi lo này
vì chúng tôi ngờ rằng nước Anh sẽ giúp Pháp tái chiếm Đông Dương. Những lời đồn
đãi về việc lính nhảy dù Pháp đang được thả xuống những vùng xa lan toả khắp nơi
và người dân bắt đầu chuẩn bị cho một thời kỳ bị vây hãm lâu dài và gian khổ,
nhưng tất cả đều cương quyết giữ cho được nền độc lập mới mẻ và chống trả quân
xâm lược Pháp. Tại
Trường quân sự của chúng tôi, các sĩ quan cố hết sức kiếm thêm súng và đạn dược,
nhưng dưới áp lực của chính phủ Pháp, quân đội Nhật từ chối không cho chúng tôi
thêm súng nữa, ngoại trừ một vài khẩu súng rỉ rét có từ thời trước chiến tranh
mà dân quân Việt Nam trước đây sử dụng. Một
ngày kia, chúng tôi được tin quân nhảy dù Pháp đã đổ bộ xuống cửa Thuận, một cửa
biển cách Huế chừng 12 cây số. Chúng tôi thuê hai chiếc xe tư nhân để di chuyển,
rồi tiến về cửa Thuận dưới quyền vị chỉ huy trưởng của chúng tôi là Phan Tử
Lăng, và viên chỉ huy phó là Hà Văn Lâu, người sau này gia nhập lực lượng du
kích Cộng sản và trở thành Đại sứ của Bắc Việt tại Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi đến
cửa Thuận, và trong đêm tối bao vây căn nhà mà đám lính Pháp trú đóng. Đám lính
này không hề chờ đợi cuộc thăm viếng của các chiến sĩ Việt Nam, và chúng tôi đã
tóm hết cả đám một cách dễ dàng, không cần bắn một phát đạn. Về sau trong khi
thẩm vấn, chúng tôi mới biết rằng bộ chỉ huy của chúng ở Ấn Độ – đám lính này
đến từ Pondichery, một thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ – đã nói với chúng là dân Việt
Nam rất trung thành với nước Pháp và chúng sẽ được đón chào như “những người anh
em”.
Trong thời gian này tôi gặp một tai nạn buồn cười: chúng tôi được học về súng và
chiến lược quân sự nhưng không có đủ đạn để tập bắn. Trong khi bao vây căn nhà
bọn Pháp đóng quân, tôi đã vô tình kéo cò súng, nhưng may lúc ấy mũi súng đang
chĩa xuống đất và viên đạn chui xuống cát, cách ngón chân cái của tôi chỉ có vài
phân. Sau
đó ít lâu, một buổi sáng chúng tôi thức dậy với cái tin Việt Minh, dưới sự lãnh
đạo của ông Hồ Chí Minh, đã chiếm tất cả mọi cơ sở chính phủ ở Hà Nội và đã
giành lấy chính quyền trung ương với sự đồng tình ngấm ngầm của quân đội Nhật.
Chúng tôi không biết nhiều về Việt Minh ngoại trừ đó là một lực lượng kháng
chiến do đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, dưới quyền lãnh đạo của ông Hồ Chí
Minh; nhưng chúng tôi không thể cưỡng lại lời kêu gọi của Việt Minh khi mục đích
chính của chúng tôi là chiến đấu chống quân Pháp và bảo vệ nền độc lập nước nhà.
Chúng tôi chẳng biết gì nhiều về chủ nghĩa Cộng sản và lúc ấy cũng chẳng quan
tâm bao nhiêu tới những rối rắm chính trị. Vài
ngày sau chúng tôi đón viên Chính uỷ đầu tiên của khu uỷ Huế, anh ta đi tới
trường chúng tôi một mình, vũ khí trang bị chỉ là một con dao găm. Anh ta cho
chúng tôi một bài diễn văn hùng hồn về phong trào Việt Minh và kêu gọi chúng tôi
giúp anh dành chính quyền tỉnh và tổ chức quân đội cho khu trung bộ, vì Việt
Minh chưa có tổ chức quân sự nào ở khu này. Chúng tôi đều nhất trí chấp nhận lời
kêu gọi, giúp Việt Minh tổ chức một đội quân cho khu vực này, khi mà chính quyền
mới ở Hà Nội chưa thể hổ trợ cho lực lượng Việt Minh tại đây. Sau buổi họp chúng
tôi mới biết được là giữa bọn chúng tôi có ba người cảm tình viên Cộng sản, và
họ chờ tới lúc này mới xuất hiện.
Và
vậy là chúng tôi đây, sắp dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới, dưới một ngọn cờ
mới, với một đề án đồ sộ là xây dựng cả một quân đội từ một tốp lính lộn xộn để
chống lại quân đội hiện đại của Pháp, lúc này đang chuẩn bị đổ bộ xuống một nơi
nào đó dọc theo hai ngàn rưỡi cây số của bờ biển Việt Nam. Ít
lâu sau, tại Nam bộ quân Pháp đã quay trở lại, nấp sau lưng quân Anh lúc ấy đã
nhận lệnh của Bộ Tư lệnh Đồng Minh là giải giới quân đội Nhật ở phía Nam vĩ
tuyến 17. Được quân Anh ủng hộ hoàn toàn, dùng Sài Gòn làm bàn đạp, bọn Pháp bắt
đầu tiến ra hướng Bắc bằng cả đường thuỷ lẫn đường bộ về nhiều địa điểm ở miền
Trung. Vì thành phố lớn đầu tiên chúng định chiếm là Nha Trang, đội quân chúng
tôi rút lui về Khánh Hoà ở mạn bắc Nha Trang và trấn giữ trận tuyến này một ít
ngày. Tôi được phong làm Chỉ huy phó khu vực với cấp bậc Trung tá, cùng với một
trong ba người cảm tình viên Cộng sản là Đại tá Nguyễn Kèn, tổ chức cuộc kháng
chiến ở Nha Trang. Chúng tôi là một đội quân áo vải nghèo nàn với những người
lính vừa nhập ngũ mới toanh, vũ khí trang bị là những con dao róc mía, gậy tầm
vông, vài khẩu súng cổ lỗ sĩ từ thời thế chiến thứ nhất và một hai khẩu tiểu
liên loại nhỏ được mấy người lính Nhật có cảm tình với cuộc kháng chiến trao
tặng. Thay
vì giải giới hoàn toàn quân Nhật, lính Anh chỉ tịch thu những vũ khí hạng nặng
còn vũ khí nhẹ thì để lại cho quân Nhật và yêu cầu họ đánh chúng tôi để bình
định khu vực, và lính Pháp tiến sau lưng quân Nhật. Đại tá Kèn và tôi chỉ huy
quân lính kháng cự lại quân Nhật; chúng tôi cảm thấy buồn bã vì phải đánh Nhật
thay vì đánh Pháp. Những khẩu đại bác hùng mạnh từ chiến hạm Richelieu của Pháp
dội xuống đầu chúng tôi suốt ngày đêm và chúng tôi chẳng có gì để tự vệ ngoài
một số súng nhỏ. Chúng tôi mất dần trận địa và bị thương vong khá nhiều. Chúng
tôi rút lui về hướng Bắc, rồi khi đụng tuyến đường sắt cách thành phố khoảng 6
cây số, chúng tôi vào nấp trong một đường hầm xe lửa để nghỉ lấy sức vì chúng
tôi đã chiến đấu liên tục suốt ba ngày ba đêm. Đêm hôm ấy, dò ra được chỗ chúng
tôi, chiến hạm Pháp hướng những khẩu đại bác hùng mạnh của nó về cả hai đầu
đường hầm. Quả là cả một địa ngục cho chúng tôi ở trong đó!
Tiếng đạn nổ dội trong đường hầm thực là khủng khiếp. Khi đạn ngừng nổ vì một lý
do nào đó – chúng tôi không rõ – chúng tôi quyết định tháo chạy ra khỏi chỗ này
và tập hợp lại ở một ngôi làng cách đó khoảng ba cây số. Dân làng đón tiếp chúng
tôi hết sức nồng hậu và cho chúng tôi ăn uống, những thức nóng hổi mà suốt mấy
ngày qua chúng tôi chẳng có được một tí nào. Rồi chúng tôi lại di chuyển lên các
thôn xóm vùng sơn cước, trong khi lính Nhật và Pháp vẫn tiếp tục truy kích và
gây cho chúng tôi một số thương vong nữa. Chúng tôi vừa thua kém quân số và vũ
khí, vừa thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Điều duy nhất chúng tôi có là lòng can đảm
và ý chí kiên quyết chiến đấu cho đất nước. Một
ngày nọ trong khi đi tuần cùng sáu người lính trẻ, tôi bị thương và được đưa tới
một ngôi làng nhỏ trong rừng. Họ cột tay chân tôi lại, dùng kéo để gắp đầu đạn
ra khỏi đùi tôi mà không có lấy một tí thuốc tê. Bệnh viện dã chiến này được đặt
trong một ngôi chùa, chúng tôi không có đủ trang bị y tế, và cũng không có đủ
nhân viên; một bác sĩ và hai y tá đảm nhận tạm làm việc quần quật suốt đêm ngày,
chăm sóc cho thương binh. Vết thưong của tôi được coi là nhẹ, tôi phải rời
giường bệnh để nhường chỗ cho một người lính khác bị thương nặng hơn. Tôi ở lại
làng này thêm một ít hôm nữa với một gia đình nông dân, rồi sau đó được đưa về
nhà. Một người đồng đội cùng học trường quân sự với tôi là Đại tá Hoàng cũng đi
về Huế. Trên chuyến tàu tôi gặp một người quen cũ, vốn là học trò của cha tôi
trước kia, hồi ở Quảng Trị. Anh ta bị bắt và cứ bị hai người lính áp tải đánh
đập mãi. Tôi hỏi hai người lính vì sao lại đánh anh ta, họ trả lời anh ta là một
tên mật vụ của Pháp trước đây mà họ đã truy ra được ở Nha Trang. Tôi nói với Đại
tá Hoàng là tôi có quen biết với anh ta, chúng tôi phải làm sao cho anh ta đừng
có bị đối xử quá tàn tệ như vậy. Hoàng cho hai người lính biết cấp bậc của anh,
và nói họ để yên cho người tù. Nếu anh ta có tội, toá án sẽ trừng phạt đích
đáng, nhưng hai người lính không có quyền hành hạ anh ta. Người tù nhìn tôi khẽ
cười kín đáo để cám ơn. Anh ta sẽ còn nhớ sự cố nhỏ này và sau này sẽ giúp đỡ
tôi khi tôi gặp khó khăn. Khi
tôi về tới gia đình, cha tôi quyết định tôi phải đi học trở lại, ngay cả khi
chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức eo hẹp về tài chánh. Trong khi chờ
ra Hà Nội, tôi ở lại chia sẻ với gia đình cuộc sống khổ cực của trận đói vẫn
đang hoành hành trên cả nước lúc bấy giờ.
Chuyến đi Hà Nội hết sức khó nhọc, mọi cây cầu đều bị phá huỷ hoặc hư hỏng vì
máy bay Đồng Minh, và chúng vẫn tiếp tục bắn vào những cây cầu đã hỏng và vào cả
đám đông tụ tập quanh bến phà hai bên sông. Cuộc hành trình qua 600 cây số mất
tới ba ngày. Tại
Hà Nội tôi bắt đầu học Y khoa và được chỉ định về phòng hoa liễu. Những gì tôi
nhìn thấy tại đây sẽ còn đọng lại trong tâm trí tôi suốt đời. Tôi được nhiều
điểm cao và hai vị giáo sư chính từ Huế ra đây dạy nói rằng nếu tôi cứ tiếp tục
như vậy, sau này tôi sẽ trở thành một bác sĩ giỏi. Nhưng rồi tháng 12 năm 1946,
sau thất bại của bản Tạm ước (modus vivendi) giữa ông Hồ Chí Minh và chính phủ
Pháp tại Paris, chiến tranh lại tái diễn, và một lần nữa trường bị đóng cửa. Tôi
lại về nhà và một lần nữa chính quyền cộng sản địa phương lại yêu cầu tôi gia
nhập quân đội và giúp họ tổ chức kháng chiến chống quân Pháp lúc này đang tiến
tới sau khi đổ bộ xuống cửa Thuận, cách Huế khoảng 16 cây số.
Tôi
tái ngũ và đóng quân tại ngôi trường cũ của mình, trường trung học Khải Định,
với một số lính và sĩ quan mới. Tôi góp phần huấn luyện đám tân binh, tổ chức
việc vận chuyển và tìm kiếm thêm vũ khí từ những kho súng đạn cũ của quân Pháp
bỏ lại. Một
ngày kia có hai người lính Nhật tới cổng trường xin gặp tôi. Tôi bước ra và
trông thấy hai người lính mặc quân phục Nhật nhưng không mang vũ khí. Họ lịch sự
cúi chào tôi, và tôi đáp lễ. Họ biết rất ít tiếng Việt còn tôi thì chỉ biết một
hai tiếng Nhật. Họ bèn viết cho tôi bằng chữ Hán, nhưng mà kho tiếng Hán của tôi
đã để yên quá lâu ngày nên tôi chỉ hiểu được một vài chữ, nhưng dù sao chúng tôi
cũng hiểu nhau được phần nào. Tên hai người này là Yamashita và Narita. Họ không
muốn đầu hàng quân Đồng Minh nên quyết định gia nhập lực lượng chúng tôi, giúp
chúng tôi chống lại quân Pháp, bảo vệ nền độc lập. Điều duy nhất họ mong muốn là
cho họ được hướng về phía mặt trời vào lúc bình minh và lúc hoàng hôn để đảnh lễ
Hoàng đế của họ. Tôi chấp nhận và chúng tôi đã sắp xếp để chiều tối hôm sau tới
đón họ tại đồn của họ. Từ đó trở đi hai người luôn theo tôi bất cứ nơi đâu giống
như hai người cận vệ. Chúng tôi thân thiết với nhau tới mức sâu nhất có thể đạt
được mà không cần trao đổi bằng ngôn ngữ. Họ viết tên và địa chỉ của họ trong
một mẩu giấy cứng nhỏ màu đỏ, phòng trường hợp chúng tôi cách biệt nhau. Chúng
tôi hứa sẽ tìm nhau một khi chiến tranh chấm dứt. Nhà của Narita ở Nagasaki, anh
ta là một diễn viên điện ảnh, và em gái anh vẫn còn đóng phim cho quân đội ở quê
nhà. Còn Yamashita thì ở thị trấn Sendaye, tỉnh Hokkaido, anh là y tá. Vào
cuối tuần, tôi được nghỉ phép và đưa hai anh về nhà ngoại tôi ở Nguyệt Biều trên
bờ con sông Hương xinh đẹp. Họ nói chuyện với ông ngoại tôi bằng chữ Hán, thứ
chữ mà cho tới năm 1930 là văn tự căn bản của người Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Việt Nam. Chúng tôi cùng nhau câu cá trên sông Hương, và vì không câu
được cá, chúng tôi liệng xuống sông một bó nhỏ thuốc nổ, rồi chúng tôi bơi ra
ngoài bắt những con cá ngất ngư vì vụ nổ; rồi mẹ tôi đem kho và chúng tôi có một
buổi ăn tối hết sức ngon lành. Ăn xong chúng tôi lại tụ tập trên bờ sông, dưới
một bầu trời không vẩn mây và một vành trăng tròn tuyệt đẹp. Mấy ông cậu tôi và
đám anh em bà con cũng đem đàn sáo ra tham gia với chúng tôi, tất cả chúng tôi
hát hò và cười giỡn rất vui. Narita và Yamashita cũng tham gia hát bằng tiếng
Nhật. Narita hát rất hay. Cả bọn chúng tôi đều cảm thấy thích thú với các làn
điệu và các bài ca này. Ông ngoại tôi lại cho chúng tôi một ít rượu nếp và điều
này càng làm cho buổi tiệc thêm đậm đà. Khi mặt trăng lặn xuống sau rặng tre và
mọi người chuẩn bị rút lui về ngủ thì Yamashita nói gì đó với Narita, rồi xin
ông ngoại tôi nán lại thêm một vài phút nữa. Họ xin phép ông tôi vào trong phòng
họ lấy một món đồ. Rồi họ trở ra với một mẫu giấy, một cây bút lông, và một lưỡi
dao cạo. Một lần nữa họ lại viết bằng chữ Hán để nói với ông ngoại tôi là họ rất
gắn bó với tôi, với đất nước chúng tôi và họ muốn bày tỏ lòng trung thành tuyệt
đối của họ với tôi theo phong cách truyền thống của người Nhật. Họ lần lượt dùng
dao rạch ngón tay út, để máu nhỏ vào đầu ngọn bút đoạn viết lên tấm giấy. Ông
ngoại tôi giải thích cho tôi hay là họ xem tôi như một người anh em và thề hoàn
toàn tận tụy với tôi. Rồi họ giao cho tôi miếng giấy có chữ viết bằng máu và
biêủ tôi cất đi cho tới khi chúng tôi có thể gặp lại nhau ở Việt Nam hay Nhật
Bản, khi chiến tranh chấm dứt.
Yamashita và Narita ở bên tôi suốt thời gian, làm việc với tôi, đi tuần với tôi,
ăn với tôi và luôn luôn nằm ngủ cạnh tôi. Nhưng rồi một ngày, viên Chính uỷ tới
gặp tôi thông báo là anh mới nhận được lệnh từ chính phủ trung ương đưa hai
người ra Hà Nội. Đó là một tin rất buổn đối với tôi và đối với họ. Khi họ chào
từ biệt thì mắt họ và mắt tôi đẫm lệ và họ nói họ sẽ trở về ngay khi nào về
được. Không bao lâu tôi được tin họ đang ở Hà Nội cùng với một toán lính Nhật đã
đứng về phía kháng chiến. Toán lính này được phiên chế vào một đơn vị đặc biệt
để cùng chiến đấu chống lại quân Pháp. Tôi đã giữ mảnh giấy màu đỏ với
lời thề viết bằng máu của họ, nhưng sau khi tôi bị quân Pháp bắt rồi thả ra, bọn
lính tuần và bọn mật vụ Pháp thường xuyên tới nhà chúng tôi sục sạo tìm du kích
quân và tài liệu tuyên truyền. Tôi sợ chúng có thể tìm được tài liệu nên tôi đã
đốt cả mảnh giấy ghi lời thề bằng chữ Nhật, chỉ giữ lại tấm cạc có địa chỉ của
họ. Năm 1970, sau khi nghe mấy người bạn Nhật cho biết đơn vị lính Nhật đặc biệt
đã được giải thể và các thành viên trong đó đã hồi hương trở về nước Nhật, tôi
ghi lại địa chỉ của họ và nhờ mấy người bạn Nhật của tôi ở Tokyo tìm giúp, nhưng
buồn thay không ai tìm thấy họ. Tôi rất buồn khi nghe tin này, và trong lòng tôi
luôn luôn mang hình ảnh của họ. Sau
khi Yamashita và Narita đi rồi, tôi vẫn tiếp tục hoạt động cho tổ chức Việt Minh
ở địa phương, nhưng rõ ràng là lý lịch gia đình tôi không được đánh giá cao với
các Chính uỷ được biên chế ở mỗi đơn vị, những người chỉ huy thật sự. Tôi có thể
nhìn thấy trong ánh mắt họ và cảm thấy trong thái độ của họ sự nghi ngại đối với
đám bạn bè tôi và bản thân tôi; chúng tôi biết rằng họ chỉ giữ chúng tôi chừng
nào họ còn cần đến chúng tôi. Nhưng lòng mong muốn phục vụ đất nước mạnh hơn sự
thiếu thiện cảm của những người cộng sản nên chúng tôi vẫn tiếp tục ở lại giúp
họ.
Trong thời gian này gia đình tôi đã đi tản cư để tránh bị kẹt trong chiến trận.
Cha mẹ tôi cùng với các em tôi và người giúp việc đã bỏ nhà cửa để lên vùng rừng
núi cùng một gia đình người bạn. Trên đường đi lánh nạn họ bị bọn lính Pháp chặn
lại, chúng cướp con bò của chúng tôi và đánh đập em Đức của tôi. Việc này lại
càng làm tôi thêm quyết tâm tống cổ bọn Pháp ra khỏi Việt Nam. Một
ngày kia trong khi đi tuần với năm người lính mới, tôi bị bắt làm tù binh và bị
thẩm vấn suốt ngày đêm không nghỉ, giữa các lần thẩm vấn là lao động khổ sai.
May thay, một viên cảnh sát chìm làm việc cho Pháp, và là một học trò cũ của cha
tôi – cái người tôi đã giúp trên chuyến xe lửa từ chiến trường về, anh ta đã
nhận ra tôi. Anh vội báo cho cha tôi hay, ông liền đi tới gặp vị Thống đốc Trung
kỳ, Trần Văn Lý, ông này can thiệp với viên chỉ huy quân sự Pháp đề nghị thả tôi
ra và đặt tôi dưới sự quản chế của ông. Tôi được dẫn tới văn phòng Thống đốc và
được nghe một bài giảng về hiểm họa Cộng sản. Cuối cùng ông ta nói vì tôi là một
sinh viên rất giỏi ông sẽ cho tôi học bổng ở nước ngoài để tiếp tục việc học và
trở về phục vụ chính phủ. Vậy là năm 1947 tôi vào Sài Gòn để đáp tàu qua Pháp.
Nhưng tại Sài Gòn một tên mật vụ Pháp đã chờ sẵn tóm tôi về tra vấn thêm một đợt
nữa; chỉ sau khi tôi báo động cho ông Thống đốc Trung kỳ, y mới thả tôi ra và
không làm phiền tôi nữa. Tôi đáp tàu Felix Roussel, một chiếc tàu buôn cũ, ở đó
tôi gặp khoảng mười hai sinh viên cũng đi Paris học. Nhưng tất cả bọn họ đều là
con nhà giàu và không ai cần tới học bổng như tôi. Có hai người từ Huế, và tôi
nhận ra họ là cháu của một vị giáo sư dòng dõi hoàng tộc đã dạy tôi ở trường
Khải Định năm năm trước, ông Ưng Quả. Họ rủ tôi theo họ, vì họ được một người
anh họ cũng trong hoàng tộc, đang hành nghề luật sư ở Paris bảo trợ, và họ biết
rằng tôi nhà nghèo, lên đường tới Paris không một xu dính túi. Chuyến đi quả là
vất vả ngay cả đối với một thanh niên như tôi. Bọn tôi ngủ võng và ăn toàn đậu
lăng. Qua Địa Trung Hải, tàu bị những cơn bão lớn nhồi rất dữ suốt mấy ngày; làm
tôi ngày nào cũng say sóng gần cả tuần lễ. Khi tàu cặp bến Marseilles, lại một
tên cảnh sát chìm người Pháp lên tàu điệu tôi về bót thẩm vấn thêm một lần nữa!
Hắn hỏi tôi tại sao tôi lại muốn qua Pháp trong khi tôi có thể ở lại phụng sự
cho Việt Minh với một binh nghiệp sáng chói vì tôi mới có hai mươi hai tuổi mà
đã mang cấp bậc Trung tá. Khi tôi cho hắn biết tôi được Thống đốc Trung kỳ bảo
trợ và tôi muốn qua Pháp học để về phục vụ chính nghĩa Quốc gia, hắn mới thả cho
tôi về.
Chúng tôi tới Paris bằng xe lửa. Ra đón chúng tôi tại sân ga là hoàng thân Bửu
Lộc, anh em họ với hai người bạn đường của tôi là Bửu Hàm và Bửu Hào. Cùng với
người anh họ ông là Bửu Hội, một nhà khoa học về nguyên tử nổi tiếng, ông đãi
chúng tôi một bữa tiệc cơm ra trò. Tôi học trường Lakanal ở thị trấn Bourg La
Reine gần Paris để theo các khoá dự bị trước khi thi vào trường Cao Đẳng H.E.C.
(Hautes Études Commerciales), ngôi trường thương mại ngân hàng danh tiếng nhất
nước Pháp. Vì tiền học bổng của tôi chỉ đủ cho những bữa ăn sinh viên, nên mỗi
cuối tuần tôi phải đi làm để kiếm thêm tiền trả học phí và nơi trọ. Cứ hai ngày
mỗi tuần tôi cuốc bộ qua các con đường của Paris, khoảng 25 tới 30 dặm mỗi ngày,
để mua kim may ở các cửa tiệm bách hoá gởi về cho mẹ tôi, vì suốt thời gian
trong và sau chiến tranh, Việt Nam không nhập được loại hàng đó. Ngay cả tại
Pháp lúc ấy, những sản phẩm như kim may chẳng hạn cũng phải phân phối theo tiêu
chuẩn, và mỗi cửa tiệm mỗi tháng chỉ nhận được một lượng nhỏ. Mẹ tôi bán số kim
may này rồi mua gạo, gởi từng gói nhỏ 3 ký qua cho tôi để tôi bán lại cho cộng
đồng người Việt ở đây vì gạo lúc ấy ở Pháp cũng phân phối theo tiêu chuẩn. Công
việc này khá nặng nhọc nhưng nó cho phép tôi vận động thay cho các môn thể thao
vì thiếu thời gian. Đồng thời nó là một công việc kiếm được khá tiền. Sau
đó một năm tôi thi đậu vào ngôi trường H.E.C. lẫy lừng danh tiếng, ngôi trường
hàng đầu trong lĩnh vực thương mại và tài chánh của Pháp. Thông thường sinh viên
phải mất từ 2 tới 3 năm học các lớp dự bị trước mới hy vọng thi đậu vào H.E.C.,
nhưng tôi thì chỉ sau một năm là thi đậu vào trường. Trong số hơn 1000 thí sinh,
chưa tới 200 người được thi đậu. Năm 1952 tôi tốt nghiệp với titre francais
– thi đậu như một học sinh người Pháp. Trong 3 năm học ở H.E.C. mỗi tuần tôi
cùng với nhóm anh em sinh viên chơi thân với nhau hay có cuộc thi đua từng môn
một: chúng tôi có lệ ai được điểm cao nhất thì “bị phạt”, là phải mua một chai
rượu vang để đãi cả nhóm. Tôi thường “bị phạt” cho nên phải hay mua rượu, do đó
mà tôi biết đủ loại rượu của Pháp, một điều rất lợi cho cuộc đời tiếp tân của
tôi sau này. Năm sau tôi được nhận vào trường École Nationale d’Administration
(trường Quốc gia hành chánh) là nơi đào tạo những công chức cao cấp nhất của
Pháp. Đây cũng là lần đầu tiên trường ENA nhận sinh viên các nước thuộc địa; vì
tôi không có quốc tịch Pháp, nên chỉ được học năm giảng bài, chứ không được tham
dự hai năm tập sự vốn chỉ dành cho sinh viên dân Pháp.
Giáo sư Henri Fournier, người rất mến tôi, khuyên tôi trở về Việt Nam làm việc
cho Ngân Hàng Trung Ương Đông Dương (Lào - Cao Miên - Việt Nam), lúc ấy hầu như
chỉ do người Pháp điều hành. Ông Fournier giới thiệu tôi với René Frappart, Tổng
giám đốc ngân hàng, một người có khuynh hướng xã hội và rất có cảm tình với Việt
Nam.
Sau khi tốt nghiệp ở H.E.C., kỳ hè năm đó tôi được chọn đi Hoa Kỳ
học “lối sống Mỹ” (the American way of life). Mỗi nước được chọn hai sinh viên
đại diện sau một kỳ thi, và tôi được chọn cùng một sinh viên Pháp. Nhà chức
trách Pháp không cho tôi đi vì tôi không phải dân Pháp, nhưng Hội International
Fund ở New York, phụ trách việc này, không chịu cho thay sinh viên
khác.
Cuộc hành trình bắt đầu từ Ba Lê, qua Amsterdam, Hà Lan, rồi qua
Shannon ở Ireland, mới bay đến New York, tất cả hơn 36 tiếng đồng hồ bằng máy
bay DC4.
Khi đến New York, chúng tôi được hội
International Fund cho ngủ một đêm ở khách sạn. Đó là đêm duy nhất chúng tôi ở
khách sạn trong suốt cuộc hành trình.
Sáng hôm sau, tôi đáp xe buýt đi Chicago, rồi
Peoria, Illinois, để gặp ông Jordan, người bảo trợ của tôi, và tôi vào ở YMCA để
chờ đến tối hôm sau ra nói chuyện trong buổi họp của hội Rotary. Sau buổi nói
chuyện và trao đổi với hội viên về vấn đề Việt Nam và chuyện du học ở Ba Lê, một
người hội viên kêu tên tôi và tình nguyện đem tôi về sống hai ngày với gia đình
họ. Tôi được mời như vậy thêm hai lần nữa trước khi rời khỏi Peoria; và tôi đã
sống với các gia đình Mỹ gốc Ý, gốc Anh và cả gốc da đen ở vùng chung quanh
Chicago. Đây là điểm chánh trong chương trình học lối sống của dân Mỹ. Sau Peoria, tôi lên đường đi các tỉnh khác, từ Chicago đến Galveston, Texas và từ đó trở về New York. Tôi đã sống với 28 gia đình Mỹ, trong đó có đủ dân gốc Ý, Đức, Mễ, Pháp v.v… Trong những ngày ở với các gia đình Mỹ như vậy, tôi có được cơ hội học hỏi rất nhiều về đời sống của họ, tập quán của họ, sự suy nghĩ, phân tách, nhận định của họ. Nhờ sự học hỏi trong các gia đình Mỹ và bao nhiêu năm lăn lộn trong xã hội Mỹ, chen chúc sống cạnh người dân Mỹ cùng giới trí thức của họ, tôi đã biết rất nhiều về tâm lý người Mỹ và nhất là sự suy nghĩ của họ trên phương diện chính trị. Vì vậy mà sau này, bắt đầu năm 69-70, khi phong trào chống chiến tranh Việt Nam khởi sự tại Mỹ, tôi hiểu ngay diễn biến của thời cuộc, tác động của cuộc chiến đối với quần chúng, quốc hội, và đường lối chính trị của các cơ quan chính phủ Mỹ. Bắt đầu là một số sinh viên chống chiến tranh, sau đó lan rộng ra quần chúng, dần dần Quốc hội phải đứng về phía dân và buộc Tổng thống phải thay đổi chính sách. Bắt đầu từ năm 1969 và nhất là từ năm 1971 mỗi lần về Việt Nam, tôi trao đổi nhiều lần với T.T. Thiệu và nhân viên chánh phủ, cùng với các lãnh đạo chính trị, nhận định của tôi về phong trào chống chiến tranh ở Mỹ, và tôi tiên đoán sẽ sớm có ngày Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam. Thiệu không tin vì chung quanh ông ta, tòan là những cậu trẻ học ở Mỹ về không có kinh nghiệm về cơ cấu chính trị Mỹ, cho rằng Mỹ không bao giờ bỏ Việt Nam, và Tổng thống Mỹ Nixon không bao giờ bỏ rơi chính phủ miền Nam. Tiếc thay lãnh đạo miền Nam đã không nghe lời cảnh cáo của tôi.
III. SỰ NGHIỆP ĐẦU
TIÊN
(1954–1965)
Năm 1954 tôi trở về Việt Nam làm
việc cho Ngân Hàng trung ương[i]
Đông Dương, Lào, Cao Miên, Việt Nam (Institut d'Émission des États Associés du
Laos, du Cambodge et du Viêt Nam) dưới quyền của Tổng giám đốc René Frappart và
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Victor Cusin. Nhờ có kiến thức chuyên môn và tận tâm
làm việc, tôi được thăng hạng rất nhanh, vượt qua nhiều người Pháp và tất cả
nhân viên người Việt vào làm việc trước tôi.
Vài tháng sau, lãnh tụ phe Quốc gia Ngô Đình Diệm về nước để thành lập chính phủ
đầu tiên. Ông cần một cố vấn tài chánh tín cẩn. Ông sai người phụ tá của ông là
Tôn Thất Cẩn tới Ngân Hàng Trung Ương Đông Dương, để hỏi ban điều hành, ai có
thể làm cố vấn tài chánh cho ông. Chủ tịch Hội đồng Quản trị Victor Cusin và
Tổng giám đốc René Frappart đề cử tên tôi. Sau này tôi được nghe kể lại là khi
Diệm nhìn thấy tên tôi, ông đã mỉm cười và la Cẩn: “Thằng nhỏ này thường đem hoa
lan tới nhà tôi và tôi thường xoa đầu nó để cám ơn. Làm sao nó làm cố vấn tài
chánh cho tôi được!”. Trong đầu óc ông, tôi vẫn còn là thằng nhỏ thường được cha
sai mang hoa tới ông vào những năm 30 xa xôi ấy. Ông không tin được thằng nhỏ đó
bây giờ đã lớn, học hành thành đạt, ra làm việc và đã hơn 30 tuổi. Những người
bạn ông và một số thành viên nội các biết tôi, khi nghe Tôn Thất Cẩn kể lại, đã
cho Diệm hay là thằng nhỏ đó đã trưởng thành và trở nên một thành viên cao cấp
rất có khả năng trong ban giám đốc Ngân Hàng Trung Ương Đông Dương. Họ nói với
ông thằng nhỏ đó là người tốt nhất mà ông có thể kiếm được.
Vài ngày sau ông cho gọi tôi vào và yêu cầu tôi làm cố vấn tài chánh và kinh tế
cho ông. Theo phong cách riêng của mình xưa nay, ông không ký một sắc lệnh bổ
nhiệm tôi, mà chỉ tuyên bố cho tất cả mọi người biết – các thành viên nội các
chính phủ, đặc biệt là người em đầy uy quyền của ông, Cố vấn Ngô Đình Nhu, và Bộ
trưởng phủ tổng thống, Nguyễn Đình Thuần, người luôn luôn làm tấm bình phong với
bất cứ ai muốn gặp ông Diệm, dù Bộ trưởng
hay Tướng lãnh. Tôi nghe nói là hai ông Nhu và Thuần đều rất khó chịu về việc
tôi có thể trực tiếp gặp Tổng thống Diệm: ông đã ra lệnh cho sĩ quan tùy viên
đưa tôi vào ngay mỗi lúc ông ta gọi tôi vào, và cũng vì vậy mà sau này cả hai
hay dèm pha và phá rối công việc của tôi. Việc không có giấy tờ bổ nhiệm chức vụ
công khai đã giữ cho tôi tránh khỏi những rắc rối về sau khi các Tướng lãnh lật
đổ và giết ông Diệm; tất cả những thành viên nội các và phụ tá của ông, như Bộ
trưởng Phủ Tổng thống Nguyễn Đình Thuần và Bộ trưởng Kinh tế Hoàng Khắc Thành
chẳng hạn – người đã thay thế tôi ở Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và đã thay đổi
chính sách ngân hàng để giúp bà con bè bạn của các ông Nhu, Thục, Cẩn, – tất cả
đều bị bắt và bỏ tù sau cuộc đảo chánh năm 1963. Nhưng việc này cũng gây cho tôi
một số phiền toái khi tôi cầm đầu những cuộc thương thuyết mật với Thủ tướng
Antoine Pinay vì bị Nhu và Thuần phá. Tôi không quan tâm đến việc không được bổ
nhiệm chính thức, cũng không quan tâm đến cấp bậc, danh dự, thăng thưởng vân
vân… Tôi chỉ muốn làm việc và phục vụ đất nước. Từ đó cho tới năm 1962, khi tôi
bất đồng ý kiến mạnh mẽ với ông và từ chức, Tổng thống Diệm đã hỏi ý kiến tôi
trên tất cả các vấn đề kinh tế, tài chánh và tiền tệ. Là người đại diện cho cá
nhân ông, tôi đã cầm đầu những cuộc thương thuyết với Pháp, Mỹ, Nhật và các nước
khác. Trong một vài trường hợp, sau khi tôi đã kết thúc những cuộc thương lượng
bí mật và quan trọng, giải quyết các vấn đề và thu được những kết quả mong muốn,
ông Diệm sẽ bổ nhiệm một phái đoàn chính thức, nhưng tôi vẫn được yêu cầu luôn
luôn ở bên cạnh để can thiệp trong trường hợp có khó khăn giữa hai phái đoàn.
Điều này đã xảy ra trong vụ ký kết thoả ước với phái đoàn Pháp trong dịp Thủ
tướng Pháp Antoine Pinay qua thăm
Tổng thống Diệm. Ông Diệm thường gọi tôi vào dinh
Độc Lập mỗi ngày, có khi rất sớm, khoảng 5 tới 6 giờ sáng, và có khi rất khuya.
Ông thường tiếp các Bộ trưởng, các viên chức cao cấp và các Tướng lãnh trong văn
phòng riêng của ông. Căn phòng này cũng được dùng làm phòng ăn và phòng nghỉ
trưa, và ông luôn luôn biểu tôi ngồi kế bên phải ông. Không ai dám hút thuốc
trước mặt ông trừ Vũ Văn Thái và tôi. Khi tôi đốt một điếu thuốc trước mặt ông,
thì ông đẩy cái gạt tàn về phía tôi. Ông thường hút thuốc điếu này nối điếu
khác, rồi chỉ sau vài hơi đã dụi đi, nhưng vẫn hút. Nhắc tới đây, tôi nhớ lại chuyện
quyết định bỏ thuốc lá sau nhiều năm “nghiện ngập”. Ngày 31-12-1965, sau bữa
tiệc cuối năm và điếu thuốc cuối cùng, tôi đã liệng qua cửa sổ tất cả “đồ nghề”,
gồm bật lửa bằng vàng, hộp thuốc lá đắt tiền và tất cả số thuốc lá còn lại, tự
thề không bao giờ cầm lại điếu thuốc nào nữa. Xong tôi gọi bồi cho hay
đừng lượm vào cho tôi. Quả thật là địa ngục, trong suốt cả tháng trời sau khi bỏ
thuốc lá. Tôi thèm thuốc lá một cách tệ hại và có nhiều lần khi đi tiếp tân, có
người đưa thuốc mời, tay phải tôi vừa chìa ra định đón lấy điếu thuốc, thì tự
nhiên tay trái kéo tay phải về. Cũng từ đó tôi bỏ thuốc vĩnh viễn, không bao giờ
hút trở lại. Bỏ thuốc lá rất khó, đòi hỏi nhiều nghị lực và can đảm.
Mọi người ai cũng sợ Diệm; một
vài người không dám xoay lưng lại ông khi đi ra. Rất thường khi các thành viên
nội các và các Tướng lãnh phải chờ ở ngoài văn phòng một lúc lâu, trong lúc viên
sĩ quan tùy viên lại nhận chỉ thị của ông phải đưa tôi vào ngay lập tức. Ông
Diệm không hề có ý niệm về nghi thức và cũng không coi trọng nghi thức, và người
ta rất khó chịu với tôi về việc tôi được ông tiếp đãi đặc biệt như vậy, tuy đó
không phải lỗi tôi. Trong đầu óc Diệm, các vấn đề tiền tệ và tài chánh là rất
quan trọng, và những thắc mắc của ông phải được giải đáp ngay tức khắc. Ông
sống, làm việc và thường ngủ trong văn phòng. Đời sống của ông giản dị, có nhiều
lần tôi được gọi vào giữa bữa cơm trưa, món ăn của ông ít, giản dị và hầu như
lúc nào cũng là món Huế. Ông không có chút ý thức về các giá trị vật chất bởi
ông chưa bao giờ sống ngoài vòng gia đình và đám người thân cận, và không bao
giờ biết tới đời sống thường nhật của dân chúng.
Ông Diệm có nhiều nhược điểm, ảnh
hưởng rất nhiều đến việc chọn người cộng sự hay nhân viên chánh phủ. Ông thích
được khen, ông thích nghe những lời nịnh hót và thường bị phản bội bởi những
người biết cách nịnh hót ông. Ông chọn thành viên nội các, tướng lãnh và viên
chức dân sự cao cấp giữa đám người trong gia đình, người đồng hương với ông,
người theo đạo Thiên Chúa, người từ các gia đình mà ông quen biết, bà con bạn bè
thân thuộc với ông, hoặc là bà con bạn bè với những người bạn của ông - những
người mà ông tin là sẽ trung thành với ông. Ông không bao giờ chọn người trên
căn bản năng lực, mà chỉ dựa trên lòng trung thành của họ. Những người này chỉ
biết nịnh bợ ông; họ che mắt ông, họ dấu sự thật, làm cho ông mất hết khả năng
phán đoán, và khó lòng biết bề trái bề mặt ở đời. Dù sao, ông cũng biết đó là
những người không làm được việc, nên ông đặt bên cạnh họ những người chuyên môn
để cho công việc được chạy suông sẻ.
Khi ông ở nước
ngoài mới về xứ để lập chánh phủ, ông cần một chuyên gia để giúp ông; theo lời
đề nghị của thượng cấp của tôi, ông mời tôi làm cố vấn cho ông, và tôi đã quan
hệ mật thiết với ông; nhưng khác với
những người chung quanh ông, tôi không chịu nịnh bợ ai, không chịu lòn cúi ai,
không chịu hạ mình chiều ai. Tôi từ chối không vào đảng Cần Lao của ông Nhu, tôi
cũng không chịu bỏ “đạo” Khổng của tôi để vào Thiên Chúa giáo. Tôi cũng không
chạy theo hầu đức cha Ngô Đình Thục, hay hàng năm ra Huế “hầu” cậu Cẩn, như một
số các Bộ trưởng và Tướng lãnh. Tôi hoàn toàn độc lập, nên tôi chỉ làm việc theo
lương tâm của tôi, là phục vụ đất nước và dân chúng. Không ai bắt buộc được tôi
làm việc gì trái với công tâm. Vì vậy mà tôi đụng chạm rất nhiều với đám người
nịnh bợ Diệm, vợ chồng Nhu, Thục, và Cẩn...
Và khi tôi bất đồng ý kiến với ông, mặc dầu ông
không muốn tôi ra đi, tôi cũng không ngần ngại xin từ chức, như năm 1962, khi
tôi thấy những người nịnh bợ bao vây ông, làm ông mất hết sự sáng suốt và không
còn thấy rõ tình thế đất nước nữa.
Không ai dám từ chối Diệm một điều gì. Nhưng tôi
đã từ chối lời yêu cầu của ông nhờ tôi giúp đỡ công việc làm ăn của cha Thục;
tôi từ chối vì công việc của ông này toàn dựa vào sự giúp đỡ của chánh phủ, và
cách làm việc rất bê bối, thiếu trật tự và nền nếp của một công ty thương mại
làm ăn đứng đắn, đúng pháp luật. Nhưng tôi vẫn phục và nể ông Diệm, vì sau khi
nhờ tôi có một lần đó trong suốt 7 năm trời tôi làm việc bên cạnh ông và tôi đã
từ chối, không bao giờ ông can thiệp vào công việc làm của tôi nữa. Phần nhiều các Bộ trưởng, các
Tướng lãnh hay gọi ông bằng Cụ; tôi gọi ông bằng Tổng thống; ông không già đến
đỗi phải gọi ông bằng Cụ. Các Bộ trưởng, các Tướng lãnh, có khi già hơn ông,
cũng xưng "con" với ông; tôi chỉ xưng "tôi" với ông, đúng như lễ nghi. Ông không
phải là cha tôi, nên tôi không xưng con với ông được, tôi không phải là đầy tớ
của ông để phải xưng con với ông.
Ông Diệm làm việc rất nhiều, cả
ngày lẫn đêm, bởi ông chẳng có trò giải trí nào, không chơi môn thể thao nào,
không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào. Môn giải trí duy nhất của ông là đi
thanh tra các dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới, các khu định cư mới,
những gì mà ông tin rằng ông đã làm vì quyền lợi dân chúng. Bởi vì ông rất nôn
nóng nhìn thấy những việc này tiến triển nhanh chóng, nên những viên chức có
trách nhiệm thường gian lận và nói dối ông. Một ngày nọ, khi tôi đi thăm vùng
đồng bằng sông Cửu Long, dân chúng trong vùng đã chỉ tôi xem những cái cây mới
mà viên Tỉnh trưởng bắt họ trồng trong một dự án tái định cư để ông Diệm đi
thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lão địa phương, người tài xế của tôi đã
nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là một cành cây mới cắt được cắm xuống đất
ướt! Ở nông thôn người ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống và tôi dám nói sự
thật với ông, vì vậy họ không ngần ngại tiết lộ các trò gian lận và những cuộc
trình diễn dỏm của đám Tỉnh trưởng và Quận trưởng. Ông Diệm luôn luôn tự hào là đã
được bầu lên trong một cuộc trưng cầu dân ý và dân chúng vẫn tiếp tục tôn sùng
ông vì lòng tận tụy của ông đối với đất nước và nhân dân. Mãi tới ngày cuối cùng
ông vẫn tin tưởng rằng mọi người thương yêu ông, và ông rất được lòng dân. Vì
vậy khi ông khởi đầu một dự án cho dân chúng, ông thường yêu cầu nhân dân tình
nguyện. Nhưng nhân dân trong các làng quê thường rất nghèo, và những người tình
nguyện chỉ có thể bỏ công việc đồng áng của mình một vài ngày thôi. Biết rằng
ông Diệm thích nhìn thấy một số lượng lớn người tình nguyện không đòi tiền công
làm việc tại các dự án mới, các viên Tỉnh trưởng thường bắt dân làng làm việc
ròng rã hàng tháng trời không tiền, thậm chí không hổ trợ thức ăn hay chỗ ở. Thế
rồi họ nói dối với Diệm, tâu với ông rằng hàng trăm người ông nhìn thấy trên
công trường đều là dân tình nguyện. Một ngày kia tôi tới thăm Sóc Trăng nơi đang
xây dựng một sân bay địa phương. Khi tới đó vào giữa buổi trưa, tôi trông thấy
mấy trăm người dân đang ngồi ăn bữa cơm trưa đạm bạc của họ và nghỉ ngơi ở hai
vệ đường; họ nằm la lết trên đất, có người có chiếu, có người không. Tò mò muốn
coi tận mắt cái dự án này và nói chuyện với dân chúng, tôi dừng xe và bước ra
ngoài nói chuyện với mấy người nông dân. Một vị bô lão địa phương đi theo tôi
trong chuyến thanh tra này nói với những người đang đứng quây quanh tôi rằng họ
có thể nói thật hết với tôi, vì tôi là Cố vấn của Tổng thống Diệm và tôi luôn
luôn báo sự thật cho ông hay. Thế rồi một vài người nông dân đến bên cạnh tôi,
và trong khi mắt đảo quanh coi có mật thám hay không, ngập ngừng nói với tôi
rằng họ bị ép phải tình nguyện làm việc theo lệnh viên Tỉnh trưởng, rằng họ phải
bỏ mọi công việc đồng áng, phải rời gia đình, tự đem theo thức ăn để đến đây làm
việc mà không có lấy một xu tiền công, thức ăn hay chỗ ở, trong thời gian ít
nhất là một tháng mỗi lần. Khi tôi quay trở về Sài Gòn và
báo cáo chuyện này với Tổng thống Diệm, ông nổi trận lôi đình và biểu người phụ
tá gọi viên Tỉnh trưởng Sóc Trăng ngay lập tức. Tôi không biết chuyện gì xảy ra
sau khi tôi rời dinh Độc Lập, nhưng ngày hôm sau khi tôi trở lại, ông Diệm nói
với tôi rằng những người nông dân mà tôi gặp đã nói láo, thật ra mọi người đều
sung sướng được tình nguyện xây dựng phi trường cho tỉnh nhà. Tôi nói gì bây giờ
với ông ta? Người của ông nói dối ông và phản bội ông bởi vì ông thích nghe
những câu chuyện êm tai; họ biết rõ điều ấy và sẵn sàng bịt mắt ông. Một lần khác tôi tới thăm một
vùng kinh tế mới gần Mỹ Tho; tôi nhìn thấy một dãy hàng cây ăn quả dọc lộ có vẻ
như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước tới coi. Một người nông dân tiến tới
phía tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cái cây hay không. Anh ta nhổ lên một
cây và đưa cho tôi: đó là một cành cây được cắt khỏi thân cây và cắm xuống đất.
Anh ta lập tức biến mất, rõ ràng sợ bị nhìn thấy nói chuyện với người lạ. Sau
này tôi được biết là những việc như vậy xảy ra rất thường xuyên, bởi vì các viên
Tỉnh trưởng và Quận trưởng đều muốn tỏ cho Ông Diệm thấy là họ đã mở mang các dự
án mới một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm đánh giá cao, muốn “ghi điểm”
và thăng chức. Tôi nghe nói có một lần ông đến thăm một dinh điền mới với viên
Trung tá chịu trách nhiệm về khu dinh điền này. Ông cầm xem một cành cây có
trái; bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, và ông biết là nó mới được cắm vào. Ông
quay lại nhìn viên Trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông la hét và cầm cây ba ton của ông đánh vào người viên Trung
tá. Ông này quì xuống lạy xin tha tội, mặt tái mét và nước mắt rưng rưng. Vài
ngày sau viên Trung tá bị cách chức và đày đi vùng nước độc. Ông Diệm rất ngây thơ. Ông dễ tin
người, đặc biệt là với những ai biết cách nói láo khi phụ trách những dự án
“cưng” của ông.
Ông là một loại thầy tu
kín suốt đời. Ông chỉ ở trong nhà, trong văn phòng, và trước đây là trong tu
viện, không bao giờ ra ngoài trà trộn với người dân. Ông không bao giờ lấy vợ,
chỉ sống với anh em của mình. Ông không biết gì về cuộc sống và cũng không có
một ý thức nào về trị giá tiền bạc. Có một lần, để thưởng cho một người giúp
việc đã phục vụ ông ngày đêm, ông cho phép người này ra phố xả hơi và giải trí.
Ông cho anh ta 2 đồng bạc để hớt tóc. Thế nhưng vào lúc ấy, giá hớt tóc cao hơn
nhiều, khoảng 20 đồng. Một vị Bộ trưởng của ông muốn tỏ cho ông thấy là anh ta
nghèo khổ và thanh liêm như thế nào, đã nói với ông rằng anh ta chỉ có 2 cái áo
sơ-mi! Diệm tin anh ta! Vậy nhưng vị Bộ trưởng này sau khi thoát khỏi Việt Nam sau cuộc
đảo chánh 1963 đã sống một cuộc đời xa hoa suốt 40 năm mà không cần phải làm
việc! Chỉ với số tiền mà anh ta đã tích luỹ được sau mấy năm làm Bộ trưởng! Ông
Diệm không có ý thức gì về thực tại. Ai cũng có thể lừa ông nếu biết được điểm
yếu của ông, biết ông thích những gì và muốn nghe những gì. Những chuyện như vậy
đã làm cho tôi thất vọng, làm cho tôi mất dần niềm tin nơi ông và góp phần vào
việc tôi từ chức năm 1962 sau này. Ông
Diệm hỏi ý kiến tôi về các vấn đề tài chánh, kinh tế và tiền tệ và chỉ thị cho
tôi giải quyết những việc mà lẽ ra phải do các vị Bộ trưởng Tài chánh, Kinh tế
và Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương giải quyết. Ông hiếm khi thảo luận các vấn đề
kinh tế tài chánh trong các buổi họp nội các. Ông thích thảo luận các vấn đề
quan trọng nhất với tôi trước đã, lấy quyết định rồi sẽ cho ý kiến trong buổi
họp nội các, và chỉ thị các Bộ trưởng thi hành những quyết định của ông. Tôi
được bổ nhiệm làm hội viên của Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ, đây là cơ quan thảo
luận và quyết định mọi vấn đề tài chánh, kinh tế và tiền tệ. Mặc dầu Ngân Hàng
Trung Ương đã có một hội viên là Thống đốc trong hội đồng này. Ông Diệm yêu cầu
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đưa thêm tên tôi vào trong Hội đồng bởi vì như
ông nói, ông muốn có một chuyên gia trong hội đồng, các thành viên khác đều là
các chính trị gia được bổ nhiệm. Tiếng nói của tôi rất có ảnh hưởng, và các quan
điểm của tôi thường được chú ý hơn hết, bởi các thành viên Hội đồng biết rằng
tôi có kiến thức chuyên môn và tôi luôn luôn cẩn thận nghiên cứu các vấn đề
trước khi vào họp. Mặc dù tôi chỉ là Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng Quản trị
của hai ngân hàng (Ngân Hàng Quốc Gia và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, lớn nhất
lúc bấy giờ), tôi vẫn được coi là người có thẩm quyền nhất trong các lãnh vực
tài chánh và tiền tệ. Những quan chức và đại diện của các chính phủ bạn luôn
luôn yêu cầu gặp tôi để bàn những vấn đề quan trọng bởi vì họ biết rằng gặp các
Bộ trưởng liên quan sẽ không có kết quả bao nhiêu.
Tôi
còn nhớ một hôm tôi được Phó Đại sứ Mỹ Palmer mời cơm tối; khi tôi đến, tôi giật
mình thấy hai vợ chồng Nhu ở đó, và bàn ăn chỉ có mỗi hai người đó thôi. Sau bữa
cơm, khi đứng nói chuyện, tôi thấy bà Nhu ghé vào tai Palmer nói nhỏ. Sau khi cả
hai ra về, viên Phó Đại sứ cho tôi hay, bà Nhu hỏi ông tôi là ai mà được mời
cùng bàn với bà ta. Ông nóí tôi là Tổng giám đốc Ngân Hàng Quốc Gia và là Cố vấn
của Tổng thống; bà ta hỏi ông tại sao lại mời một ông Tổng giám đốc ngồi cùng
bàn với bà. Palmer hơi khó chịu, ông trả lời với bà rằng tuy tôi chỉ là Tổng
giám đốc, nhưng tòa Đại sứ Hoa Kỳ coi trọng hơn là các Bộ trưởng. Có lẽ bà ta đã
bực mình nên về sớm. Tuy tôi là bà con với bà, nhưng không bao giờ tôi nói ra,
bà con với bà ta đối với tôi là một cái nhục. Trái lại tôi rất thương và kính nể
cha mẹ bà Nhu là ông bà Trần văn Chương và hay lui tới thăm viếng họ lúc tôi làm
việc ở Washington. Sau ông bà Chương bị con trai là Trần Văn Khiêm giết chết. Tôi
thường được chiêu đãi và có quan hệ thân thiết với nhiều trưởng phái đoàn của
Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Úc, Trung Hoa… Những người Việt Nam làm việc trong các tòa
Đại sứ nước ngoài, các ngân hàng và các tổ chức nước ngoài thường hay cho tôi
biết là cấp trên của họ khen ngợi tôi không tiếc lời trong các bản báo cáo gởi
về nước và nhấn mạnh sự cần thiết phải gặp tôi cho các công việc quan trọng. Tôi
được nhiều Chính phủ và Ngân Hàng Trung Ương mời mọc và đãi đằng thịnh soạn mỗi
lần tôi đi công tác nước ngoài. Tuy nhiên tôi lúc nào cũng dốc lòng cho quyền
lợi chung của đất nước và dân chúng. Tôi không bao giờ nghĩ tới việc dùng những
vị trí quan trọng của mình trong chính phủ hay những mối quan hệ hữu hảo với các
quan chức nước ngoài để lo việc riêng hay làm giàu cho bản thân mình. Có một lần
lúc gia đình tôi sinh sống ở nước ngoài, Ngân hàng Banque de l’Indochine (Đông
Dương Ngân Hàng) đã đề nghị cho tôi vay một khoản tiền để mua cho gia đình một
căn hộ lộng lẫy ở Paris, đại lộ Grande Armée; tôi từ chối. Tôi đã có thể làm
giàu nếu tôi chịu vay tiền mua căn hộ đó, bởi vì nhà cửa ở đại lộ Grande Armée,
gần tháp Eiffel và sát Champs Elysées, thuộc loại danh tiếng và giá trị luôn
luôn tăng với mức chóng mặt. Tương tự như vậy, tôi cũng thường nhận được những
lời đề nghị hối lộ kín đáo hay trắng trợn; tôi luôn luôn từ chối và thường phản
ứng rất mạnh với những người đề nghị. Về sau khi tôi bị kẹt về tài chánh vì
những sai lầm của một người trong gia đình, mấy người bạn tôi nói tôi thật là
ngốc khi không chịu dùng ưu thế của mình để kiếm ít tiền để dành phòng những
ngày mưa gió. Vì vậy mà tôi hết sức cay đắng và giận dữ khi những kẻ thù tôi đi
rêu rao là bất cứ khi nào tôi huỷ bỏ hay sửa đổi một quyết định sai lầm mà ai đó
đã làm, thì chắc là tôi có một món tiền “lại quả” ở đâu đó. Họ không thể tin
rằng tôi không giống họ, không tin rằng vẫn có người mà động cơ làm việc không
phải là tiền. Vì
nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong chính phủ và dám có những quyết định có lợi
cho đất nước mà không để ý tới quyền lợi của các nhóm chính trị hay cá nhân
quyền thế, nhiều khi tôi đã dẫm lên chân của cả bạn bè lẫn kẻ thù và đã tạo cho
mình thêm nhiều kẻ thù. Bị đụng chạm tới quyền lợi riêng hay tới túi tiền của
họ, ngay cả một vài người “bạn” tôi cũng trở mặt và buộc tội sau lưng tôi là tôi
tham nhũng. Vì tôi chống lại quyền lợi của họ thì nhất định là tôi phải được phe
đối nghịch họ mua chuộc! Nhưng nói chung thì đa số đều hiểu và đánh giá cao sự
thẳng thắn của tôi; dù họ không thích tôi bởi tôi có tiếng là cứng rắn và không
khoan nhượng, người ta vẫn kính trọng tư cách chính trực của tôi. Các thành viên
và quan sát viên tham dự các buổi họp của Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ thích nghe
tôi phát biểu về nhiều đề tài và đánh giá cao những câu trả lời tuy thiếu tính
ngoại giao nhưng am hiểu tường tận của tôi đối với những câu hỏi của các Bộ
trưởng và các thành viên khác trong hội đồng. Còn những nhân viên thâm niên tham
gia buổi họp, xưa nay quen cúi đầu trước các ông sếp thiếu năng lực nhưng hống
hách, thì lặng lẽ vỗ tay tán thưởng mỗi khi tôi đứng lên phản công, điều mà họ
không dám làm làm vì sợ mất việc. Thỉnh thoảng gặp tôi trong hành lang, họ bước
tới khen ngợi và cổ vũ tôi cứ tiếp tục như vậy.
Tháng 7-1954, Việt Nam giành được độc lập từ Pháp. Sau thất bại Điện Biên Phủ và
sau khi đất nước Việt Nam bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc ở vĩ tuyến 17, quân
Pháp rút về miền Nam Việt Nam để lần lượt chờ lên tàu về nước. Quốc trưởng Việt
Nam lúc bấy giờ là Hoàng đế Bảo Đại đã yêu cầu ông Diệm đang lưu vong ở Mỹ về
nước để thành lập chính phủ đầu tiên. Một cuộc trưng cầu dân ý sau đó đã chấm
dứt chế độ Bảo Đại và thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà, trong lúc miền Bắc trở
thành nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Ngày
mồng 1 tháng Giêng 1955, theo một thoả thuận với nước Pháp, Ngân Hàng Trung Ương
ba nước Đông Dương, Việt Nam-Lào-Cao Miên, được tách ra làm 3 Ngân Hàng Quốc Gia
Trung Ương. Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập ngay ngày hôm ấy bởi một
sắc lệnh do Tổng thống Diệm ký. Một viên chức dân sự có nhiều kinh nghiệm hành
chánh nhưng thiếu căn bản ngân hàng được bổ nhiệm làm Thống đốc, ông Dương Tấn
Tài, một viên đốc phủ dưới chế độ Pháp trước kia, một người rất liêm chính, cần
cù, nhưng không được đào tạo hay có kinh nghiệm về ngân hàng. Ông ta đã mau
chóng chứng tỏ mình bất lực. Cùng lúc đó tôi nhận được sắc lệnh do ông Diệm ký
bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Ngân Hàng Quốc Gia. Khi ký sắc lệnh, ông Diệm gọi tôi
vào, nói tôi sẽ chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động chuyên môn, còn để việc
quản trị hành chánh của ngân hàng cho ông Tài. Tài dành thì giờ để lo toan những
chi tiết hành chánh nhỏ nhặt, luôn luôn sợ mất một cây bút chì hay ai đó chôm
mất một xu. Ông ta không bao giờ để ý đến những nhiệm vụ chính của một Ngân Hàng
Trung Ương, không bao giờ ngó ngàng tới những vấn đề tài chánh và tiền tệ quan
trọng mà đất nước đang đối mặt, việc mà một Ngân Hàng Trung Ương và vị Thống đốc
phải làm. Ông ta bị thu hút vào những công việc thường lệ và quên mất các vấn đề
tiền tệ và tài chánh cần phải được giải quyết trong buổi chuyển tiếp từ một nền
kinh tế thuộc địa qua nền kinh tế của một quốc gia vừa mới độc lập. Ông ta phạm
nhiều sai lầm mà tôi đã cố gắng lưu ý ông và đề nghị biện pháp sửa chữa, nhưng
ông thường không chịu nghe, có lẽ vì không hiểu. Cuối cùng tôi bực mình vì sự
thiếu năng lực của ông và con đường nguy hiểm mà ngân hàng đang theo, đến nỗi
tôi quyết định viết một luận văn ngắn về những vấn đề cấp bách mà quốc gia phải
đương đầu và cho in mấy ngày sau. Khi
Ông Diệm nghe những việc này, ông gọi tôi vào thảo luận rất lâu các vấn đề của
ngân hàng và của quốc gia. Cuối buổi nói chuyện dài đó ông cho biết ông sẽ bổ
nhiệm một Thống đốc mới, tuy nhiên với tư cách là một chuyên gia và một Tổng
giám đốc, tôi phải đảm nhiệm công việc điều hành. Tôi hiểu là ông sắp sửa bổ
nhiệm một chính trị gia làm vị Thống đốc Ngân hàng mới. Vài ngày sau ông chuyển
Tài qua làm cố vấn cho Tổng thống và bổ nhiệm Vũ Quốc Thúc, một người có bằng
Thạc sĩ Luật khoa, giáo sư môn Dân luật, làm Thống đốc Ngân hàng. Rồi ông lại ký
sắc lệnh tái bổ nhiệm tôi làm Tổng giám đốc, mặc dù theo đúng điều lệ của ngân
hàng, một chức vụ như vậy phải do một quyết định của Hội đồng Quản trị Ngân
hàng. Trong đầu óc ông, hình như ông cho rằng tôi phải nắm giữ chức vụ quan
trọng của một Tổng giám đốc điều hành, còn vị Thống đốc kia chỉ là một chính trị
gia bổ nhiệm mang danh nghĩa. Nhưng mọi việc lại vận hành trôi chảy bởi vì Thúc
để cho tôi lo tất cả mọi khía cạnh chuyên môn và bắt tôi đảm nhiệm tất cả các
nghiệp vụ của ngân hàng. Thúc kéo vào ngân hàng một số bạn bè và bà con hầu hết
đều xuất thân trường ốc và không hề có căn bản hay kinh nghiệm ngân hàng. Ông ta
rất sung sướng có tôi làm Tổng giám đốc điều hành. Với tư cách là Thống đốc, ông
là người chính thức đứng đầu ngân hàng và chỉ bận tâm tới các mối quan hệ hành
chánh va chính trị với chính phủ, giao phó tất cả việc chuyên môn và quản trị
ngân hàng cho tôi.
Trong những tháng đầu tiên năm 1955, trong khi rút quân ra khỏi Việt Nam, chính
quyền thực dân Pháp đã cố lật đổ chính phủ Diệm bằng cách võ trang và xúi giục
các giáo phái như Cao Đài, Hoà Hảo và nhóm giang hồ nửa hảo hớn nửa du đãng Bình
Xuyên, cùng với các sĩ quan quân đội bất mãn. Một vài sĩ quan Việt Nam, trước
đây ở trong quân đội Pháp và vẫn còn mang quốc tịch Pháp, không bằng lòng với
việc vua Bảo Đại bị phế truất và việc ông Diệm nắm quyền lực, đã tìm cách nổi
loạn với sự đồng lõa của Bộ Chỉ huy quân sự Pháp. Một người như vậy là Đại tá
Nguyễn Văn Hinh, con của nguyên Thủ tướng thời Pháp thuộc là Nguyễn Văn Tâm, đã
cố làm một cú đảo chánh để loại T.T. Diệm nhưng thất bại phải đi lưu vong. Tình
trạng khủng hoảng chính trị và xã hội tiếp sau đó đã tạo nên một sự bất an và
rối loạn trong giới kinh doanh; tất cả các mặt hàng nhập cảng chủ yếu bị dừng
lại, đe dọa nguồn cung cấp còn dễ bị tổn thương của đất nước. Giá cả tăng vọt và
chợ đen nở rộ. Các ngân hàng thương mại hầu hết do người Pháp sở hữu, từ chối
không chịu tài trợ nhập cảng vì muốn phá ông Diệm hơn là vì những lý do kinh
doanh. Những công ty Pháp đang thống trị thị trường hàng nhập khẩu từ chối không
chịu mạo hiểm và lặng lẽ giao hàng tồn kho cho những tay lái buôn Trung Hoa để
đổi lấy những món lời khổng lồ chuồi dưới mặt bàn. Bị
đánh phá bởi các cuộc nổi loạn vũ trang và bị bao vây bởi các khó khăn kinh tế,
Diệm đã phản ứng một cách can đảm. Ông đánh lại các giáo phái và lực lượng Bình
Xuyên rồi tiêu diệt họ trong một chiến dịch ngắn ngày nhưng quyết liệt do Tướng
Dương Văn Minh chỉ huy, người sau này lật đổ ông. Trong lãnh vực kinh tế, ông bỏ
tù bọn đầu cơ, trừng phạt bọn buôn bán chợ đen và thực hiện những biện pháp
quyết liệt chống lại cộng đồng người Hoa lúc ấy đang thống trị nền kinh tế và
kiểm soát nguồn gạo cùng các mặt hàng thiết yếu khác. Người Hoa vốn nổi tiếng là
những thương gia tài năng, những người đầu cơ khôn khéo, họ điều động thị trường
có lợi cho họ và có hại cho người dân Việt Nam. Với chính sách cổ điển “chia để
trị”, chính quyền thực dân Pháp luôn luôn ưu đãi người Hoa, ngược lại quyền lợi
của người Việt. Người Hoa được phép kiểm soát nền kinh tế địa phương mà không
cần phải quan tâm tới quyền lợi của dân chúng Việt Nam. Những quyền ưu tiên và
những ưu đãi đặc biệt như vậy được dành cho người Hoa trong khi người Việt thì
lại không được phép tham gia các hoạt động kinh tế quan trọng. Người Việt Nam
cũng không được giữ những vị trí cao hơn cấp Chánh sự vụ trong ngân hàng, các kỹ
sư Việt Nam tốt nghiệp từ những trường kỹ thuật danh giá nhất của Pháp cũng
không được phép thực thi ngành chuyên môn của họ ở Việt Nam và cũng không kiếm
được việc làm trong ngành dưới chế độ thực dân Pháp. Ông
Diệm cố gắng đảo ngược tất cả những điều này và khi các ngân hàng Pháp từ chối
tài trợ việc nhập cảng các mặt hàng chính yếu từ mùa thu 1955, ông quyết định
thành lập một ngân hàng thương mại Việt Nam. Ông gọi tôi vào và yêu cầu tôi
thành lập nó. Ông giao tôi một sắc luật cho phép Ngân Hàng Trung Ương cấp một
khoản tín dụng là 200 triệu đồng để thành lập một ngân hàng mới. Cầm mảnh giấy
này trên tay tôi đi tới chi nhánh Ngân hàng Banque de l’Indochine, lúc ấy đang
bị đóng cửa và thay thế bởi một chi nhánh mới có tên là Pháp Á Ngân Hàng (Banque
Francaise d’Asie) để thương lượng việc mua lại trụ sở của nó và tuyển mộ một vài
nhân viên hạng thấp sắp bị ngân hàng Pháp thải hồi. Ngân hàng Banque de
l’Indochine này, mà tổng hành dinh đặt tại Paris, trước đây gồm cả hai loại Ngân
Hàng Trung Ương và Ngân hàng thương mại của ba nước Đông Dương – Việt Nam, Lào,
Cao Miên. Chúng tôi tách trụ sở chi nhánh ngân hàng Pháp này ra làm hai phần,
một cho trụ sở chính của Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam, phần kia cho ngân hàng
thương mại sắp thành lập. Tôi dùng phần này để xây dựng Ngân Hàng Việt Nam
Thương Tín. Sau đó tôi từ chức ở Ngân Hàng Trung Ương để dành toàn bộ thời gian
cho việc phát triển ngân hàng thương mại mới. Tôi được ông Diệm bổ nhiệm làm
Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Tôi tổ chức cơ quan mới này và bắt
đầu mở cửa vào tháng Giêng năm 1956. Một người Pháp tên Roger Becker, nhân vật
số hai ở Ðông Dương Ngân Hàng, đã theo tôi về ngân hàng mới và giúp tôi một tay
đắc lực trong việc thiết lập các phương thức hoạt động và điều lệ ngân hàng.
Nhiệm vụ của tôi còn được hỗ trợ rất nhiều bởi ba lần nội trú ở ngân hàng tín
dụng Kredit Bank ở Louvain, Bỉ, năm 1948-1950, trước khi được nhận vào trường
H.E.C. Sau 4 năm làm việc miệt mài tôi đã thành công trong việc biến nó trở
thành ngân hàng thương mại lớn nhất nước.
Trong khi tôi bận rộn tổ chức ngân hàng thương mại, thì tháng 9 năm 1956 toàn bộ
hệ thống ngân hàng và cả nước rung chuyển bởi một vụ xì-căng-đan ở Ngân Hàng
Quốc Gia mà tôi đã rời khỏi trước đó. Người ta khám phá ra rằng những tờ giấy
bạc được đánh dấu để thiêu huỷ đã bị lấy cắp khỏi hầm chứa. Hai trăm năm mươi
triệu đồng, tương đương với tám triệu đô-la lúc đó hoặc vài trăm triệu đô-la
hiện nay, được đánh dấu hủy, đã biến mất. Người đứng đầu bộ phận kiểm ngân, Vũ
Đình Đa, một Chánh sự vụ có quan hệ mật thiết với giới thân cận vị Thống đốc
mới, và viên thủ quỹ chính, một người Pháp tên là André Heurtier, bị bắt và tống
giam. Vũ Đình Đa đã chuẩn bị vụ này trước đây rất lâu, bằng cách cung cấp gái
cho Heurtier và quà cáp cho một số người trong nhóm thân cận Ban giám đốc. Y đã
mua chuộc được cảm tình và sự đồng lõa bằng các món quà cáp và tặng vật. Vậy là
những người có trách nhiệm đã làm ngơ, còn ông Thống đốc và Ban tham mưu của ông
thì không hề có kiến thức chuyên môn để có thể kiểm soát chặt chẽ các hoạt động
nên không thể phát hiện được những sự chuẩn bị của Vũ Đình Đa. Diệm
nổi cơn thịnh nộ. Ông gọi tôi vào và nói rằng cảnh sát mật của ông cho biết là
vị Thống đốc mới có dính líu rất nhiều trong vụ này, cảnh sát cũng báo cáo là Vũ
Đình Đa đã chuẩn bị rời khỏi Việt Nam theo đường Lào cùng với viên Thống đốc,
tình cờ lúc ấy đang dạy ở Đà Lạt, và Đà Lạt thì gần biên giới Lào. Ông Diệm bảo
tôi ông sẽ ra lệnh bắt viên Thống đốc. Tôi khuyên ông khoan hành động vội vã,
bởi vì nếu tin tức cảnh sát không đúng thì một hành động như vậy sẽ rất có hại
cho Ngân Hàng Trung Ương và cho cả quốc gia. Diệm nói không những là cảnh sát
báo cáo những chuyện này với ông mà cả viên Tổng thanh tra tài chánh Hà Văn
Vượng cũng nói với ông là tay Thống đốc có dính líu tới vụ ăn cắp và vụ chạy
trốn. Tôi bảo ông đừng quá lo sợ và đừng nên nghe những lời báo cáo dựa trên tin
đồn trước khi một cuộc điều tra sâu hơn chứng tỏ là các báo cáo đó chính xác. Diệm
yêu cầu tôi trở về lại Ngân Hàng Trung Ương để làm một cuộc điều tra sâu rộng và
tổ chức lại toàn bộ ngân hàng để tránh một tai nạn tương tự trong tương lai.
Đoạn ông ký ngay tại chỗ một sắc lệnh bổ nhiệm tôi một lần nữa làm Tổng giám đốc
Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, cùng lúc với chức vụ của tôi ở Việt Nam Thương Tín.
Chỉ thị của ông rất rõ ràng: tôi phải xem xét kỹ lưỡng toàn bộ việc này và xác
định trách nhiệm của Ban giám đốc trong vụ này về mặt nghề nghiệp, và nếu có thể
thì cả về mặt hình sự, kể cả viên Thống đốc. Tôi phải xem xét lại các phương
thức hoạt động, tìm ra các nhược điểm và tổ chức lại các ban bệ có liên quan.
Tôi phải trực tiếp báo cáo lại với ông – và chỉ với một mình ông – bởi vì ông
ngại rằng những người khác có thể xía vào để kết án ai đó nhằm kiếm điểm và
thăng chức. Ông Diệm biết rằng không có ai trong số những người ông sắp bổ nhiệm
để thay viên Thống đốc hiện nay có kiến thức chuyên môn cần thiết để có thể điều
tra đầy đủ và tổ chức lại ngân hàng. Hà
Văn Vượng, viên Tổng thanh tra tài chánh của chính phủ, là người chính thức phụ
trách việc kiểm tra tất cả mọi cơ quan tài chánh của chính phủ, nhưng ông không
thể kiểm tra được Ngân Hàng Trung Ương, vì ông không hề có kiến thức chuyên môn
trong lãnh vực ngân hàng. Ông ta là một viên quan lại dưới thời thực dân Pháp,
chỉ có một số kiến thức hành chánh. Vượng muốn diệt viên Thống đốc để dành chức
vụ đó cho ông hoặc dành chức Bộ trưởng Tài chánh, vì vậy ông cung cấp một lô
thông tin không chính xác về vụ ăn cắp và về hành động của Thúc. Mỗi lần như vậy
tôi phải cải chính những điều mà ông ta nói về Thúc. Vượng muốn tự mình viết lấy
báo cáo. Nhưng ông không hiểu gì về ngân hàng và các phương thức hoạt động dẫn
tới vụ cắp. Ông tới gặp tôi, nhờ tôi giải thích về toàn bộ vụ việc và “năn nỉ”
xin một bản sao báo cáo của tôi. Tôi từ chối lời yêu cầu của ông và nói ông chỉ
có thể có được một bản sao sau khi tôi đã nộp lên cho Tổng thống Diệm. Ông ta
rất tức giận.
Ngang đây, tôi muốn nhân cơ hội đề cập một vấn đề rất nghiêm trọng trong việc bổ
nhiệm nhân viên dân sự ở Việt Nam, cũng như ở các nước đang phát triển trên thế
giới. Các chính phủ, các Tổng thống và các nhà lãnh đạo quốc gia khác thường
nhầm lẫn trong việc đánh giá tư cách của các ứng viên và cuối cùng thì bổ nhiệm
một người chẳng thích hợp gì với công việc, dù anh ta có đưa ra những văn bằng
cao cấp. Thay vì xử dụng năng lực chuyên môn và kiến thức thực tế để đánh giá
các ứng viên, thì thường họ lại chỉ nhìn vào bằng cấp. Nghĩ rằng bằng Ph.D hay
Thạc sĩ là văn bằng cao nhất trong lãnh vực giáo dục, họ thường tin rằng một ứng
viên có bằng Ph.D hay thạc sĩ có thể đảm nhiệm bất cứ chức vụ cao nhất nào, ngay
cả trong lãnh vực mà anh ta không hề quen thuộc. Ph.D chỉ xác nhận tư cách để
dạy học và nghiên cứu chứ không phải điều hành, trừ phi người ta phải trở lại
học từ đầu trong lãnh vực điều hành. Những người có bằng Ph.D chỉ có thể dạy học
hay nghiên cứu trong lãnh vực riêng của họ chứ không phải trong những lãnh vực
khác, và nhất là họ không thể đảm nhận công việc trong lãnh vực điều hành. Ở
Việt Nam chúng ta thường thấy loại nhầm lẫn này khi chính phủ chọn một anh Ph.D
hay Thạc sĩ ở ngành luật, hay kinh tế, hay cơ khí để điều hành một Ngân Hàng
Trung Ương. Anh ta không quen thuộc với cơ chế ngân hàng hay tài chánh, và đương
nhiên không biết cách điều hành và quản trị. Bởi vì không có kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn, anh ta sẽ bị lạc trong những phương thức rối rắm và do đó không
thể phát hiện ra những chỗ sai lầm của nhân viên. Trong một xã hội đã phát triển
thì thông thường anh ta có thể làm được, bởi thông thường các cơ chế này đã có
sẵn một guồng máy vận hành êm thắm và người có Ph.D chỉ hoạt động một phần rất
nhỏ trong toàn bộ guồng máy. Anh ta có thể hội nhập vào dần dần không mấy khó
khăn nếu anh ta biết học hỏi. Những người đảm nhận công việc điều hành phải có
khả năng hỗ trợ nhân viên dưới quyền mình, đặc biệt là khi áp dụng những phương
thức mới hay những nghiệp vụ mới. Trong một vài trường hợp, những nhân viên cấp
thấp làm việc lâu năm, rành việc đến tận đầu ngón tay, có thể giăng bẫy Sếp của
mình (“cho trượt vỏ chuối”) nếu Sếp không am hiểu công việc hay thiếu kinh
nghiệm mà lại hách dịch. Tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy trong các cơ
quan mà tôi quản trị. Kinh nghiệm riêng của tôi là tất cả mọi người, bất luận
bằng cấp cao bao nhiêu đi nữa, đều phải bắt đầu từ bước đầu tiên, nhiều khi phải
chấp nhận một công việc rất đơn giản để khởi sự. Trong sự nghiệp ngân hàng của
tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi những nhân viên cán sự mới bắt tay vào việc phải đi
một vòng khắp ngân hàng, kinh qua tất cả các bộ phận, bắt đầu bằng một công việc
ở cấp thấp nhất để lần lần tiến lên những công việc quan trọng hơn.
Bản thân
tôi đã có được một lợi thế lớn là đã được nhận vào một khóa thực tập ở Bỉ với
một “chuyến vòng quanh ngân hàng” suốt ba mùa hè trước khi tôi vào học và tốt
nghiệp trường ngân hàng. Tôi rất may mắn. Khi tôi bắt đầu thực tập ở ngân hàng
Kredit Bank, Louvain, Bỉ, tôi được gặp một viên Giám đốc Ngân hàng kiểu cũ, ông
đã che chở và dìu dắt tôi suốt con đường nghề nghiệp với rất nhiều kiến thức đầy
quyến rũ. Ông dạy tôi cách hoạt động của ngân hàng truyền thống ngày xưa, và dạy
tôi một môn mà sau này tôi không bao giờ thấy có ở các trường ngân hàng: làm sao
đọc được gương mặt khách hàng để đoán được tư cách của họ liên quan tới khoản
tiền vay. Mỗi năm, suốt ba tháng hè, và trong ba năm liên tiếp, ông đã kiên nhẫn
dạy tôi cách xem tướng mặt. Không sách vở, không lý thuyết, chỉ có một lô ảnh cỡ
lớn mà chúng tôi cùng nhau nhìn ngắm. Ông giải thích các loại nét đặc trưng trên
gương mặt người, và khi chúng tôi đi ra ngoài uống cà phê hay ăn cơm trưa, ông
chỉ gương mặt của những người qua đường và của khách hàng, để đặt câu hỏi cho
tôi, rồi ông sẽ đánh giá và giải thích. Ông cũng là một nhà tâm lý học. Ông cho
tôi biết là ông chưa bao giờ lầm, trừ khi đó là một trường hợp quá phức tạp với
nét mặt bị hủy hoại hay biến dạng vì tai nạn. Lần lần tôi cũng học được môn này
và những phỏng đoán hoặc nhận định của tôi càng ngày càng chính xác. Nhưng chúng
tôi không bao giờ cùng xem chung tướng mặt khách hàng của ông, bởi vì ông muốn
giữ bí mật cho những nhận định riêng của ông. Sau khi tôi về nước và cầm đầu
Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, tôi bắt đầu áp dụng những lời dạy của ông, không
những đối với khách của ngân hàng mà còn đối với bạn bè và những người cùng làm
việc với tôi, dĩ nhiên là bí mật. Tôi giữ những điều tôi khám phá được cho riêng
mình thôi. Kết hợp cách làm việc cổ điển và hiện đại của ngân hàng, cùng với hệ
thống kiến thức của ông, tôi chưa bao giờ bị mắc vào một khoản cho vay nào bị
hỏng hay bị mất với khách hàng của tôi; nhưng sau khi tôi rời khỏi nhà băng, Ban
giám đốc mới đã gặp không ít những chuyện nhức đầu với các khoản cho vay, nhất
là khi họ dành ưu tiên đặc biệt cho các nhà chính trị hay cho đám bạn bè không
đáng tin cậy. Một ngày nọ, viên Giám đốc phụ trách Sở xuất cảng của Ngân hàng, đưa một khách hàng người Pháp đến gặp tôi; tôi nhìn thấy tức khắc là tôi đang có một “ca” trước mắt. Nhưng vì đây không phải là chuyện vay tiền mà chỉ là chuyện một hoá đơn chuyển hàng (bill of lading) nên tôi không từ chối tiếp y. Nhưng khi người nhân viên của tôi xin lỗi về trước để đi đón con – điều đáng lý không được làm vì phận sự chưa xong – và đi ra, thì tôi gặp rắc rối với tay Pháp này. Sau khi tôi giải quyết xong hồ sơ và đặt vào trong cái khay “Đi” thì điện thoại reo: đó là viên Cố vấn kinh tế của toà Đại sứ Mỹ, ông ta đề cập lại vấn đề phá giá. Để dễ bề nói chuyện riêng và mật, tôi đứng dậy bước ra sau ghế ngồi, xây lưng lại nhìn ra phía cửa sổ. Khi xong câu chuyện tôi quay lại nhìn: tên người Pháp đã biến mất. Tôi đâm nghi ngờ, nhìn lại cái khay "Đi" thì thấy y đã đánh cắp tất cả hồ sơ – nếu người nhân viên của tôi không bỏ ra về trước, thì đâu có xảy ra câu chuyện đó dược –. Tôi gọi người tuỳ phái vào, biểu anh ta đuổi theo người Pháp nọ. Nhưng y đã mất hút. Với những giấy tờ có trong tay, y có thể tránh được các qui định bắt buộc hoán đổi ngoại tệ xuất khẩu, và ôm số tiền ngoại tệ ra đi! Tôi gọi cảnh sát để truy tìm y nhưng không có kết quả.
Một ngày kia
người phụ tá đặc biệt của tôi tới gặp tôi với một khách hàng của anh, một người
Mỹ gốc Hoa tên Bill. Khi nhìn thấy gương mặt Bill, tôi nói nhỏ với người phụ tá
là thằng cha này không tin được và vì vậy tôi không muốn làm gì với y hết. Bill
phải ra đi, và người phụ tá của tôi có vẻ không bằng lòng.
Sau này khi nghe tin người phụ trách Văn phòng kinh doanh Trung Hoa của ngân
hàng tôi, ông Lý Long Thân, người mạnh quyền nhất trong cộng đồng người Hoa, đã
mua nhiều khu đất ở Đài Bắc và ở đảo Guam chung với Bill, tôi có cảnh giác Lý về
tay này. Lý là một người rất dễ thương nhưng cũng là một người rất tự cao, ông
ta nói tôi đừng lo, bởi vì ông ta là bậc “đàn anh” còn Bill thì chỉ là thứ em
út, chưa tới cỡ phụ tá của ông, không dám làm gì đâu. Thế nhưng vài năm sau tôi
nghe nói Lý đã mất tất cả số đầu tư bất động sản ở Đài Bắc và ở đảo Guam, còn
Bill thì trở nên rất giàu có và đã chạy qua đất Saudi Arabia.
Vào
cuối những năm 50, tôi có một người bạn người Trung Hoa sống ở Đài Loan lớn tuổi
hơn tôi, nhưng rất thân vì ông đã nghe những người đồng hương của ông ở Chợ Lớn
kể nhiều về tôi. Ông có một tập đoàn công ty kỹ nghệ lớn hàng thứ ba Đài Loan;
ông là một người rất dễ thương, tánh tình rộng rãi, và chúng tôi thường đi chơi
với nhau mỗi khi tôi tới Đài Bắc. Ông cho tôi hay ông có mở một nhà máy dệt ở
Việt nam đầu những năm 50, ngay sau khi Việt nam giành được độc lập. Để chứng tỏ
là công ty này có phần hùn Việt nam, ông đưa tiền cho một người Việt gốc Hoa ở
Chợ Lớn mua cổ phần trong công ty Sài Gòn của ông, với sự ngầm hiểu rằng số cổ
phần này thuộc về ông và bất cứ khi nào ông cần, ông sẽ cho anh ta 20%, chỉ lấy
lui 80% của mình. Khi ông tới thăm tôi ở Sài Gòn, ông giới thiệu tôi với người
đàn ông kia. Khi tôi nhìn thấy mặt anh ta, tôi nói với ông bạn tôi cùng viên
Tổng giám đốc của ông, một người Mỹ gốc Hoa, rằng ông sẽ rất khó mà lấy lại
những cổ phần ấy. Ông không tin. Nhưng sau đó chính ông ta kể tôi nghe là khi
ông ta đòi lại số cổ phần kia để chuyển qua cho viên Tổng giám đốc thì ông không
thu hồi lại được, dù chỉ đề nghị lấy lại 80%.
Lần đầu
tiên tôi nhìn thấy Hoàng Khắc Thành, người mà tôi đã ra tay cứu vớt sau khi bị
sa thải ở một ngân hàng khác, tôi đã để ý thấy một nét đặc trưng tương tợ như
vậy trên gương mặt anh ta, giống hệt những gì tôi thấy trên gương mặt Âu Trường
Thanh (Tổng trưởng Kinh tế khoảng mấy tháng dưới thời Thủ tướng – Chủ tịch Uỷ
ban Hành pháp Trung Ương – Nguyễn Cao Kỳ), nó cho tôi biết những người này có
thể dễ dàng phản bạn. Đó là những gì đã xảy ra với tôi, bởi vì tôi đã cứu người
này và bảo đảm cho người kia với Kỳ, nhưng cả hai người không ngần ngại phá tôi.
Trở lại
vấn đề tập việc cho những cán sự mới vào ngân hàng, có một lần, có hai thành
viên có bằng Tiến sĩ luật bắt đầu công tác ở Ngân Hàng Quốc Gia. Giống như tất
cả những người tập sự khác, họ được yêu cầu phải đi một vòng ngân hàng, bắt đầu
ngày làm việc đầu tiên với phòng kế toán sở Viện trợ Mỹ. Vài giờ sau họ đến
phòng tôi than phiền là họ phải làm việc “tay chân” trong lúc họ có bằng Tiến
sĩ. Tôi dẫn họ về lại phòng kế toán, biểu hai người thư ký tránh ra, đặt hai
người tập sự vào đó và nói họ làm việc. Đến cuối ngày họ tới phòng tôi nói là
công việc không xứng với họ, không xứng với bằng cấp họ, và xin từ chức. Họ
không thể làm được công việc họ phải làm. Sau này tôi nghe nói họ tới Bộ ngoại
giao và được bổ nhiệm làm giám đốc ngay ngày đầu tiên!
Kinh nghiệm của
tôi, là mặc dầu mình có những bằng cấp cao nhất, khi mới bắt đầu vào một công
việc chuyên môn, mình phải bắt đầu học hỏi những công việc thấp nhất, rồi dần
dần lên đến các công việc khó hơn, ở nấc cao hơn, thì đến khi nhận một chức vị
điều hành ở cương vị cao, mình mới có đủ sự hiểu biết để điều hành công việc một
cách chu đáo và điều khiển những nhân viên dưới quyền của mình một cách hiệu
quả. Nhưng buồn thay, các sinh viên Việt Nam có bằng cao, không bao giờ chịu bắt
đầu với một công việc thấp kém để học hỏi – học nghề – nên khi đảm nhận một chức
vị cao chỉ vì có bằng cấp cao, họ không thể điều khiển nhân viên của họ và nhiều
khi có thể bị nhân viên cho “trượt vỏ chuối”, và công việc họ làm phần nhiều là
không hữu hiệu hay không thành công. Những người “nhảy băng’’ như vậy sẽ không
thể tiến triển được và phần nhiều là phải nhờ thần thế để thăng quan tiến chức.
Đó là một tệ nạn tai hại cho đất nước, và là một trong những lý do tại sao nước
Việt Nam của ta cứ lẹt đẹt chạy theo các nước láng giềng và thua kém họ 50 năm,
100 năm, mặc dầu dân ta rất thông minh và học giỏi không thua ai, mà có phần hơn
là khác. Họ cũng hay quên một sự thật rất quan trọng, là khi ra làm việc, những
gì ta đã học ở trường với những bằng cấp của ta, phần lớn ta không cần đến, mà
ta cần những kinh nghiệm học được mỗi ngày trong công việc ta làm. Nếu chúng ta
thành thật nhìn lại quanh mình, thì chúng ta thấy chẳng mấy ai chọn con đường
trên! Buồn thay cho đất nước Việt Nam của ta! Trong khi đó ở các nước đi trước
ta như Nhật Bản, Đại Hàn, họ rất chú trọng đến vấn đề tập sự và kinh nghiệm
nhiều hơn ta rất nhiều. Ngay cả ở nước Mỹ, khi sinh viên đã có bằng BA, BS, muốn
vào tiếp tục học Master hay Ph.D, các trường danh tiếng thường đòi hỏi sinh viên
phải có kinh nghiệm làm việc. Ngày nay ở Việt Nam, với những bằng “giả”, bằng
“non”, bằng “chính trị” - tiến sĩ và phó tiến sĩ -, với sự nhắm mắt của
chính quyền, vấn đề còn tệ hơn nữa và sự tiến triển của đất nước còn khó hơn
nữa.
Tôi có gặp ba
trường hợp tương tợ trong đó hai người, một có bằng thạc sĩ ở Pháp và một có
bằng Ph.D từ Mỹ về, và một kỹ sư tốt nghiệp từ một trường danh tiếng của Pháp,
cả ba được bổ nhiệm những chức vụ số một trong các cơ quan chuyên ngành mà họ
không có đủ tiêu chuẩn chuyên môn: cả ba đều không làm được việc và bị sa thải
sau một thời gian. Những người đứng đầu chính phủ và các nhà lãnh đạo đất nước
phải luôn luôn nhớ rằng không thể yêu cầu một bác sĩ lái một chiếc tàu thủy, hay
một sĩ quan tàu ngầm nguyên tử lái máy bay Boeing 747, cũng như nhà kinh tế tài
ba nhất không thể quản lý được một chương trình không gian, trừ phi họ bắt đầu
học lại từ đầu.
Sau khi
tôi đã nộp bản báo cáo mô tả các chi tiết của vụ cắp và trách nhiệm của nhiều
thành viên cao cấp trong ban điều hành, nhưng không cáo buộc Thúc một lỗi nào,
ngoại trừ sự chểnh mãng và thiếu năng lực, ông Diệm cách chức ông ta và thay
bằng Trần Hữu Phương, một kỹ sư dân sự không hề có kiến thức căn bản về tiền tệ
hay ngân hàng. Thúc rời ngân hàng cùng với đám bà con bè bạn không một lời chào
từ biệt tôi, rõ ràng ông ta tin rằng vì tôi mà ông ta bị cách chức. Ông ta không
biết rằng chính tôi đã cứu ông khỏi ngồi tù. Tôi không bao giờ nói ông ta biết
là tôi đã giữ cái đầu lại cho ông và ông vẫn luôn luôn giữ ác cảm với tôi sau
khi bị cách chức.
Phương
bước vào ngân hàng đem theo mấy người phụ tá, những người này cũng giống như thủ
trưởng của họ, đều trung thực và làm việc tận tâm nhưng hoàn toàn thiếu kiến
thức và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng. Phương hết sức cố gắng để học cái
ngành mới này, và cũng bỏ rất nhiều công sức để làm quen với cách vận hành của
một Ngân Hàng Trung Ương. Nhưng điều này không phải dễ dàng, vì ông ta không hề
có một cái nền đào tạo nào về tài chánh. Thế là ông ta lo việc quan hệ với chính
phủ và quản lý hành chánh nội bộ, giao việc quản lý chuyên môn về tiền tệ và
ngân hàng cho tôi.
Tôi mất
tới sáu tháng làm việc rất dữ cùng một vài quyết định khó khăn mới có thể hoàn
tất việc tổ chức lại Ngân Hàng Quốc Gia. Và trong khi ấy, tôi phải cùng một lúc
tìm cách mau chóng phát triển Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín
mà tôi đã thành lập và vẫn còn đang phụ trách.
Thế rồi
Vượng được bổ nhiệm Bộ trưởng Tài chánh để thay thế Phương; ông ta được thưởng
vì đã tố cáo và buộc tội Thúc đồng lõa trong vụ cắp. Các thành viên trong Hội
Đồng Tiền Tệ Tối Cao có nhiều dịp theo dõi một cách thú vị cuộc đối thoại giữa
Vượng và tôi, ông ta thường hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn và tôi phải giải thích
thẳng thừng cho ông ta hiểu về các vấn đề tài chánh tiền tệ sơ đẳng nhất. Những
người ngồi sau lưng các thành viên hội đồng cứ cười thầm vì những câu hỏi vô
nghĩa của ông ta và những câu trả lời châm biếm của tôi.
Vũ Văn Mẫu là Bộ trưởng Ngoại giao và là một giáo sư Luật, ông ta đang lo thiết
lập những quan hệ ngoại giao với Thế giới thứ ba, chưa bao giờ chịu nhìn thử vào
các vấn đề ngoại tệ và tài chánh hải ngoại của đất nước, có lẽ vì ông chưa bao
giờ chạm đến các vấn đề tài chánh tiền tệ. Với một ê-kíp như vậy, Phương làm
Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia, Vượng Bộ trưởng Tài chánh, Mẫu Bộ trưởng Ngoại
giao, cùng với Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phụ trách kinh tế tổng quát, tất
cả đều thiếu kiến thức tài chánh tiền tệ như vậy, tôi phải tự mình nhận lấy
trách nhiệm thiết lập một hệ thống tiền tệ tài chánh mới cho đất nước bằng cách
cắt đứt tất cả những mối quan hệ lâu nay giữa đồng tiền Việt Nam và hệ thống
đồng tiền Pháp, và thương lượng một mối quan hệ tiền tệ mới giữa Pháp và nước
nhà.
Tôi biết rằng đây hầu như là một việc không tài nào thực hiện nổi nếu tự làm một
mình, bởi tôi sẽ không nhận được một sự hỗ trợ nào của các Bộ khác trong chính
phủ vì họ mù tịt về vấn đề, hoặc vì họ sợ dính líu vào một công việc tế nhị và
gánh lấy những trách nhiệm mà họ không muốn. Tôi phải tự làm lấy một mình. Không
ai nhắc nhở, không ai hỏi thăm, kể cả Tổng thống Diệm. Tôi chỉ biết rằng ông ta
sẽ ủng hộ tôi hoàn toàn nếu tôi làm được điều lớn lao cho đất nước. Tôi biết
rằng nếu tôi thành công thì sẽ không có ai cám ơn, không ai nhớ ơn, mà tất cả
đều ganh tị; còn nếu tôi thất bại, mọi người sẽ nhảy xổ lên tôi. Nhưng tôi biết
là rất nhiều vấn đề cốt tử đang đối mặt với xứ sở, và quyền lợi sống còn của đất
nước đang đặt ở trên bàn cân. Đối với những ai quan tâm sâu xa tới quyền lợi
chung của đất nước như tôi, thì đây là cả một cơ hội lớn để phục vụ; làm sao tôi
cưỡng lại được tiếng gọi phải làm một điều thật sự quan trọng cho đất nước. Đâu
có nhiều người trên thế giới này có cơ hội được giao phó các vấn đề cốt yếu như
vậy ngay bước khởi đầu sự nghiệp – và hầu như một mình một ngựa. Những ý nghĩ
này đã giúp tôi quyết định, bất chấp mọi khó khăn và gánh chịu những nguy hiểm
dính liền với một công cuộc như vậy.
Nhưng tôi cũng
cảm thấy rất cô đơn, bởi tôi biết mình không thể dựa vào ai khác, và cũng không
thể thảo luận hay trao đổi ý kiến với ai, bởi vì chẳng có ai trong chính phủ
hiểu biết về lãnh vực này. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào lúc đó hầu như chỉ
gồm toàn đồng phật-lăng
“nội địa” thu được từ mặt hàng cao su xuất cảng qua Pháp và gạo xuất cảng qua
các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Đồng phật-lăng của chúng ta không hoán đổi được;
mỗi năm Ngân Hàng Quốc Gia Pháp (Banque de France) chỉ cho chúng ta đổi một số
lượng nhỏ lấy những đồng tiền hoán đổi được như đồng đô-la Mỹ, đồng bảng Anh,
đồng mác Đức hay đồng yên Nhật. Nước Pháp đã trải qua một giai đoạn rối loạn
chính trị và bất an xã hội kéo dài, kèm theo những khó khăn rất lớn về mặt kinh
tế tài chánh, và đồng tiền Pháp cứ liên tục giảm giá. Cứ mỗi lần giảm giá hay
chính phủ Pháp phá giá như vậy thì chúng ta lại mất một tỉ lệ phần trăm trị giá
ngoại tệ dự trữ. Như vậy tuy chúng ta đã giành được độc lập chính trị từ tay
người Pháp năm 1955, nhưng trên bình diện tiền tệ thì chúng ta vẫn còn là một
thuộc địa của Pháp. Không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới sự bất bình đẳng
trong hệ thống chi trả với Pháp, tới sự suy yếu của dự trữ ngoại tệ và sự hao
hụt trị giá đồng tiền Việt Nam vì liên hệ với hệ thống tiền tệ của Pháp. Hơn thế
nữa, số vàng dự trữ của chúng ta (33 tấn rưỡi) mà quân Pháp lấy được từ tay quân
Nhật sau khi Nhật bại trận năm 1945 đã bị chở về Pháp khi lính Pháp rút về nước
năm 1955, và chúng ta không có vàng để hổ trợ cho đồng tiền quốc gia kể từ lúc
đó.
Tháng
11/1956 sau khi đã hoàn tất việc tổ chức và sắp xếp lại Ngân Hàng Quốc Gia, tôi
quyết định tiến công vào các vấn đề đã ám ảnh tôi hơn một năm qua: sự cần thiết
phải thương lượng một hiệp định tiền tệ mới với Pháp, sự cần thiết phải chuyển
số dự trữ bằng đồng phật-lăng Pháp của chúng ta qua các đồng tiền hoán đổi được
để tránh bị hao hụt thêm nữa trị giá dự trữ ngoại tệ của chúng ta, sự cần thiết
phải thu hồi số trữ kim đang nằm ở Ngân Hàng Quốc Gia Pháp, sự cần thiết phải đòi lại số nợ của
Ngân Khố Pháp và sự cần thiết phải cải thiện mối quan hệ tiền tệ, tài chánh với
Pháp để đòi hỏi viện trợ kinh tế tài chánh của họ; đó là những mục đích chính
của Việt Nam trong khi đối thoại với nước Pháp. Sau khi thông báo với Tổng thống
Diệm, tôi đã đi Pháp một chuyến để viếng thăm Ngân Hàng Quốc Gia Pháp và Quai de
Rivoli, tức Bộ Tài chánh Pháp, và bắt đầu thăm dò quan điểm của người Pháp về
các vấn đề này. Tôi nghĩ rằng với tư cách là cố vấn của Tổng thống, với sự am
hiểu vấn đề và nhiệt tâm phục vụ đất nước, tôi có thể đạt được một sự đáp ứng
nào đó từ phía nhà cầm quyền Pháp. Tôi đã nhầm. Tôi cần phải có được sự uỷ quyền
của Tổng thống Diệm. Nhà cầm quyền Pháp biết rõ rằng ông tập trung mọi quyền
bính trong tay ông, biết tôi là người cố vấn tin cẩn của ông trong lãnh vực kinh
tế tài chánh, nhưng họ không được thông báo chính thức về chuyến viếng thăm và
công cán của tôi. Điều này chỉ được thực hiện về sau qua toà Đại sứ Pháp ở Sài
Gòn.
Đầu năm 1957 đồng phật-lăng Pháp lại bị phá giá
một lần nữa; và một lần nữa không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới những
mất mát to lớn trong dự trữ ngoại tệ do việc đồng tiền Pháp mất giá và phá giá
nhiều lần gây nên. Tháng 6 năm 1957, cảm thấy được đồng tiền Pháp sắp sửa bị phá
giá một lần nữa, tôi vào gặp ông Diệm và cảnh giác ông vụ hao hụt mất mát dự trữ
ngoại tệ đang lăm le xảy đến. Tôi khuyên ông nên rời bỏ khu vực đồng phật-lăng
Pháp, có sự thoả thuận hay không có thoả thuận với Pháp cũng được. Nhưng trước
khi dùng tới biện pháp cuối cùng này, chúng ta nên thương lượng để đạt được một
hiệp định mới giữa hai quốc gia. Tôi nói với ông Diệm rằng ông phải để tôi đi
Paris để nêu những vấn đề này và để bắt đầu thương lượng một thỏa ước tiền tệ
mới với nước Pháp. Tôi mô tả chi tiết những vấn đề đang tồn đọng giữa hai quốc
gia. Ông Diệm lắng nghe một cách cẩn thận đoạn bảo tôi khởi hành càng sớm càng
tốt để thực hiện cái công việc khổng lồ như kiểu Hercules trong thần thoại đó.
Nhưng nhìn vào mắt ông, tôi có thể thấy là tận đáy lòng ông, ông không tin là
tôi có thể một mình làm nổi công việc to tát ấy, không tin tôi có thể gặp một
nhân vật nào đó đủ quyền lực và uy tín chính trị ở Pháp để thực hiện sự nhượng
bộ đầu tiên và hết sức quan trọng cho một nước thuộc địa cũ. May mắn cho đất
nước và cho chính tôi, tôi đã gặp nhân vật ấy ở Bộ trưởng Tài chánh Pháp Antoine
Pinay.
Những sự kiện bước đầu chứng tỏ là ông Diệm đã sai lầm, vì vậy ông ủng hộ tôi
nhiều hơn nữa và tin tôi nhiều hơn nữa khi tôi lao hoàn toàn vào các cuộc thương
lượng với các cấp thẩm quyền Pháp, đặc biệt là khi tôi tiếp xúc trực tiếp và
thảo luận trực tiếp với ông Antoine Pinay. Được trang bị bằng sự uỷ quyền chính
thức của Tổng thống Diệm, và được tăng thêm sức mạnh nhờ lòng tin cậy của ông,
tôi qua Pháp và viếng thăm nhiều lần Ngân Hàng Quốc Gia Pháp và bộ Tài chánh
Pháp. Lần này các viên chức nhà nước Pháp đã nhận được thông báo chính thức về
chuyến viếng thăm của tôi qua toà Đại sứ Pháp ở Sài Gòn. Họ tiếp đón tôi rất
nồng hậu, nhưng không có ai trong chính quyền Pháp tỏ vẻ muốn dấn thân vào những
cuộc thảo luận quan trọng như vậy. Đây không phải là một vấn đề kỹ thuật đơn
thuần. Đây là một vấn đề chính trị hết sức phức tạp và hết sức gai góc, bởi vì
đây sẽ là lần đầu tiên mà nước Pháp thương thuyết về một hiệp ước tiền tệ với
một nước thuộc địa cũ: bất cứ một nhượng bộ nào đối với Việt Nam cũng sẽ bị các
nước thuộc địa cũ và các nước trong Liên Hiệp Pháp ganh tị và đòi hỏi cho chính
mình, nó đánh dấu bước khởi đầu của những thay đổi lớn lao trong hệ thống tiền
tệ của Pháp. Cần phải có một con người có quyền lực chính trị to lớn và có rất
nhiều can đảm để phát động những bước đi quan trọng như vậy.
Rất may là không
bao lâu tôi đã tìm ra con người ấy. Trong thời gian ở Paris, tôi thường lui tới
gặp gỡ bạn bè cũ trong giới ngân hàng, hy vọng sẽ tìm được một ai đó có thể giới
thiệu tôi với một nhân vật chính trị như vậy. Tôi trò chuyện nhiều lần với viên
Phó Tổng giám đốc Đông Dương Ngân hàng, ông René Bousquet, và chúng tôi mau
chóng trở thành bạn thân vì có khá nhiều điểm tương đồng. René Bousquet đã là
Thứ trưởng bộ Nội vụ khi mới 35 tuổi. Ông đã bắt đầu một sự nghiệp sáng chói ở
cái tuổi mà những chính trị gia và viên chức nhà nước lão thành coi là còn quá
trẻ. Khi ông biết rằng tôi được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Ngân Hàng Trung Ương
và Tổng giám đốc Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, đồng thời là cố vấn Tổng thống ở
tuổi 31 thì ông nhìn thấy nơi tôi hình ảnh xa xưa của chính ông những năm 40, và
ông cũng thèm muốn được như tôi bởi vì mọi hoàn cảnh đều rất thuận tiện cho sự
nghiệp của tôi, trong lúc các biến cố năm 1945 lại đột ngột thay đổi sự nghiệp
của ông. René Bousquet chỉ quen biết ông Antoine Pinay một cách gián tiếp, vì
ông thân với hai người phụ tá của ông Antoine Pinay. Ông Pinay đã được tướng De
Gaulle bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Tài chánh vào đầu năm 1957, nhưng không như
các vị Bộ trưởng Tài chánh trước kia, ông tham gia chính phủ với tiếng tăm lừng
lẫy của một con người hết sức trung thực, rất can đảm và đầy quyền lực, một
người mà nước Pháp rất cần để sắp xếp lại nền kinh tế tài chánh ốm yếu của nó.
René Bousquet lắng nghe bài diễn thuyết chỉ trích dài dằng dặc
của tôi về mối quan hệ tài chánh bất công và bất bình đẳng giữa Pháp và Việt Nam
và về hệ thống tiền tệ lỗi thời, không thích hợp, mà nước Pháp đã áp đặt lên đất
nước chúng tôi. Mặc dù các ý tưởng của tôi không hợp với các quyền lợi ích kỷ
của Đông Dương Ngân Hàng, lúc bấy giờ vẫn còn nắm giữ một phần đáng kể cái quyền
lực tài chánh của nó ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa, René Bousquet vẫn lắng
tai nghe một cách đầy thiện cảm, bởi vì vào thời ông, ông cũng đã phục vụ lợi
ích của nhân dân và vẫn còn giữ nguyên ý thức chính trị ấy mặc dù ông đang ẩn
náu trong một tổ chức phi chính trị. Còn tôi thì có cảm giác rõ rệt rằng ông có
thể giúp đỡ tôi rất nhiều trong công việc thương thuyết, nên tôi yêu cầu Ngân
Hàng Quốc Gia ký thác một tài khoản mới vào Đông Dương Ngân Hàng để tăng thêm uy
tín của ông và để ông có thể giúp đỡ tôi mà không phải tỏ ra đi ngược với quyền
lợi cơ quan của ông một cách quá đáng. René Bousquet hứa sẽ yêu cầu hai người
bạn ông sắp xếp cho tôi một buổi gặp gỡ với ông Antoine Pinay.
Trong khi tôi đang mò mẫm dò đường trong các hệ thống chính trị
và tài chánh rối rắm của nước Pháp, thì một người nào đó nói với Diệm rằng việc
gởi tôi, một tay Tổng giám đốc quèn, qua Paris để thực hiện một thỏa ước tiền tệ
phức tạp với nước Pháp, chỉ tốn thời gian vô ích, và tôi không thể nào tìm được
một nhân vật Pháp đủ quan trọng và đủ quyền lực để nói chuyện, chứ đừng nói là
thương lượng – sau này tôi biết người đó là viên Bộ trưởng
phủ Tổng thống, anh ta đã nói những lời này với Nhu, em của Tổng thống Diệm. Ông
Diệm bèn gởi điện cho tòa Đại sứ ở Paris, biểu chuyển cho tôi một thông điệp ra
lịnh tôi quay về nước ngay. Nhưng một người em của ông là Ngô Đình Luyện, người
đang làm Đại sứ nước Anh, lúc ấy tình cờ có mặt ở Paris. Tôi tới gặp Luyện và kể
cho anh ta nghe tất cả công việc móc nối của tôi. Luyện khuyên tôi cứ ở lại để
tiếp tục công việc và anh sẽ gọi điện cho Tổng thống Diệm ngay lập tức. Nhưng
tôi vẫn cứ rời Paris bay về nước với ý nghĩ phải đương đầu với Diệm và những kẻ
phá rối tôi một lần chót cho xong.
Khi tôi gặp Diệm ngày hôm sau, và kể cho ông nghe những gì tôi đã làm ở Paris,
ông nhận ra rằng ông đã nghe những lời tố cáo phi lý và dối trá sai lệch. Tôi
nói với ông là trong mấy năm qua chúng ta đã mất một số rất lớn trị giá ngoại tệ
dự trữ vì việc mất giá liên tục của đồng phật-lăng Pháp.
Sự mất mát này có thể đã lên tới hàng mấy chục triệu Mỹ kim trong những cuộc phá
giá đồng phật-lăng dự trữ ngoại tệ cuả xứ ta. Và tôi nói thêm rằng một vụ phá
giá nữa sắp xảy ra, xét theo tình hình của nền kinh tế Pháp trước khi ông Pinay
cải cách tiền tệ. Ông Diệm rất sung sướng khi thấy tôi tìm ra được một người bạn
hết sức quyền lực cho Việt Nam; ông bảo tôi là ông cũng muốn gặp ông Pinay lúc
nào thuận tiện. Tôi hứa với ông điều này và tôi đã sắp xếp cho ông Diệm gặp ông
Pinay vào năm tới, sau một loạt thảo luận với ông Pinay và chính quyền Pháp.
Diệm yêu cầu tôi quay trở lại Paris càng sớm càng tốt để tiếp tục công việc và
ông trao cho tôi thẩm quyền chính thức để gặp bất cứ người nào tôi muốn và nối
lại các cuộc thảo luận giữa hai quốc gia. Một vài ngày sau, khi tôi đang chuẩn
bị chuyến đi Paris sắp tới thì đồng phật-lăng Pháp lại bị phá giá một lần nữa.
Ông Diệm gọi tôi vào khen ngợi lời tiên đoán của tôi và ra lệnh cho tôi đi ngay
Paris. Bây giờ thì ông đã thấy rõ ràng hơn bao giờ hết sự mất mát dự trữ ngoại
tệ, sự cần thiết cấp bách phải thoát khỏi khu vực đồng phật-lăng Pháp và đề ra
một mối quan hệ tiền tệ mới với nước Pháp. Đó là một điều mới mẻ mà ông Diệm mới
học được, thậm chí ông không nói cho vị Phó Tổng thống của ông biết, càng không
nói với các tay Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Kinh tế và Bộ trưởng Ngoại giao.
Đó là cách mà ông Diệm cai trị đất nước: ông ta xử lý các vấn đề quốc gia giống
như là chuyện riêng của ông. Điều này vừa tốt lại vừa xấu, tốt bởi vì như vậy
ông hoàn toàn chú tâm tới vấn đề; và xấu vì ông giữ tất cả mọi chuyện cho riêng
ông, không chịu chia sẻ những thông tin mà tôi đưa cho ông với bất cứ ai trong
chính phủ, có lẽ chỉ chỉ hé lộ đôi chút cho Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ.
Nhưng ông cũng nói vắn tắt cho Nhu biết về những gì tôi làm ở Paris, việc này
giúp tôi khỏi chịu những chuyện rắc rối do Nhu và Thuần gây ra nữa. Từ nay trở
đi tôi được hoàn toàn tự do hành động, điều này rất có ích cho công tác của tôi;
và đó là lý do vì sao mà sau này tôi thường nói là những việc làm quan trọng của
tôi chẳng bao giờ được chính phủ biết tới, ngoại trừ các vị Tổng thống, và có lẽ
ở một mức độ nào đó, là các vị Phó Tổng thống và Thủ tướng.
Tôi chờ thêm hai
tuần nữa mới trở lại Paris, để cho những xáo trộn gây nên bởi vụ phá giá mới đây
được lắng xuống trước khi tôi có thể thảo luận về vấn đề tiền bạc và dự trữ
ngoại tệ với chính quyền Pháp. Lần này được giới thiệu trước bởi một thông điệp
của toà Đại sứ Pháp gởi cho Tổng trưởng Ngoại giao Pháp về bản chất chuyến công
tác của tôi cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của Tổng thống Diệm, tôi được nhà cầm
quyền Pháp tiếp đón nồng hậu hơn. Tôi gặp Pierre Sadrin, Giám đốc Tài chánh Hải
ngoại Pháp cùng vị Phó Giám đốc của ông, Georges Lapeyre, và tôi có thể thấy
trong mắt họ niềm tin rằng họ đã gặp được người có thể tin tưởng được với tư
cách là phát ngôn viên của nước Việt Nam và của Tổng thống Diệm. Tôi cũng gặp
Thống đốc Ngân hàng Baumgartner và
Phó Thống đốc Calvet của Ngân Hàng
Quốc Gia Pháp. Với sự giúp đỡ của René Bousquet và các bạn ông, tôi được hội
kiến với ông Antoine Pinay. Ông ta đang bịnh nằm dài trên giường nhưng ông cũng
đồng ý tiếp tôi. Tôi được đưa tới tận giường bịnh của ông, chúng tôi thảo luận
một danh sách dài các vấn đề giữa hai quốc gia, trong đó có vấn đề dự trữ ngoại
tệ Việt Nam, hệ thống chi trả với nước Pháp, số trữ kim của Việt Nam và một số
vấn đề khác của Ngân Khố Việt Nam. Nhưng trên hết, tôi yêu cầu đồng phật-lăng mà
chúng ta thu được từ việc xuất khẩu qua Pháp và qua các thuộc địa của Pháp, phải
hoán đổi được. Đối với ông Antoine Pinay đây là một điều rất khó khăn và rất
nhạy cảm về mặt chính trị, bởi vì việc hoán đổi một phần hoặc toàn bộ đồng
phật-lăng Pháp của một thành viên trong khu vực đồng phật-lăng Pháp là điều
không thể tưởng tượng được vào lúc đó, về cả mặt chính trị lẫn kỹ thuật. Việc
nước Pháp nhượng bộ như vậy cho Việt Nam sẽ gây nên một cơn địa chấn chính trị
chạy suốt khối Liên Hiệp Pháp, bao gồm tất cả các thuộc địa của Pháp và một vài
nước thuộc địa cũ đã hình thành nên khu vực đồng phật-lăng Pháp.
Ông yêu cầu tôi đưa cho ông một văn kiện ghi rõ các đề tài thảo luận và hứa sẽ
yêu cầu Bộ Tài chánh và Ngân Hàng Quốc Gia Pháp nghiên cứu. Ông hứa sẽ trả lời
sớm và nhờ tôi chuyển lời hứa của cá nhân ông về cho Tổng thống Diệm: ông rất
muốn giúp đỡ Việt Nam, cho nên ông sẽ vui lòng ký kết một thoả ước tiền tệ mới
như Việt Nam đề nghị và sẽ viện trợ kinh tế, tài chánh cho Việt Nam. Nhưng trước
đó ông muốn cải thiện mối quan hệ giữa hai nước hiện đang ở mức thấp nhất kể từ
sau vụ truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và vụ bắt giam hai người Pháp bị buộc tội
gián điệp đầu năm 1956. Ông Pinay yêu cầu chính phủ Việt Nam trả tự do cho hai
người Pháp như một cử chỉ thiện chí để mở ra một kỷ nguyên quan hệ mới giữa hai
quốc gia. Tôi chuyển lời hứa này cho ông Diệm sau khi trở về nước và khuyến cáo
chính phủ thả hai người Pháp ra, vì tôi có cảm giác rõ rệt rằng ông Pinay có rất
nhiều cảm tình với Việt Nam và ông có đủ quyền lực và tư thế để hỗ trợ được cho
đất nước chúng ta rất nhiều.
Vào thời gian
tôi tới Paris thì Bộ trưởng Tài chánh Tây Đức cũng đang có mặt tại đó; tôi nghe
nói ông Pinay sẽ tiếp tôi ở nhà ông trước khi tiếp vị Bộ trưởng Đức. Khi những
người phụ tá của Pinay hỏi ông tại sao ông không tiếp một vị Bộ trưởng Tây Đức
trước mà lại tiếp một viên Tổng giám đốc của một quốc gia bé nhỏ, ông trả lời họ
rằng ông không thể quên sự giúp đỡ lớn lao của Việt Nam đã dành cho Pháp suốt 30
năm qua. Ông muốn ám chỉ tới con số hai mươi ngàn người Việt Nam – các nhà khoa
học, các giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ vân vân…
đang sống và làm việc tại Pháp, và do đó đã
giúp cho Pháp bao nhiêu là viện trợ kỹ thuật chuyên môn. Ông nói với các viên
phụ tá của ông rằng tôi là người đại diện cá nhân của Tổng thống một nước cộng
hoà và ông muốn sớm đi tới một thoả ước với Việt Nam.
Hình 1: Ông Antoine Pinay, Thủ Tướng Pháp
Tôi chuyển lời ông Diệm mời ông Pinay qua thăm
Việt Nam, và trong chuyến gặp gỡ đầu tiên, hai ông đã thảo luận rất nhiều vấn đề
chính trị và rất ít về các vấn đề tiền tệ, bởi vì tất cả mọi việc đã được tôi
giải quyết ở Paris với chính quyền Pháp rồi – dưới sự giám sát của ông. Pinay
hứa sẽ hối thúc việc giải quyết các vấn đề của Việt Nam và tổ chức viện trợ kinh
tế tài chánh cho Việt Nam; còn Diệm hứa sẽ thả hai người gián điệp Pháp. Cả hai
đều có cảm tình và kính trọng lẫn nhau, nên giữa hai người đã nảy nở một tình
bạn chặt chẽ, đem lại nhiều lợi ích cho cả hai nước; quan hệ giữa Việt Nam và
Pháp được cải thiện mau chóng. Chỉ ít lâu sau chuyến thăm của ông Pinay, ông
Diệm đã thả hai tay gián điệp Pháp; và trong suốt một năm, tôi nhiều lần thăm
viếng Paris và có nhiều cuộc gặp gỡ với ông Pinay, với các phụ tá của ông, các
quan chức của bộ Tài chánh và Ngân Hàng Quốc Gia Pháp. Sau khi đạt được một thoả
ước thử nghiệm, tôi khuyên Tổng thống Diệm nên mời ông Pinay trở lại Sài Gòn lần
nữa để ký kết một thỏa ước chính thức về sự hợp tác kinh tế tài chánh giữa hai
quốc gia.
Pinay trở lại Sài Gòn lần thứ hai vào cuối năm 1958. Lần này đi trước ông là một
phái đoàn do Georges Lapeyre dẫn đầu để hoàn tất văn bản thỏa ước ký kết. Phái
đoàn Việt Nam do Dương Tấn Tài, cựu Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, dẫn
đầu. Hai ông Diệm và Pinay yêu cầu tôi đứng kèm một bên để giải quyết mọi khó
khăn có thể nảy sinh từ các cuộc thảo luận. Mặc dù tất cả các vấn đề quan trọng
đã được giải quyết ở Paris, chỉ còn vài chi tiết nhỏ về ngôn từ và hình thức,
cuộc thảo luận vẫn kéo dài suốt hai ngày, phần lớn vì tánh cố chấp của Tài; một
lần nữa ông ta lại bị cuốn vào các chi tiết lặt vặt mà quên những điều chính
yếu. Việc trì hoãn này có thể làm xáo trộn chương trình của hai ông Diệm và
Pinay, và vượt quá thời hạn buổi lễ ký kết. Vào ngày thứ hai, sau những cuộc nói
chuyện dài như môn chạy Ma-ra-tông từ giờ này qua giờ khác trong khi ngồi chờ
văn bản chính thức, Pinay yêu cầu Diệm cho gọi tôi vào, ông nói với tôi ông
không thể chờ lâu hơn nữa và tôi phải bước vào, kết thúc văn bản thỏa ước đem ra
cho ông ký trong vòng một tiếng đồng hồ. Tôi bước vào phòng họp và thấy Tài đang
tranh luận về một số từ ngữ và dấu chấm câu. Tôi nắm lấy toàn bộ sự vụ, đảm nhận
việc quyết định cuối cùng, ra lệnh đánh máy bản văn chính thức rồi đem ra phòng
Tổng thống. Hai ông Diệm và Pinay đặt bút xuống ký, đoạn bắt tay nhau và chúc
tụng nhau về một kỷ nguyên hợp tác mới giữa Pháp và Việt Nam.
Sau nhiều năm làm việc chung với tôi vì lợi ích
của hai đất nước, Pinay đã trở nên một người bạn cố cựu của tôi suốt hơn 30 năm
trời. Khi trở thành Thủ tướng nước Pháp, ông đã dành cho tôi và các bạn bè tôi
một sự giúp đỡ hết sức quí giá và hào phóng. Năm 1975, sau khi miền Nam Việt Nam
thất thủ, tôi trở nên người không có tư cách công dân; tôi không có quốc tịch,
cũng chẳng có hộ chiếu. Tôi vẫn còn visa GIV để vào nước Mỹ, vì tôi vẫn còn làm
việc cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, và tôi vẫn có thể sử dụng giấy Thông hành
(laissez-passer) của Liên Hiệp Quốc, nhưng nó chỉ được dùng cho công tác chính
thức nên tôi không thể đi lui tới các nước ngoài cho công việc cá nhân. Tôi viết
thư cho Thủ tướng Pinay - khi đó ông đã lên làm Thủ Tướng - đề nghị ông cho tôi
nhập quốc tịch Pháp. Ông Pinay chỉ thị cho Bộ Nội vụ Pháp nghiên cứu lại luật
pháp nước Pháp coi có thể cấp quốc tịch Pháp cho một người nước ngoài không cư
trú ở Pháp hay không. Kết quả là, đối với người nước ngoài cư trú ở Pháp thì
việc nhập quốc tịch Pháp dễ dàng; nhưng với người nước ngoài không cư trú ở Pháp
thì không được. Đây là một trường hợp mới!
Nhưng rồi sau đó họ khám phá ra rằng chính phủ có
thể cấp quốc tịch Pháp cho những trí thức nước ngoài làm việc trong các tổ chức
quốc tế mà nước Pháp là một thành viên. Họ báo cho tôi biết rằng bộ Nội vụ sẽ
thu xếp trên cơ sở pháp lý ấy để tôi nhập quốc tịch Pháp. Đồng thời ông Pinay
còn chỉ thị cho ông Quản trị viên Pháp ở IMF và World Bank mở rộng trường hợp
này cho tất cả các nhân viên Việt Nam thiếu tư cách công dân đang làm việc tại
hai tổ chức quốc tế ấy. Một trong hai điều kiện để được hưởng quy chế đặc biệt
ấy là người được cứu xét phải qua trường lớp đào tạo của nền giáo dục Pháp; ông
Pinay biết rằng tôi được đào tạo trong hệ thống giáo dục của Pháp ngay từ hồi
nhỏ, và tôi đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Thương Mại Pháp (Hautes Etudes
Commerciales) với “titre francais” (thi đậu như học sinh người Pháp). Có nhiều
sinh viên ngọai quốc tốt nghiệp trường H.E.C. với tư cách “sinh viên ngoại
quốc”, không bắt buộc phải được đào tạo toàn diện theo nền giáo dục Pháp, nhưng
nếu vị Quản trị viên Pháp ở IMF-IBRD không thẩm tra kỹ lưỡng điểm này thì một
vài người Việt Nam không học trong hệ thống giáo dục của Pháp có thể nhập quốc
tịch Pháp theo lối cửa sau, và kết quả là sẽ có một vài công dân mới quốc tịch
Pháp mà lại không biết nói tiếng Pháp.
Lúc đó tôi không biết những người Việt Nam làm
việc tại tổ chức Liên Hiệp Quốc có được hưởng quy chế đặc biệt này không. Mãi
sau này tôi mới được ông Trần Lê Quang cho biết là nhân viên Việt Nam ở Liên
Hiệp Quốc và các cơ quan quốc tế khác không dược hưởng quy chế ấy. Cho nên đó là
một sự chiếu cố rất lớn của ông Pinay đối với tôi; và ông còn dang rộng ra tới
cả những người Việt Nam khác ở IMF và World Bank, nhưng những người này không
biết đặc ân ấy là do ai và từ đâu tới nữa. Ngoại trừ một mình tôi ra, không ai
cám ơn ông Pinay cả! Nếu tôi biết tất cả những chuyện này thì tôi đã yêu cầu ông
giúp cho những người Việt Nam làm việc ở Liên Hiệp Quốc và các cơ quan quốc tế
khác nói trên; chắc chắn ông không từ chối. Ông đã giúp đỡ tôi nhân danh tình
bạn lâu bền giữa chúng tôi, nhưng ông cũng giúp những người khác trên nguyên tắc
sống mà ông đã cho tôi hay khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên trong phòng ngủ
của ông – và ông đang nằm trên giường bịnh, tại căn nhà ở đại lộ Foch, thủ
đô Paris. Ông đã xem 20.000 người Việt Nam, gồm các nhà khoa học, giáo sư, nhân
viên kỹ thuật... lúc ấy đang sống và làm việc ở Pháp là một sự hỗ trợ kỹ thuật
của Việt Nam dành cho nước Pháp kể từ Thế chiến thứ Hai. Điều này cho thấy ông
là một nhà lãnh đạo lớn, nhìn xa trông rộng. Không có một nhà lãnh đạo nào ở
nước Pháp cũng như các nước khác có một cái nhìn về thế giới xuất sắc như ông,
có tâm hồn cao quý như ông, lúc ấy, bây giờ, và có lẽ về sau.
Tôi cũng yêu cầu ông Pinay hỗ trợ tôi đưa hai
người bạn ra khỏi Việt Nam và cho họ vào quốc tịch Pháp. Đầu tiên ông can thiệp
với chính quyền Hà Nội cho người bạn thân và phụ tá của tôi là Nguyễn Tăng Kim,
và ông Kim được chính phủ Việt Nam cho phép di trú sang Pháp. Rồi ông chỉ thị
cho cơ quan nhập cư Pháp mau chóng tiến hành các thủ tục pháp lý và hành chánh
cho Kim nhập quốc tịch Pháp. Nhưng sau đó đối với ông Võ Long Triều thì ông
không thành công bởi vì vào một lúc nào đó, quan hệ giữa Việt Nam và Pháp trở
nên khó khăn hơn do vấn đề mỏ than ở Hòn Gai. Mãi về sau khi quan hệ Việt - Pháp
được cải thiện, và với sự giúp đỡ của những người bạn học cũ và vị Thủ tướng
mới của nước Pháp, Võ Long Triều mới được thả ra và sang Pháp.
Sau khi ông
rời khỏi cái chức vụ cuối cùng là “Trọng Tài Tối Cao” (arbitre de la nation) giữa nhân dân và chính phủ, tôi đã
tới thăm ông tại thành phố Saint Chamond, nơi trước đây ông làm thị trưởng và là
nơi phát tích quyền lực chính trị của ông. Ở cái tuổi 93 ông vẫn còn rất khỏe
mạnh. Ông rất vui khi gặp tôi và nhắc lại những gì mà hai chúng tôi đã cùng làm
với nhau. Tình bạn này còn kéo dài sau khi tôi rút khỏi tất cả mọi chức vụ và
rời sân khấu quốc tế.
Sau khi bản thỏa ước chính thức được ký kết, tôi
còn phải theo dõi kỹ lưỡng các điều khoản để chắc chắn được thực hiện đúng đắn,
vì vậy tôi thường qua Paris để bàn cãi các chi tiết với nhà chức trách Pháp.
Cuối cùng nước Pháp đã nhượng bộ Việt Nam nhiều điều khoản vô cùng quan trọng
trên mặt kinh tế tài chánh cũng như cấp cho chúng ta những khoản viện trợ kinh
tế rất quan trọng như sau:
1. Tôi đã đòi được đồng phật-lăng có thể hoán
đổi làm đồng tiền chi trả cho mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam qua Pháp; đồng
phật-lăng mới này có thể đổi qua đồng đô-la Mỹ, đồng mác Đức, đồng bảng Anh hay
đồng yên Nhật... do đó tránh được tình trạng hao hụt trị giá dự trữ ngoại tệ của
chúng ta trong trường hợp đồng phật-lăng mất giá
hay bị phá gíá. Đây là một nhượng bộ hết sức quan trọng của chính phủ Pháp và
một thành công rất lớn lao cho đất nước, vì điều này sẽ mở đường cho bao nhiêu
điều lợi khác trong tình hình tài chánh hải ngoại cho xứ sở.
2. Với số ngọai tệ có thể hoán đổi được, Việt Nam đương nhiên bước
ra khỏi khu vực đồng phật-lăng Pháp, điều mà tất cả các thuộc địa Pháp rất mong
muốn, nhưng cũng rất khó đòi hỏi Pháp nhượng bộ. Các nước độc lập mới, thuộc điạ
cũ cuả Pháp, cũng bắt chước Việt Nam mà đòi Pháp cho đồng phật-lăng hoán đổi
nhưng cũng không được chấp nhận dễ dàng. Sau đó Việt Nam đương nhiên gia nhập
khu vực đồng đô-la Mỹ. Và như vậy chúng ta có thể chọn loại ngoại tệ thích hợp
cho mặt hàng xuất khẩu, rộng tay hơn trong chính sách xuất nhập khẩu, và có tự
do hơn trong vấn đề quản trị dự trữ ngoại tệ quốc gia. Từ đó xứ sở không còn mất
giá trị dự trữ ngọai tệ mỗi khi chánh phủ Pháp phá giá đồng phật lăng nữa, vì
lúc đó, khi Ngân Hàng Quốc Gia nhận thấy đồng tiền Pháp bị mất giá, thì chúng ta
hoán đổi ra một tiền ngoại tệ mạnh hơn.
3. Tôi thu hồi được 33 tấn rưỡi vàng dự trữ của Việt Nam, do quân
đội Pháp đem về Pháp. Số vàng này đã nằm trong Ngân Hàng Trung Ương Pháp và sau
khi chánh phủ Pháp nhượng bộ điều này số vàng đó đã được ký thác dưới tên Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam ở trong hầm chứa của Ngân Hàng Quốc Gia Pháp. Như vậy
chúng ta có thêm nhiều vàng hỗ trợ cho đồng tiền của chúng ta. Đó là một số dự
trữ kim ngân khá lớn cho một nước nhỏ bé như Việt Nam. Đây cũng là một sự nhượng
bộ rất lớn của Pháp, và chỉ có ông Antoine Pinay, lúc âý đang còn là Tổng trưởng
Tài chánh mới dám làm, vì ông có một sức mạnh chánh trị rất lớn lúc đó.
4.
Tôi đòi lại được số tiền mà Ngân Khố Pháp nợ Ngân Khố Việt Nam; điều này
thì không lấy gì làm khó khăn cho lắm, vì những sổ sách vẫn còn đó và số tiền
cũng không lớn lắm đối với xứ Pháp.
5. Tôi tranh thủ được số
viện trợ kinh tế mà Thủ tướng Antoine Pinay đã hứa cho Việt Nam, mở đường cho
những đợt viện trợ tài chánh sau này của Pháp. Tôi cũng phải công nhận đây là
một sự giúp đỡ rất quan trọng và một quyết định rất khó khăn cho ông Pinay, vì
lúc ấy nước Pháp mới bước ra khỏi một thời gian khá dài khó khăn về mặt kinh tế
cũng như mặt chính trị và cũng đang còn ở trong một tình trạng rất éo le về mặt
tài chánh. Chỉ có ông Pinay mới dám giúp cho Việt Nam như vậy, vì sức mạnh chính
trị của ông đã tăng lên rất nhiều sau khi ông nhận chức Thủ
tướng.
Tất cả những kết quả ấy, thu
được trong khoảng thời gian 1955-1962, không phải là dể dàng. Về sau, nhiều khi
tôi nghĩ đến những gì tôi đã thương thuyết được với chánh phủ Pháp và dành lại
cho đất nước, mà bên cạnh không có một phái đòan nào giúp đỡ, và sau lưng, ở
nước nhà, không có một Bộ trưởng hay Thống đốc nào, có trách nhiệm hay có một tí
hiểu biết về những vấn đề này, để trợ giúp. Tôi không khỏi ngạc nhiên, khi quay
lưng nhìn lại, thấy mình đã phải đương đầu với bao nhiêu nỗi khó khăn về phía
Pháp cũng như về phía Việt Nam. Nhưng trái với lẽ thường tình, khó khăn về phía
Việt Nam lại nhiều hơn là về phía Pháp! Đây là lần đầu tiên Pháp phải giải
quyết những vấn đề hết sức quan trọng cho một thuộc địa cũ; hơn nữa các vấn đề
lại còn có một màu sắc chính trị rất tế nhị, có thể có hậu quả rất nguy hại cho
Pháp trong khuôn khổ của nền thuộc địa còn nguyên lúc đó.
Về phía Việt Nam các Bộ trưởng hay Thống đốc các
bộ liên hệ không đủ sự hiểu biết các vấn đề trong ngành tài chánh hải ngoại, dự
trữ ngọai tệ, hoán đổi tiền tệ, nợ bên ngòai, của đất nước, không thể phân tích
những sự kiện này, nên nói chung, không làm gì được để giúp cho đất nước trở nên
một quốc gia độc lập về mặt kinh tế và tài chánh, và nói riêng, không giúp gì
cho công việc của tôi. Bao nhiêu quan chức của các Bộ liên quan, ganh tị với sự
thành công và uy tín của tôi, thường hay tạo ra rất nhiều khó khăn cho công việc
của tôi. Nhưng tôi cũng được một phần an ủi, là các tổ chức quốc tế như Ngân
Hàng Thế Giới (World Bank) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đang tìm kiếm những
người có khả năng, đã quan sát công việc của tôi ở trong nước một cách kỹ lưỡng
khi tôi thiết lập các tổ chức kinh tế tài chánh mới và hệ thống tài chánh hải
ngoại cho Việt Nam; họ thấy rõ những quyền lợi tối quan trọng trong cuộc thương
lượng của tôi với chính quyền Pháp.
Thật ra, tôi cững không trách những vị Đốc phủ sứ,
những quan chức Việt nam, các vị có
bằng cao cấp mà không đúng ngành chuyên môn, vì dưới chế độ thực dân, những vấn
đề quan trọng của một nước độc lập như tôi kể trên, đều được chánh phủ “mẫu
quốc” lo lắng, nghiên cứu, thi hành và giải quyết ở Paris, và nước thuộc điạ
không được dự vào một phần nào trong việc quản trị và thi hành những chánh sách
đó; ngay cả những quan chức người Pháp ở thuộc điạ cũng không được hoàn toàn
hiểu rõ và chỉ biết thi hành những mệnh lệnh của Paris gởi về mà thôi. Cho nên
khi Tổng thống Diệm đặt những vị Đốc phủ hay Thạc sĩ, Tiến sĩ, Ph.D vào những
địa vị đứng đầu một cơ quan quan trọng mới được thành lập, thì họ mù tịt, không
biết trách nhiệm của họ ở đâu và làm sao thi hành nó. Tôi được may mắn hơn, là
tôi học hỏi đúng ngành, gặp những người Pháp và ngọai quốc trong nghề, và trong
khi đi thương thuyết với các phái đoàn chuyên viên, hiểu được những vấn đề chánh
yếu của đất nước. Tôi luôn luôn cố gắng tìm hiểu thêm vấn đề trong mỗi bữa tiệc
chiêu đãi với các chánh khách nước ngoài; đối với tôi một bữa tiệc tôi mời họ
hay họ mời tôi, là một dịp để học thêm, tìm hiểu thêm các vấn đề quan trọng cho
đất nước; cũng như khi đang còn đi học đại học, tôi thường dùng những tháng hè
để đi tập sự và học hỏi thêm, chớ không đi chơi hay đi nghỉ mát như những sinh
viên Việt Nam khác. Tôi vừa làm vừa học, và nhờ có căn bản học hành chuyên môn
khá cao, tôi đã tiến lên rất nhanh trong những ngành chuyên môn, lắm lúc vượt
hẳn những quan chức ngoại quốc ngồi đối diện với tôi.
Việt Nam là nước thuộc địa Pháp đầu tiên dành được
độc lập, cũng là nước thuộc địa đầu tiên nhận được những nhượng bộ kinh tế tài
chánh từ phía mẫu quốc. Các nước thuộc địa khác của Pháp và các quốc gia mới
dành độc lập sau này cũng theo dõi công việc của tôi ở Paris rất kỹ; những nhân
viên cao cấp của họ đã cố gắng tìm đến tôi để tìm hiểu những gì tôi đã đòi hỏi
và đã nhận được cho xứ sở. Theo lệnh của chính phủ Ma-rốc, viên Thống đốc Ngân
Hàng Trung Ương Ma-rốc đã chính thức viết thư hỏi tôi làm sao có thể thu
được nhiều sự nhượng bộ như vậy từ phía Pháp. Tôi từ chối không trả lời vì sợ
làm Thủ tướng Antoine Pinay không vui khi đem tiết lộ những cuộc thương thuyết
bí mật giữa hai đất nước.
Nhưng trong khi tập trung vào các vấn đề tiền
tệ cần giải quyết với Pháp, tôi vẫn phải tiếp tục làm việc rất nhiều để phát
triển Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín lúc bấy giờ đã trở thành ngân hàng lớn nhất
Việt Nam. Đồng thời cũng trong thời gian này tôi còn phải điều hành Ngân Hàng
Quốc Gia mà tôi đã tổ chức lại từ trên xuống dưới sau vụ xì-căng-đan 1956. Với
tư cách là Tổng Giám đốc điều hành dưới quyền một vị Thống đốc danh nghĩa vốn là
một chính trị gia được bổ nhiệm, tôi hiểu rõ rằng tôi sẽ phải chịu tất cả mọi
trách nhiệm nếu có gì xảy ra, vì vậy tôi rất cẩn thận trong khi thi hành nhiệm
vụ và tự mình giám sát tất cả mọi chuyện. Người ta cảm thấy như có tôi hiện diện
ở khắp nơi trong ngân hàng; tôi cũng đặt cho mình quy luật là phải thăm tất cả
các sở của ngân hàng ít nhất là hai lần mỗi tháng.
Trong thời gian này tôi tranh thủ dùng những chuyến thăm ở nước ngòai để tiếp
xúc với các nhà đầu tư hải ngoại: tôi thành lập công ty Cogido, một công ty giấy
với sự hợp tác tài chánh và kỹ thuật của một nhóm kỹ nghệ gia Ý, và một công ty
bảo hiểm và tái bảo hiểm (VAR) liên doanh với một công ty bảo hiểm của Pháp và
một công ty Thụy Sĩ. Như vậy trong suốt khoảng thời gian trước khi rời khỏi
chính quyền năm 1962, tôi phải làm việc rất nhiều giờ mỗi ngày và một tuần làm 6
ngày, tình trạng này đã gây nên một số biến cố trong gia đình tôi, rồi các biến
cố này đã tác động không tốt lên sự nghiệp tôi.
Tôi cũng dẫn đầu các cuộc thương thuyết với nước đồng minh chính của Việt Nam
như Mỹ và tham gia vào các cuộc thảo luận với các nước khác như Nhật và Tây Đức.
Tôi chịu trách nhiệm về tất cả mọi khía cạnh chuyên môn trong quan hệ với các tổ
chức quốc tế như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế Giới, và sau này với Ngân
Hàng Phát Triển Châu Á, một ngân hàng mà tôi có góp phần sáng lập. Tôi được biết
nhiều trong các giới kinh doanh quốc tế; và tất cả các phái đoàn nước ngoài khi
thăm viếng Việt Nam đều tìm cách gặp tôi, trước khi gặp các Bộ trưởng hoặc phái đoàn có liên quan. Tôi nhận
được đủ thứ lời mời từ các chính quyền nước ngoài, các cơ quan và các tổ chức
quốc tế. Tôi còn nhớ năm 1963 khi tôi ra nước ngoài để tránh bị ông Diệm bắt gia
nhập vào một chính phủ có thành phần chuyên môn, trong một buổi họp mặt bạn bè ở
Tokyo, một vài người Mỹ và một vài người Nhật đã hỏi làm sao tôi có thể làm được
nhiều việc như vậy, cả ở trong và ngoài nước, trong một khoảng thời gian chỉ vài
năm, tôi đã trả lời là tôi gặp rất nhiều may mắn. May mắn vì là người đại diện
cho Tổng thống của một nước, điều này mở ra cho tôi nhiều cánh cửa. May mắn được
toàn quyền thương thuyết không cần phải tham khảo ai – vì cũng không có ai hiểu
biết về lãnh vực tôi đang làm – điều này đã giúp tôi đỡ tốn thời gian rất nhiều.
Còn ở nước ngoài thì tôi may mắn có rất nhiều bạn bè đang nắm giữ những chức vụ
cao giúp đỡ. Tôi cũng may mắn là không có ai là thủ trưởng thực sự, như vậy tôi
không cần phải báo cáo cho ai hết, vì đứng trên tôi chỉ có các chính trị gia
được bổ nhiệm. Khi tôi qua Paris năm 1965 một vài người bạn Pháp đã hỏi tôi
những câu tương tự, và tôi đã nhắc lại những cuộc thảo luận với Thủ tướng
Pinay, người đã làm cho công việc của tôi ở Paris dễ dàng đi rất nhiều với uy
tín chính trị và tình thân hữu của ông dành cho đất nước Việt Nam.
Thế nhưng mãi lo cho những vấn đề sống còn của một
quốc gia mới thành lập, tâm trí bị thu hút vào chuyện bảo vệ và thúc đẩy các
quyền lợi của đất nước, tôi thường quên mất những mối quan hệ cá nhân trong công
việc hàng ngày. Tôi đã tạo được tên tuổi cho mình cả ở trong lẫn ngoài nước,
nhưng tôi cũng đã làm mích lòng một số người và tạo ra một số kẻ thù ở trong và
ngoài chính quyền. Trừ những người làm việc gần gũi với tôi và những người hiểu
rõ tôi, còn thì người ta không thích tánh thẳng thắn của tôi, thậm chí không
thích cả sự thanh liêm của tôi và chắc chắn là không thích quyền lực của tôi.
Nhưng đa số vẫn phục sự hiểu biết chuyên môn của tôi và kính trọng tính trung
thực của tôi. Đám thương gia Chợ Lớn nói với nhau rằng có lẽ tôi là người duy
nhất trong chính phủ Việt Nam thực sự lương thiện, nhưng họ cũng nói thêm là khó
mà đối phó với tôi và không ai có thể đánh lừa tôi được; tôi hiểu rõ công việc
của mình và không chịu nhượng bộ dễ dàng.
Xung quanh ông Diệm và anh em của ông có một lô người bám theo kiếm chác. Tôi thường nhận được lời yêu cầu giúp đỡ họ nhưng tôi thường từ chối bởi vì cách làm của họ không chính đáng và những điều họ đề nghị chẳng đúng phương thức làm ăn. Người đúng đầu của cả nhóm này là Ngô Đình Thục, anh cả của ông Diệm; Ông Diệm rất thương và kính trọng ông ta. Mặc dù là một giám mục Thiên Chúa giáo, ông Thục rất sát trần tục, ông ta dính líu vào một lô chuyện làm ăn dưới cái cớ là gây quỹ để mở mang trường đại học Đà Lạt, ngôi trường mà ông ta bảo trợ. Một người trong đám phụ tá của ông ta từng tới gặp tôi nhiều lần để xin vay tiền cho một trong các công ty của ông Thục chuyên khai thác lâm sản và xuất khẩu gỗ. Bởi vì cách hoạt động của các công ty này cũng không hợp thức cho lắm và nguồn tài chánh của nó cũng không ổn định nên tôi buộc phải từ chối. Hình như Ông Thục có than phiền với T.T. Diệm, vì một ngày nọ ông Diệm bảo tôi nên giúp đỡ cho người anh của ông bởi vì ông ấy đang cố phát triển giáo dục cho dân chúng. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe điều này, bởi ông Diệm không bao giờ can thiệp vào việc làm ăn của ai và cũng không bao giờ lên tiếng xin chiếu cố cho ai. Tôi nói với ông Diệm nếu các công ty của ông Thục làm ăn bình thường như các doanh nghiệp khác và tài chánh ổn định hơn thì tôi sẽ rất vui lòng giúp đỡ, bởi vì Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín của tôi có nhiệm vụ phải hỗ trợ cho các công ty Việt Nam. Nhưng đám người điều hành các công ty của ông Thục lại ưa hoạt động bằng cách đòi được đặc ân và quyền ưu tiên hơn là hoạt động bình thường, và vì vậy tôi bắt buộc phải từ chối. Có lẽ tôi là người duy nhất dám nói “không” với T.T. Diệm; tất cả mọi người đều qụy lụy trước ông ta (có lẽ chỉ trừ hai ông Nhu và Thục), không ai dám từ chối ông điều gì. Đám phụ tá của Ông Thục không bao giờ tới gặp tôi nữa. Trong chuyện này tôi có dịp chứng kiến sự chính trực và liêm khiết của T.T. Diệm: kể từ ngày đó ông không nhắc tới chuyện này nữa. Tôi luôn luôn kính trọng ông Diệm vì sự thanh liêm của ông, nhưng sau khi Hoàng Khắc Thành lên thay tôi cầm đầu Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, thì ông Thục và đám bộ hạ như Nguyễn Văn Bửu đâm ra hưởng được nhiều sự dễ dãi khi xin hỗ trợ của ngân hàng – gần như không giới hạn. Dưới sự điều hành của Hoàng Khắc Thành, phương thức hoạt động của ngân hàng đã thay đổi một cách triệt để; anh ta sẵn sàng thỏa mãn bất cứ yêu cầu nào của những người có quyền thế, không cần biết nó có chánh đáng hay không.
Thành vốn tốt nghiệp cùng
trường với tôi, trường H.E.C., và được tập sự vài năm ở Đông Dương Ngân Hàng.
Sau đó anh ta về làm việc ở Ngân hàng Việt Nam Công Thương, một ngân hàng thương
mại nhỏ, và được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc, nhưng vài tháng sau thì anh ta bị
sa thải, lý do chánh thức đưa ra là vì thiếu năng lực. Tôi biết rằng điều này
không đúng; anh ta rất có năng lực nhưng anh ta rất hống hách và tự cao. Sau đó
tôi mới biết anh ta bị sa thải vì một lý do khác. Anh ta tánh tình nóng nảy,
thường nhục mạ nhân viên bằng tiếng Pháp với một ngôn ngữ rất thô lỗ -merde, salaud, cochon (cứt, đồ khốn, đồ
lợn)…; ban Giám đốc và nhân viên đã than phiền rất nhiều với Hội đồng Quản trị,
và Hội đồng đành phải sa thải anh ta. Tôi nghĩ rằng Việt Nam còn rất thiếu
chuyên viên và người có năng lực, không thể để mất một người như vậy, vì vậy tôi
đã mời anh ta vào và cho anh ta làm phụ tá cho tôi, với chức Tổng kiểm soát. Kể
từ đó anh ta không nói năng thô lỗ nữa; và tôi cũng tìm mọi cách để tránh cho
anh ta đụng chạm với nhân viên. Anh ta làm việc lặng lẽ trong văn phòng, tỏ ra
khiêm tốn, nhưng lại rất khó khăn với khách hàng, họ đều ghét làm việc với anh
ta. Vì vậy hầu như tôi chỉ sử dụng anh ta cho công việc nội bộ và không để anh
ta tiếp xúc nhiều với khách hàng. Anh ta cứ luôn miệng nói sẽ vào một nhà thờ đi
tu. Nhưng sau này khi tôi đã từ chức khỏi Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và anh
ta lên thay tôi theo lệnh của ông Nhu vào năm 1961, anh ta hoàn toàn thay đổi
phong cách và bắt đầu chơi trò chính trị . Anh ta trở nên nhiều tham vọng; và
bắt đầu tán tỉnh những người có quyền để dễ thăng chức. Anh ta chấp nhận làm bất
cứ điều gì để làm vừa lòng cấp trên. Sau khi tôi rút lui khỏi Ngân Hàng Quốc Gia
cũng đóng tại cơ sở này, anh ta lại càng được tự do hơn, thay đổi hoàn toàn
chính sách của ngân hàng để có thể đáp ứng yêu cầu đám người có quan hệ với gia
đình ông Diệm. Anh ta cố hết sức để làm vừa lòng
ông
Nhu, người em và là vị cố vấn chính trị đầy
quyền lực của ông Diệm, và Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng phủ Tổng thống; thế rồi anh ta cưới một
cô gái do Nhu giới thiệu. Ta có thể thấy tham vọng và danh vọng có thể thay đổi
một con người như thế nào! Từ một con người khiêm tốn luôn miệng nói đi tu, anh
ta bắt đầu chơi trò chính trị, xun xoe với cấp trên, rồi sau đó lấy vợ! Anh ta
đi lệch khỏi các chính sách mà tôi đã vạch ra cho ngân hàng, anh ta càng ngày
càng nới rộng các khoản tín dụng cấp cho đám bạn bè dòng họ của ông Nhu, những
người mà trước đó tôi đã từ chối không cho vay. Anh ta giúp đỡ
ông
Ngô Đình Thục, cũng lại là người anh của T.T, Diệm mà tôi đã từ
chối. Tất cả những con người khả nghi chung quanh
ông
Diệm và gia đình ông giờ đây có thể tới xin anh ta vay tiền. Ngân
hàng đã mất đi tính chất ban đầu của nó và càng ngày càng trở nên một chỗ nương
tựa chính trị và tài chánh cho đảng Cần Lao của ông Nhu và các thành viên trong
gia đình T,T, Diệm. Những người tốt trong ban giám đốc ngân hàng rất thất vọng
và than phiền rất dữ, những thành viên có mưu đồ chính trị bắt đầu ngoi lên;
tính chất chuyên môn của ngân hàng mất dần.
Thành dùng đạo Thiên Chúa để
cầu cạnh Ông Diệm, Nhu và Thục. Anh ta chính là người đã làm cho ông Diệm một
đôi khi quên mất sự thanh liêm chính trực của mình. Nếu ông Diệm can thiệp vào
để đòi đặc ân cho đám bà con, điều này tôi không chắc lắm, thì tôi cũng không
trách ông Diệm. Tôi chỉ trách Hoàng Khắc Thành, kẻ đã mở toang cánh cửa tham
nhũng cho cả gia đình ông Diệm. Sau khi đã mua chuộc được sự giúp đỡ của Ông
Diệm và ông Nhu bằng cách đó, anh ta trở nên rất hách dịch, cả ở trong lẫn ngoài
Hội Đồng Tiền Tệ Tối Cao. Một ngày kia Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, vốn biết
anh ta đã từng làm việc dưới quyền tôi, đã hỏi tôi tại sao anh ta lại hách dịch
như vậy và khi anh ta làm việc với tôi thì anh ta có hách dịch như vậy không.
Tôi nói với ông Thơ rằng trước khi anh ta tới ngân hàng tôi, thì anh ta làm việc
cho một ngân hàng khác và rất hách dịch, vì vậy anh ta bị đuổi; giờ đây anh ta
chơi trò chính trị và đã leo lên một địa vị cao mới, anh ta nghĩ rằng mình đã
thành đạt và đã có thể coi thường thiên hạ. Đó là lý do vì sao anh ta bị tống vô
tù sau khi T.T. Diệm bị lật đổ bởi cuộc đảo chánh 1963, trong lúc
ông
Thơ vẫn an toàn và được các Tướng lãnh bầu lên làm Thủ tướng.
Sau khi trốn khỏi Việt Nam, với
sự giúp đỡ của một đồn điền cao su Pháp, Thành đến làm việc ở xứ Côte d’Ivoire,
trong chương trình viện trợ kỹ thuật của Pháp. Tôi nghe nói rằng anh ta rất chua
chát và kịch liệt chỉ trích Việt Nam, quê hương của chính anh ta, vì đã tống anh
ta vào ngục. Tôi luôn luôn coi anh ta là một tay kỹ thuật giỏi và đất nước chúng
ta trong tương lai có thể cần đến những người như vậy. Vì thế nên mặc dù những
điều xấu xa anh ta đã làm với tôi, với Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và với ông
Diệm, tôi vẫn viết cho anh ta một lá thư đề nghị anh ta quên hết mọi chuyện
không may, bởi vì tôi vẫn mong một ngày nào đó anh ta trở về phục vụ đất nước.
Anh ta không thèm trả lời. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy tâm tính con người khó
sửa đổi đến mức như vậy! Anh ta rơi xuống vũng bùn. Một người khác chìa tay ra
để kéo lên. Anh ta từ chối. Phải chăng vì cái "tôi" quá lớn? Tôi nghe kể lại là
khi anh ta nhận được thư tôi, anh ta đã chửi rủa om sòm. Một vài người bạn cho
tôi biết sở dĩ anh ta nổi giận là vì vào năm 1967 tôi đã đóng cửa mỏ than Nông
Sơn, vốn do người anh của anh ta là Hoàng Kính quản lý. Vào một thời gian nào đó
trong năm 1957 ông Diệm đã phong Kính làm Tổng giám đốc, khi ông quyết định mở
lại mỏ than này. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi từ đó tới giờ và cái địa điểm này
vốn nằm khuất mịt mùng trong rừng rậm đã hoàn toàn bị Việt cộng cô lập và chính
phủ phải duy trì một đồn lính lớn ở đó để bảo vệ nó. Vì lượng than sản xuất quá
nghèo nàn mà việc chuyên chở lại quá bấp bênh và quá đắt, nên tôi quyết định
đóng cửa nó, sau một chuyến thanh tra chớp nhoáng hết sức nguy hiểm.
Tôi rất vui mừng với vị trí của mình bên cạnh
ông Diệm, với việc tôi có thể phục vụ đất nước mà không để bị dính vào chuyện
chính trị như những người khác; nhưng nó cũng nhiều lần làm tôi phải nhức đầu.
Từ năm 1960, những cơn nhức đầu của tôi trở thành trầm trọng khi ông Diệm càng
ngày càng trở nên độc tài với người ngoài và càng dễ dãi đối với gia đình ông.
Con người bí mật Ngô Đình Nhu, người luôn luôn tạo cho mình một vẻ ngoài huyền
bí và được dân chúng khiếp sợ, càng lúc càng có thêm quyền lực, còn người em
phóng khoáng hơn của ông Diệm là Ngô Đình Luyện càng ngày càng yếu thế. Vợ của
Nhu, “bà Nhu”, con người tai tiếng và mâu thuẫn, càng ngày càng bị công chúng
thù ghét và sự có mặt của bà ta trong dinh tổng thống càng ngày càng phủ bóng
đen lên ông Diệm. Tôi đã cố gắng cứu ông ra khỏi vòng vây của đám phụ tá khúm
núm và nịnh bợ, khỏi đám anh em hống hách và thiếu thực tế của ông đang làm ông
bị cô lập với thế giới bên ngoài. Ông Diệm thật tình không biết điều gì đang xảy
ra ở bên ngoài dinh Tổng thống. Tôi cố gắng thông báo với ông những gì đang thực
sự xảy ra trên đất nước càng nhiều càng tốt, nhưng việc ấy không dễ dàng. Ngay
cả những lãnh tụ lớn như Diệm cũng chỉ muốn nghe những tin vui và ghét nghe
những tin xấu; sự xu nịnh và những lời khen giả dối thường được chào đón niềm nở
hơn là sự thật đơn giản.
Từ năm 1956, ông Nhu bắt đầu tổ
chức chi nhánh đảng Cần Lao của ông ta, phát triển nó vào cơ quan chánh phủ, vào
các xí nghiệp của nhà nước; tất cả mọi nhân viên dân sự và quân sự phải vào đảng
(tôi không vào); họ phải trả đảng phí hàng tháng và phải móc tiền túi ra đóng
góp quà cáp cho bọn “chóp bu” trong đảng. Công ty Đường Quốc Gia là một công ty
độc quyền nhà nước đã làm lời được một số tiền khổng lồ. Trương Văn Tố, một
trong những tay chân của ông Nhu điều hành công ty này, mỗi tháng đóng một số
tiền đáng kể cho Kỳ bộ Sài Gòn-Chợ Lớn; một người bạn của tôi làm việc cho công
ty Đường đã kể tôi nghe về khoản đóng góp này. Một ngày kia, sau buổi họp thường
lệ với T.T. Diệm, tôi kể ông nghe câu chuyện. Mặt ông đỏ bừng và sắt lại: cơn
thịnh nộ nổi tiếng của ông sẵn sàng bùng nổ. Khi tôi kể xong và chuẩn bị ra về
thì ông Nhu mở cửa bước vào – ông ta là người duy nhất có quyền làm vậy –. Ông
Diệm xây gương mặt đỏ gay về phía ông Nhu và hỏi anh ta có thật như vậy không.
Gương mặt ông Nhu tái như xác chết khi anh ta thấy tôi ở đó, kế bên Ông
Diệm. Anh ta ném cho tôi một cái nhìn hằn học, lẩm bẩm vài tiếng trong miệng
nhưng không trả lời; theo quan niệm thông thường của người Việt Nam và cách tôi
học với ông giám đốc Kredit Bank, thì những người mặt cắt không ra một giọt máu
như vậy là người rất trí trá; họ sẽ không đánh anh ngay đâu, họ chờ đến lúc anh
ít cảnh giác nhất mới ra tay – đó là trường hợp của những người tôi đã kể ở
trước và sau này nữa –. Vào lúc đó tôi đã tự nhủ với mình là anh ta sẽ không
quên đâu và tôi phải coi chừng anh ta tìm cách trả thù mà không hề lộ cho tôi
biết! Ông Diệm hét với ông Nhu, “Tôi không muốn có lối nộp tiền cho đảng như vậy! Chấm dứt ngay!”. Tôi cảm thấy lúng túng nên chào từ giã. Ngày hôm sau người bạn tôi ở công ty Đường gọi điện cho tôi hỏi tôi đã làm gì với cái tin anh báo với tôi hôm trước. Tôi cười lớn. Anh ta bèn nói là ở bộ phận kế toán của công ty anh, người ta đang sửa lại sổ sách lung tung. Hai ngày sau, khi tôi lại gặp Ông Diệm, ông nói với tôi một cách ngây thơ rằng ai đó đã làm cho tôi hiểu sai về chuyện đóng tiền. Đó chỉ là chuyện giao dịch làm ăn giữa công ty Đường và hãng kinh doanh của đảng ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Tôi nói gì được? Tôi làm gì được? Nó chỉ làm cho tôi thêm thất vọng với T.T.
Diệm và chế độ của ông. Ba bốn sự cố như vậy, cùng thái độ hách dịch và cung
cách làm ăn cậy quyền cậy thế của Nhu, những lời đồn đãi không ngớt về chuyện
Hoàng Khắc Thành giúp đỡ đám anh em dòng họ và tay chân của Diệm, cũng như sự
tin tưởng ngây thơ của ông với đám người xu nịnh bao quanh, lần lần làm tôi nhận
ra thấy sự yếu đuối của ông và sự khó khăn của tôi khi một thân một mình chống
lại số cận thần xu nịnh càng ngày càng đông đang xúm xít quanh ông. Những người
giúp việc cho Diệm, phần đông các Bộ trưởng và công chức không dám nói sự thật
cho ông hay, hoặc không dám đương đầu với cơn thịnh nộ của ông nếu báo tin xấu.
Tất cả bao vây ông đêm ngày và cô lập ông với thế giới bên ngoài.
Trở thành con người luôn luôn phản kháng
mỗi khi nhận định tình hình và chỉ là một tiếng nói lẻ loi còn chưa bị chi phối
bởi quyền lợi riêng tư, tôi càng ngày càng bực bội và thất vọng trong công việc
hàng ngày. Trong lúc đó vì nhiều cơ quan quốc tế nhìn thấy kinh nghiệm của tôi,
tìm cách tiếp xúc với tôi; tôi bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc từ
chức và ra nước ngoài làm việc, để có thể có một thời gian đánh giá lại tình
hình trong nước, nơi cuộc chiến tranh đang càng ngày càng trở nên khốc liệt.
Thế rồi thình lình một biến cố xảy ra trong gia đình tôi, và tôi
mất tất cả mọi thứ. Thêm vào đó, sự chán nản với chế độ Ông Diệm làm tôi mất hết
quyết tâm và nghị lực. Tôi quyết định từ chức. Ngày hôm sau tôi tới gặp Ông Diệm
sau một đêm thức trắng, suy nghĩ và nhìn thật sâu trong lòng mình. Ông Diệm miễn
cưỡng chấp nhận việc từ chức của tôi ở Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, nhưng yêu
cầu tôi tạm ở lại Ngân Hàng Quốc Gia cho tới khi ông tìm ra được người thay thế.
T.T. Diệm không bao giờ bao giờ thay thế tôi ở Ngân Hàng Trung Ương.
Đó là ngày 15/9/1960.
Tôi vẫn tiếp tục nhiệm vụ Tổng giám đốc ở Ngân Hàng Quốc Gia mà
lòng không vui; ngân hàng này nằm cùng một toà nhà với Việt Nam Thương Tín. Tất
cả lòng can đảm và phấn khởi của tôi đã mất hết. Hoàng Khắc Thành bắt đầu tăng
tốc trò chính trị của anh ta, lui tới Ngô Đình Nhu và Nguyễn Đình Thuần để xúc
tiến việc thăng chức nhằm thế chỗ tôi. Tôi cũng chẳng hề quan tâm, trong lòng
tôi chỉ còn một ước muốn điều duy nhất là rời khỏi công việc và chính phủ. Tôi
không làm Cố vấn kinh tế tài chánh cho ông Diệm nữa; và tôi cũng không dự các
buổi họp của Hội Đồng Tiền Tệ Tối Cao nữa. Nhưng ngay cả khi tôi còn ở đó, còn
đứng đầu Ngân Hàng Trung Ương trong cùng một tòa nhà với Ông Thành và chỉ cách
văn phòng anh ta một vài trăm thước, anh ta vẫn cảm thấy đã đủ quyền lực chính
trị với sự nâng đỡ của hai ông Nhu và Thuần; anh ta thay đổi hoàn toàn chính
sách của Việt Nam Thương Tín và bắt đầu phân phát các khoản tiền vay cho đám bạn
bè dòng họ của Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, bà Cả Lễ và Nguyễn Văn Bửu. Anh ta
chấp nhận nhiều việc làm ăn mờ ám của họ và sẵn sàng đối đãi đặc biệt với bất cứ
vụ kinh doanh nào có liên quan đến gia đình của Diệm và Nhu. Tôi ngao ngán đến
nỗi tôi quyết định tới gặp
ông
Diệm lần thứ hai để nộp
đơn từ chức. Ông còn do dự nhưng Nhu thì hối ông chấp nhận. Cuối cùng ông Diệm cũng miễn cưỡng chấp nhận, nhưng ông
ta cấp cho tôi một kỳ nghỉ phép sáu tháng ở Pháp với đầy đủ lương bổng, coi như
là để chữa bịnh, nhưng thật sự là để cho tôi có thể nghỉ ngơi thoải mái sau một
biến cố tâm lý như vậy. Tôi không yêu cầu được ưu đãi, nhưng dù sao đây cũng là
một trường hợp cư xử đặc biệt ở một con người khắc khổ như ông Diệm. Tôi đoán ông ta
muốn thưởng công cho tôi trong những việc tôi đã làm để giúp ông và đất nước mấy
năm nay, vì từ xưa đến nay tôi chưa hề nhận bất cứ một phần thưởng hay sự đền bù
nào cho tất cả những điều tôi làm. Ông còn bắt tôi hứa là sẽ trở về để giúp phát
triển đất nước. Đó là vào tháng 3/1961, hai năm trước cuộc đảo chánh khi các
Tướng lãnh giết chết ông.
Tôi đi Paris, rồi sau một ít thời gian nghỉ ngơi tôi quyết định
quay về nhà để sống với đám con của tôi mà nhiều năm qua tôi đã không thể sống
hết thời gian với chúng, như lòng tôi mong muốn, bởi vì chúng thường ở xa cách
tôi. Tôi luôn luôn cưng con bởi vì tôi rất ít khi gặp chúng, do công việc của
tôi quá bận rộn. Tôi thích chơi với chúng bất cứ khi nào tôi rảnh và mỗi lần từ
nước ngoài trở về nhà tôi đều mua quà và đồ chơi cho chúng. Mấy đứa con tôi nổi
tiếng là có những đồ chơi đẹp nhất thành phố; ngay cả đám trẻ của những gia đình
giàu hơn cũng không sánh được. Bọn trẻ con của những người hàng xóm giàu có
thường chạy qua chơi và trầm trồ khen ngợi những món đồ chơi của con tôi. Tôi
mua từ Paris và New York cho hai đứa con gái tôi là Đạm và Lịch những bộ áo quần
đẹp nhất và những con búp bê đẹp nhất. Tôi vẫn còn nhớ ba bộ đồ cao bồi màu đỏ
và đen mà tôi mua từ Washington cho đứa con trai và hai đứa con gái bởi chúng
bận vào nhìn rất dễ thương khi chúng chơi đùa trong cái trang trại nhỏ của chúng
tôi gần Đà Lạt. Một ngày kia tôi ôm từ Paris về cho Hào, đứa con trai tôi, chiếc
xe hơi đồ chơi to nhất của thời bấy giờ, một chiếc xe model Simca mà thằng nhỏ
có thể leo vô ngồi và lái chạy quanh căn hộ rộng lớn của chúng tôi ở tầng trên
toà nhà ngân hàng. Đạm và Lịch thường hay giành nhau đồ chơi và quần áo vì vậy
mà tôi phải mua mỗi món hai bộ, nhưng hai đứa nhỏ còn biết gìn giữ cẩn thận. Còn
Hào thì chỉ chơi được vài giờ là đã bắt đầu phá tan đồ chơi ra từng mảnh. Khi
tôi từ cơ quan làm việc trở về nhà, vợ tôi than phiền thằng nhỏ và tôi đã lấy
tay phát lên bộ mông đầy đặn của cu cậu một phát mạnh. Lúc ấy cha tôi đang ở
thăm chúng tôi, ông đã ôm thằng nhỏ vào lòng để che cho nó, rầy tôi và chạy giấu
thằng nhỏ trong phòng. Cha mẹ tôi đều thương Hào, bởi vì theo truyền thống gia
đình, đứa cháu đích tôn là đứa quan trọng nhất trong đám cháu.
Sau cái biến cố do một người trong gia đình tôi gây nên làm cho
chúng tôi hoàn toàn phá sản, tôi không còn đủ tiền để mua áo quần đẹp và những
đồ chơi đắt tiền cho con nữa, vậy là tôi lái xe chở chúng đi chơi, đưa chúng tới
bờ sông Sài Gòn hay ra bãi biển câu cá. Tôi lái xe đưa chúng lên cái trang trại
nhỏ ở trên cao nguyên và chơi với chúng. Đó là khoảng thời gian tôi cảm thấy
mình gần gũi với con nhất và tôi thường ôm chúng vào lòng và hôn chúng, nhiều
khi ứa nước mắt nghĩ tới những lúc chúng phải sống xa tôi. Trong suốt thời gian
nghỉ ngơi với gia đình, được xa cách mọi công việc nhà nước, tôi có nhiều dịp để
quan sát người đời; những gì tôi đã học được trong cuộc sống thường nhật và
những gì tôi nhận ra được trong cách cư xử của người đời đã làm tôi mở mắt và
dạy cho tôi nhiều bài học. Giữa những điều ấy, tôi nhận ra rằng có một số người,
Việt Nam cũng như ngoại quốc, thường xây lưng lại phía tôi: những người trước
đây thường cúi gập mình khi đứng trước mặt tôi, những người thường từ xa chạy
lại để kính cẩn chào tôi, những người đã cố tìm mọi cách gặp tôi ở bất cứ cơ hội
nào, giờ đây đã cố lơ tôi khi gặp tôi trên đường phố hay trong các bữa tiệc. Họ
tin rằng sự nghiệp tôi thế là chấm dứt và tôi không bao giờ có thể trở lại một
vị trí có quyền thế. Họ lầm. Chỉ một năm sau tôi đã trở lại với những vị trí
quan trọng nhất trong chính phủ, nhưng tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện trả thù
hay trả đũa; trái lại bất cứ khi nào những người ấy xin giúp đỡ và bất cứ khi
nào có thể, tôi cũng vui lòng giúp họ.
Tháng 9/1961, hết kỳ nghỉ phép tôi về thăm
ông Diệm và báo là tôi muốn tham gia vào khu vực ngân hàng tư, nhưng trong lãnh
vực mà tôi vẫn còn có thể phục vụ lợi ích chung và giúp ông phát triển kinh tế
đất nước: hỗ trợ tài chánh cho nền kỹ nghệ non trẻ của Việt Nam là một mối quan
tâm lớn của ông Diệm. Tôi nói với ông là tôi sẽ giúp sức thành lập một ngân hàng
kỹ nghệ bán công để tài trợ cho việc phát triển kỹ nghệ Việt Nam. Ông Diệm đồng
ý nhưng ông nói hễ khi nào ông cần tôi, ông sẽ gọi và giao cho tôi một trách
nhiệm mới trong chính quyền. Tôi trả lời vâng nhưng tận trong đáy lòng tôi không
tin cho lắm việc tôi sẽ trở lại dưới quyền ông bởi vì tôi biết rằng chế độ ông
đã mất lòng dân và đám tay chân bộ hạ của ông không những đã làm cho những người
đầy thiện chí như tôi mà còn làm cho quần chúng bình thường xa lánh. Ông hứa sẽ
giúp đỡ tận tình cho kế hoạch của tôi. Đó là lần cuối cùng tôi
còn trông thấy ông Diệm, trước khi ông bị giết trong cuộc đảo chánh 1963.
Tôi nói chuyện với Hiệp Hội Ngân Hàng và phái đoàn Viện Trợ Hoa
Kỳ, USAID, họ hoan nghênh và hứa sẽ hỗ trợ tối đa. Sau một vòng tham quan Iran,
Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan và Đài Loan để xem các loại ngân hàng phát triển
khuyếch trương, tôi thành lập Công Ty Khuyếch Trương Kỹ Nghệ SOFIDIV (Société
Financière Pour Le Development de L’Industrie Au Vietnam) với sự hùn vốn của tất
cả các ngân hàng mà trong đó ngân hàng cũ của tôi, Ngân Hàng Việt Nam Thương
Tín, có cổ phần lớn nhất.
Trong vấn đề này, cũng có một
chuyện buồn cười, cho thấy rõ lòng người lắm khi cũng đâm ra nhỏ mọn trong công
việc làm chung cho đất nước. Khi tôi còn làm Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam, tất cả các ngân hàng thương mại, Viêt nam cũng như ngoại quốc, đều làm
việc đúng với chánh sách của tôi đã vạch ra. Ngay
cả ông giám đốc Ngân Hàng Pháp Á, người muốn cho mọi người thấy ông ta là lãnh
dạo -- mặc dầu Hội cũng đã có một ông chủ tịch người Viêt--, cũng nghe lời tôi.
Nhưng khi thành lập SOFIDIV, thì tay Giám Đốc Ngân Hàng Pháp Á này lại dứng ra
dẫn đầu Hiệp hội Ngân hàng, và không chịu cho SOFIDIV dùng chữ Ngân Hàng mà chỉ
muốn gọi là Công Ty SOFIDIV, mặc dầu công việc SOFIDIV là công việc của một Ngân
hàng khuyếch trương kỹ nghệ, chứ không phải công việc cuả một công ty . Ông chủ
tịch Hiệp Hội Ngân Hàng, một người rất dễ thương nhưng mềm yếu, không dám nói
một lời cưỡng lại. Đây là cách trả thù nhỏ mọn cuả một
Ngân hàng Pháp và tay Giám đốc của nó. Nhưng hai năm sau, khi tôi ở Hoa
Kỳ về nhậm chức Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, thì đâu lại vào đó, và
tất cả mọi việc trong ngành ngân hàng lại được điều hành một cách nghiêm túc như
ngày trước; viên Giám đốc Ngân hàng Pháp Á cũng vẫn còn đó nhưng luôn luôn thi
hành mệnh lệnh Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam một cách nghiêm chỉnh, không dám hó
hé nữa.
Chế độ T.T. Diệm đang đương đầu với những rối rắm
về xung đột tôn giáo, những cuộc biểu tình chính trị, sự bất an xã hội, và những
khó khăn kinh tế nghiêm trọng. Chính quyền Mỹ muốn ông Diệm cải cách chính trị
để lấy lại lòng dân. Vì ông cứ trì hoãn và chống lại áp lực của Mỹ, nên quan hệ
giữa hai nước đồng minh sa sút đi mau chóng. Diệm được khuyến cáo nhiều lần là
phải để cho Nhu rời khỏi chính quyền và mở rộng chính phủ cho những người ở bên
ngoài đám thân cận ông. Diệm còn muốn trì hoãn mãi nhưng ông cũng biết Việt Nam
không thể đánh giặc một mình mà không có sự trợ giúp của Mỹ. Thỉnh thoảng ông
cũng có nghĩ tới việc mở rộng chính quyền nhưng ông không tin những người đối
lập với ông.
Vì vậy ông muốn tìm kiếm những người không có liên hệ chính trị
hoặc những người chuyên môn mà chính phủ Mỹ có thiện cảm. Tên tôi được nhắc tới
nhiều lần và ông Diệm cũng thích nhưng Nhu phản đối dữ dội. Nghe kể chuyện ấy,
tôi đã cố tránh tiếp xúc với T.T. Diệm; bất cứ khi nào nghe tin đồn sắp thành
lập lại nội các, thì không như những người khác hăm hở muốn có một chỗ trong nội
các mới, tôi lại cố tìm cách lánh về vùng nông thôn dưới đồng bằng sông Cửu
Long, hoặc là ra nước ngoài để tránh bị gọi tên vào danh sách. Tháng 10/1963 khi
nghe tin đồn về nội các chính phủ mới, tôi bay qua Hồng Kông và tránh không ghé
thăm một người bạn cũ làm Lãnh sự Việt Nam ở đó vì sợ anh ta sẽ báo cho ông Nhu,
ông Diệm biết. Rồi vì không cảm thấy an toàn ở Hồng Kông, tôi bay qua Nhật, ở đó
một buổi sáng khi xem TV ở trong phòng, tôi nghe tin chính phủ Việt Nam bị lật
đổ và vài giờ sau nghe T.T Diệm và ông Nhu bị giết chết. Đột nhiên nước mắt tôi
chảy dài xuống má. Tôi cảm thấy buồn vô cùng. Quả là quá tệ hại khi ông cứ cứng
đầu không chịu tự do hóa chế độ của ông. Mọi việc có thể hoàn toàn khác nếu ông
để Nhu ra đi. Cái chết của ông làm tôi cảm thấy đau lòng suốt nhiều năm và mỗi
lần nhớ tới ông là tôi lại buồn hết sức. Khi tôi nói chuyện với ông Pinay, ông
này cũng tiếc là các Tướng lãnh đã giết chết ông Diệm thay vì cho ông ta đi lưu
vong.
Trong thời gian đó tôi cố gắng phát triển SOFIDIV và không bao
lâu tôi phải tìm những nguồn tài trợ mới cho các hoạt động càng lúc càng rộng
lớn của SOFIDIV. Một tay cựu nhân viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) vừa mới
được bổ nhiệm làm Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương; ông ta là một người tốt nghiệp
đại học Havard và đã làm việc ở IMF vài ba năm. Nguyễn Xuân Oánh được bổ nhiệm
với một chiến dịch quảng cáo rầm rộ do ông ta tổ chức trên báo chí, ca ngợi cái
lý lịch Havard và việc làm trước đây ở IMF của ông ta. Oánh là một tay đóng kịch
số một và là một chuyên gia trình diễn trước công chúng: với khuôn mặt đẹp trai
và một nụ cười dễ thương, cử chỉ êm ái, ông ta rất nổi tiếng và nhanh chóng tạo
được tiếng tăm. Ông ta có biệt tài trưng ra những tên tuổi lớn (của những nhận
vật chính trị Mỹ), giỏi vận dụng các phương tiện truyền thông, và không hề làm
gì để cải chính những lời đồn đại xung quanh mối liên hệ giữa ông ta với bộ
Ngoại giao và bộ Quốc phòng Mỹ. Ông ta đã gây được ấn tượng ở nơi tôi, ít ra
cũng là con người mà tôi hình dung qua báo chí. Tôi nghĩ nhất định ông ta là
người tôi cần cho SOFIDIV bởi vì ông ta đã ở một trong hai tổ chức song sinh là
Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và nhất định phải
rất rành cơ cấu tài trợ các ngân hàng khuyếch trương. Tôi tới gặp Nguyễn Xuân
Oánh và bàn về những ngân hàng khuếch trương kỹ nghệ, về mối quan hệ giữa vốn
(equity) hay vốn tương tự (quasi equity), về nguồn vốn từ các khoản vay dài hạn
nước ngoài và vai trò cần thiết của chính phủ trong đòn bẩy đối với các tổ chức
tài chánh. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Oánh hoàn toàn không hiểu gì hết về vấn
đề tài trợ khuyếch trương và vay vốn nước ngoài. Không những ông ta không hiểu
một tí gì về tài trợ khuếch trương mà ông ta cũng không biết gì về các hoạt động
của World Bank trong lãnh vực này, lại càng không hề biết gì về đòn bẩy trong
việc vay vốn nước ngoài. Vậy mà IMF là cơ quan sinh đôi của World Bank, và cả
hai tổ chức này nằm ở sát bên nhau, nhân viên của cả hai tổ chức thường làm việc
chung với nhau trên cùng một dự án, trên cùng một quốc gia thành viên và cùng
nhau đi ăn trưa mỗi ngày. Ông ta xin tôi cho ông ta một văn kiện nói rõ về những
vấn đề này, tôi đồng ý; và một tuần sau đó tôi lại đến gặp ông ta. Lần này thì
mối nghi ngại của tôi là ông ta không hề biết gì đến tài trợ ngân hàng khuyếch
trương đã được xác nhận. Tôi hết sức thất vọng vì với tư cách là Thống đốc Ngân
Hàng, đáng lý ông ta phải biết làm thế nào để tài trợ vốn cho một ngân hàng
khuyếch trương, việc này là một nhiệm vụ bình thường của một Thống đốc Ngân Hàng
Trung Ương. Mặc dù ông ta làm việc cho IMF, cơ quan chị em và láng giềng của
World Bank, hình như ông ta không biết gì hết về World Bank, và nghiêm trọng hơn
nữa, không biết gì hết về ngân hàng. Vậy mà ông ta lại được bổ nhiệm Thống đốc
một Ngân Hàng Trung Ương. Đây là lần thứ ba chính phủ Việt Nam đã lầm vì bị bằng
cấp đánh lừa khi bổ nhiệm một con người vào một công việc chuyên môn cao cấp, mà
không chịu nhìn vào phẩm chất chuyên môn thật sự cần thiết cho công việc. Tôi trở về gặp ông Nguyễn
Ngọc Thơ và nói cho ông hay cuộc tiếp xúc với Nguyễn Xuân Oánh. Thơ thừa nhận là
ông bị lung lạc bởi bằng Ph.D của Oánh, bởi các mối quan hệ của ông ta khoe
khoang và tiếng tăm đồn đãi về ông ta nên ông đã không nhìn vào khả năng chuyên
môn mà công việc của một vị Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương đòi hỏi.
Về sau tôi được biết ông Nguyễn Xuân Óanh chỉ là một nhân viên
kinh tế ở IMF, nơi ông ta đã bị thuyên chuyển hết ban này qua ban khác. Năm 1964
ông ta có mặt ở buổi hội thảo thường niên IMF-IBRD ở Tokyo, mỉa mai thay đó cũng
là buổi hội thảo mà World Bank đã phỏng vấn tôi về chức vụ Chánh sự vụ ở IFC
(một nhánh của World Bank). Trong lần gặp gỡ thứ hai với Nguyễn Xuân Oánh, nghe
ông ta nói đến hội thảo thường niên IMF–IBRD, tôi tình cờ đề cập tới việc tôi
cũng đã tham dự buổi hội thường niên Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế - Ngân Hàng Thế Giới
(IMF-IBRD) ở Tokyo đó và đã được World Bank phỏng vấn để nhận chức vụ Chánh sự
vụ phụ trách ngân hàng phát triển ở các quốc gia nói tiếng Pháp.
Khi ông ta nghe vậy, ông ta tái mặt đi,
nhưng rồi ông ta nhanh nhẹn mỉm cười với một nụ cười diễn viên, và ông ta nói
một chức vụ như vậy "cũng được"! Thế nhưng chức vụ đó lại cao hơn chức vụ kinh
tế gia của ông ta nhiều bậc. Vì ganh tị nên ông ta không nuốt trôi được sự kiện
này và ông ta bắt đầu có ác cảm với tôi kể từ ngày đó. Sau này tôi được bổ nhiệm
làm phó Quản trị viên Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, rồi sáu năm sau được bổ nhiệm Cố vấn
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế; cả hai chức đều cao hơn chức của ông Oánh nhiều bậc.
Oánh là một người rất tự cao, ông ta không
thể nhìn thấy người nào có một điều gì tốt hơn ông ta hoặc nhiều hơn anh ta. Về
sau ông ta bị Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cách chức, vì hai lý do,
một là thiếu năng lực chuyên môn nên không quản trị được Ngân Hàng Quốc Gia, gây
thêm hỗn loạn cho ngân hàng một lần nữa, và, thứ hai, là vì ông thích chơi trò
chính trị, để mong kiếm một chức vụ quan trọng trong thời gian các vụ đảo chánh
và phản đảo chánh liên tiếp xảy ra, khi các Tướng lãnh chỉ lo đánh nhau để tranh
giành quyền lực.
Khi tôi được mời từ Washington về thay thế ông ta ở chức vụ Thống
đốc Ngân Hàng Quốc Gia, ông ta không muốn hiểu rằng ông ta bị giải nhiệm vì
thiếu năng lực chuyên môn; ông ta cứ nghĩ là tôi đã vận động tống ông ta đi;
trong khi đó thì tôi được chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh cho Đại Sứ Việt Nam
tại Hoa Kỳ, ông Vũ Văn Thái, đến tìm tôi và mời tôi về thay thế ông Óanh để phục
vụ
đất nước; Thủ Tướng Kỳ cũng ra lệnh cho phái đòan Việt Nam đi dự Hội Nghị
Thường Niên, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới ở Washington, cố gắng
thuyết phục tôi về giúp chánh phủ của ông vì, như ông nói,
ông cần có một chuyên viên ngân
hàng giỏi về kinh tế tài chánh để quản trị tất cả nền kinh tế tài chánh của quốc
gia, để cho ông ta rảnh tay mà lo
việc bảo vệ đất nước. Lúc ban đầu, tôi cũng lo sợ theo tình hình bấp bênh của
nước nhà trong cuộc chiến tranh rất tàn khốc với miền Bắc, nên tôi cũng ngần
ngại không muốn nhận lời mời của Tướng Kỳ. Sau cùng tôi bằng lòng nhận nhiệm vụ
mới để thay thế ông Óanh, sau một chuyến viếng thăm Viêt Nam, theo lời mời của
Tướng Kỳ, và sau khi chánh phủ Kỳ đã giải nhiệm ông Oánh.
Vì ganh tị
với sự nghiệp của tôi, ông Oánh đã làm hại tôi rất nhiều sau lần về thăm Việt
Nam đầu tiên năm 1991, khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt tiếp đón tôi hết sức nồng
nhiệt, sau khi tôi đã trình bày trong một buổi họp, những khó khăn kinh tế tài
chánh lúc đó cuả Việt Nam và đề nghị với ông những phương án giải quyết các vấn
đề này. Đến lúc chia tay, tôi chào từ giã Thủ tướng Kiệt nhưng ông không cho tôi
đi, ông cứ nắm chặt tay tôi và tiếp tục khẩn khoản mời tôi trở về giúp nước, mặc
dù ông đã trễ để gặp Tổng bí thư Đỗ Mười đang ngồi chờ ông ở nhà bên cạnh hơn nửa
tiếng đồng hồ. Khi tôi trở về Việt Nam lần thứ hai, cũng theo lời yêu cầu của
Thủ tướng Kiệt, tôi thấy ông tỏ ra lạnh nhạt. Oánh
đã làm xong công việc của ông ta trong thời gian qua, ông ta đã huỷ hoại mọi
tiếng tăm của tôi trong lòng Thủ tướng
Kiệt.
Hinh 2.
Hội đồng Quản trị Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF năm 1969.
Khi tôi sắp rời Việt Nam, Lâm Võ Hoàng,
người đã từng làm việc với tôi ở Việt Nam Thương Tín, đã khẩn khoản yêu cầu tôi
bỏ qua sự ganh tị của ông Oánh và hành động xấu xa của ông ta; Hoàng đề nghị tôi
tới bắt tay giảng hòa với Nguyễn Xuân Oánh. Tôi không tin là ông Oánh có đủ can
đảm để gặp tôi sau những năm ganh ghét và bôi nhọ tôi như vậy. Nhưng vì Hoàng cứ
van nài nên tôi đành leo lên xe gắn
máy cùng đi với Hoàng tới văn phòng ông Oánh. Chúng tôi đợi 15 phút, rồi thêm 20
phút; Hoàng mất kiên nhẫn, đến gặp cô tiếp tân hỏi chuyện gì xảy ra. Cô ta bước
vào phòng Oánh rồi cho Hoàng hay là ông ta đang bận họp giao ban thường lệ, việc
này thường không lâu bao nhiêu và ông ta sẽ ra ngay. Chúng tôi đợi thêm 15 phút
nữa. Khi Hoàng thấy ông Oánh không ra sau một thời gian quá lâu như vậy, anh
bước tới chỗ tiếp tân và nói lớn: “Một người khách đã đi từ Mỹ tới đây, hết 12
ngàn cây số để gặp ổng, còn ổng thì chỉ bước có 5 bước để đi ra, vậy mà ổng cũng
không ra! Con người chức cao mà sao quái gở vậy! Từ rày trở đi tôi không bao giờ
thèm tới đây gặp ổng nữa!” Tôi cảm thấy bối rối nên kéo Hoàng ra ngoài, trong
lúc ông ta vẫn tiếp tục trút cơn thịnh nộ về phía ông Oánh. Sau khi tôi đã quay
trở về nước Mỹ, vài tháng sau đó, một người bạn kể cho tôi hay là ông Oánh đã
nói với một người khách từ Mỹ về là tôi “năn nỉ ” xin gặp ông ta nhưng ông ta từ
chối tiếp tôi; ông Oánh kể câu chuyện này với một nụ cười mãn nguyện! Cung cách
gì vậy ở một giáo sư, một cựu Phó Thủ tướng, một cựu Thủ tướng – dầu chỉ có vài ngày thôi – và là một
trong những nhân vật thượng lưu danh tiếng của xã hội Việt Nam!
Để tìm thêm vốn cho công ty SOFIDIV, tôi
cũng phải hướng về bộ Kinh tế. Tổng trưởng Kinh tế lúc ấy là Âu Trường Thanh,
người rất thông minh và rất nhiều tham vọng chính trị. Tôi nói chuyện với Thanh
khoảng một vài tuần lễ về việc tài trợ cho SOFIDIV thì một ngày kia viên Chủ
tịch Hội đồng Quản trị của SOFIDIV, Nguyễn Thành Lập, kể tôi nghe là Thanh đã
gọi điện cho ông và yêu cầu ông sa thải tôi mà không nói lý do. Lập là một người
rất dễ thương và rất lịch sự nhưng tánh tình hơi mềm yếu; tuy nhiên ông đã từ
chối không tuân lệnh vị Tổng trưởng. Ông đã nói với Thanh là Hội đồng Quản trị
không thể sa thải tôi bởi vì tôi là một Giám đốc rất có năng lực và làm việc rất
hữu hiệu và tôi không phạm một lỗi nào cả. Sau đó tôi được biết hành động ấy của
Âu Trường Thanh là do vợ của anh ta, một phụ nữ rất ham mê chức tước; chị ta
giận vợ tôi vì trong một buổi họp mặt bạn bè (hai người từng là bạn thân của
nhau), vợ tôi đã không gọi chị ta là bà Tổng trưởng! Chồng chị ta vừa mới được
bổ nhiệm Tổng trưởng, và ma-đam
Thanh vốn rất tự hào về chức tước của chồng đã muốn rằng tất cả bạn bè gọi chị
ta bằng cái tít "bà Tổng trưởng".
Mỉa
mai thay, một vài tháng sau tôi lại được yêu cầu giúp đỡ Thanh. Sau khi tôi trở
về Ngân Hàng Quốc Gia được vài tháng thì Thủ tướng
Nguyễn Cao Kỳ muốn sắp xếp lại nội các để đưa nhiều người miền Nam vào
nhằm cải thiện hình ảnh chính phủ. Chính phủ miền Nam, đang chiến đấu chống lại
miền Bắc nên dĩ nhiên phải có một số thành phần miền Nam hợp lí. Một vài người,
trong đó có tôi, đã đề nghị Kỳ đặt Thanh vào chức vụ Tổng trưởng Kinh tế. Bởi
Thanh có một số thủ túc là trí thức và chuyên viên trẻ tuổi người Nam nên Thanh
muốn tham gia Nội các Nguyễn Cao Kỳ, vì có mộng chánh trị riêng biệt. Nhưng đám
mật vụ của tướng Nguyễn Ngọc Loan lại có hồ sơ về Thanh như là một người thiên
tả và có quan hệ với chế độ miền Bắc. Cha vợ của anh ta là một đảng viên cao cấp
và cũng là một thành viên cao cấp trong chính phủ Hà Nội. Bởi vì tôi là một
trong những người tiến cử Thanh làm Tổng trưởng Kinh tế nên Kỳ gọi tôi vào, nói
tôi nghe về lý lịch của anh ta do tướng Loan đưa, và hỏi tôi dùng anh ta có mạo
hiểm quá hay không. Tôi nói với Kỳ rằng Thanh là một người thông minh và có năng
lực, anh ta có thể giúp ích cho chính phủ và Kỳ nên dùng anh ta. Kỳ hỏi tôi có
dám bảo đảm cho anh ta nếu Kỳ dùng anh ta hay không. Tôi nói tôi bằng lòng bảo
đảm và Kỳ đồng ý nhận anh ta, điều làm cho tướng Loan không bằng lòng. Loan
không bằng lòng vì ông Kỳ đã đưa Thanh vào nội các và Loan cũng không bằng lòng
tôi vì đã bảo đảm cho Thanh. Thanh không bao giờ biết những gì tôi đã làm cho
anh ta; sự thực thì tôi làm như vậy vì đất nước hơn là vì anh ta, nhưng dù sao
Thanh cũng đạt được điều anh ta mong muốn. Chúng tôi thành bạn bè trở lại và
nhiều năm sau đó khi tôi làm việc với Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, anh ta đã nhờ tôi xin
cho anh ta một công việc trong chương trình hỗ trợ kỹ thuật của IMF; tôi đã tìm
ra việc cho anh ta, nhưng Thanh không trả lời.Và sau này tôi mới hiểu được vì
sao.
Vài tháng sau đó, Thanh đâm sau lưng Kỳ – tôi muốn
nói trên phương diện chính trị – và chứng tỏ là anh ta chỉ có thể phục vụ cho
quyền lợi riêng của chính anh ta chứ không ai khác. Khi một nhóm thành viên trẻ
người Nam trong nội các nổi loạn chống lại ông Kỳ và đe dọa từ chức, Thanh đã
nhảy vào đứng đầu trong đám này và dẫn họ ra khỏi chính phủ. Trong viễn cảnh
cuộc bầu cử Tổng thống sắp tới, đó là một cơ hội rất tốt không tốn tiền để tạo
một hình ảnh chính trị cho anh ta. Thanh vốn là một người Nam, rất nhiều tham
vọng, anh ta nghĩ rằng có thể sử dụng cơ hội này để trở thành người lãnh đạo của
nhóm Nam bộ nhằm chuẩn bị cho những mục đích chính trị xa hơn. Khi anh ta cùng
rút lui với những thành viên người Nam ra khỏi chính phủ của Kỳ, tôi thấy ngay
tức khắc là anh ta đã có tham vọng nhắm tới chức Tổng thống. Nhưng Thanh chơi
rất kín, không ai hay biết tham vọng Tổng thống của anh ta cho tới giây phút
cuối cùng. Sau khi đã trình diễn trên cả nước hình ảnh một vị Tổng trưởng Kinh
tế, được củng cố thêm bởi sự ủng hộ của nhóm Nam bộ, anh ta nghĩ đã có thể bắt
đầu cuộc chơi riêng tư của anh và tuyên bố muốn tham gia cuộc tranh cử Tổng
thống, nhưng không lộ hết chi tiết. Nhóm Nam bộ trẻ vỗ tay hoan nghênh lời tuyên
bố của anh ta, đinh ninh rằng anh ta sẽ nhận vị trí thứ hai sau ứng cử viên của
họ là ông Trần Văn Hương, một người nổi tiếng. Trên thực tế ít lâu sau, khi cuộc
vận động đang xả hết tốc lực, anh ta đã qua mặt nhóm miền Nam và thủ lãnh của
họ, đăng ký ứng cử viên độc lập vào ngày cuối cùng, ngay buổi chiều trước thời
hạn, mà không cho một ai trong nhóm được biết. Khi nhóm người miền Nam biết được
nước cờ tráo trở của anh ta, họ lên án anh ta đâm sau lưng họ, họ rút lui sự ủng
hộ dành cho anh ta và vận động chống lại anh ta. Chiến dịch tranh cử của anh ta
hoàn toàn thất bại; tất cả những người có ít nhiều cảm tình với anh ta trước kia
xây lưng lại anh ta và gọi anh ta là kẻ phản bội. Hình như anh ta có biệt tài
đâm sau lưng, anh ta đã phản bội Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ khi ở trong nội các của
Kỳ, đã bỏ rơi nhóm miền Nam, và ngay giữa chiến dịch vận động, bỏ rơi ứng cử
viên Tổng thống Trần Văn Hương, người mà anh ta luôn luôn gọi là thầy và hứa
giúp đỡ trong chiến dịch tranh cử. Nhưng những thủ đoạn của anh ta chưa dừng
ngang đây. Có một lần anh ta yêu cầu chính phủ để anh ta đi một chuyến công tác
qua Nhật. Khi anh ta tới nơi, Nguyễn Duy Quang, Đại sứ Việt Nam ở Tokyo, một
trong những người bạn rất thân của tôi, ra đón anh ta tại phi trường, Thanh yêu
cầu Quang sắp xếp một buổi tiếp kiến Nhật Hoàng, nhưng chỉ một mình anh ta chứ
không phải với cả phái đoàn Việt Nam như thường lệ. Thanh có một kế hoạch bí mật
ở trong đầu, anh ta muốn có một tấm ảnh chụp chung với Nhật hoàng. Dĩ nhiên sau
này Thanh sẽ dùng tấm ảnh này để tác động với các công ty lớn của Nhật Bản –
người dân Nhật rất tôn sùng Hoàng đế của họ và sẵn sàng làm tất cả cho ông, thậm
chí chỉ cho cái tên của ông – và anh ta đã đạt được quyền làm đại diện duy nhất
cho một sản phẩm nổi tiếng của hãng Sanyo Nhật bản trên toàn lãnh thổ Pháp. Sau
đó khi gặp lại, anh Quang đã kể cho tôi tất cả câu chuyện.
Năm 1962, sau khi đã thành lập
SOFIDIV và trả hết nợ gia đình, tôi bắt đầu tìm kiếm những món đầu tư mới vì
suốt cả thời gian làm việc nhà nước tôi không để dành được một món tiền nào. Bây
giờ tôi muốn gia tăng lợi tức và dành dụm chút ít cho các đứa con tôi khi chúng
tới tuổi vào đại học. Nhưng phải là một món đầu tư không mâu thuẫn với các vị
trí hiện tại cũng như tương lai của tôi, một món đầu tư không đòi hỏi quá nhiều
vốn vì tôi không có, và một món đầu tư không bắt tôi phải đi vay tiền, điều mà
tôi ghét suốt đời. Tôi thương lượng với nhà chức trách quận Liêng Khàng thuê một
nhượng địa rộng 42 mẫu Tây, cạnh phi trường Đà Lạt (một nhượng địa là một miếng
đất cho thuê bắt buộc người thuê phải khai khẩn đất hoang trong một thời gian
nhất định, sau đó vùng đất đã khai hoang sẽ thuộc về quyền sở hữu của người
thuê; trong lúc miếng đất nếu không được khai hoang sẽ trở lại thuộc quyền nhà
nước). Tôi thuê một người quản gia và dựng tạm một ngôi nhà mái tôn cho anh ta
ở, và mỗi cuối tuần chúng tôi sẽ lên đó ở chung với anh ta. Tôi trồng 3 mẫu cà
phê và nuôi một ít gia súc. Cứ mỗi cuối tuần tôi lái xe đưa cả gia đình lên
trang trại, tất cả chúng tôi đều rất thích thú sống những ngày ở đây mặc dù
thiếu tiện nghi, vì thời tiết và khí hậu ở đây rất tuyệt vời: ngày nắng trong
veo, còn đêm thì trời đầy sao và mát lạnh (Liêng Khàng ở độ cao chừng 900 mét ).
Đạm, Lịch, Hào rất thích đời sống ở trang trại và mỗi khi tới lúc phải về thì
không đứa nào muốn về. Chúng đóng vai cao bồi với những khẩu súng tôi mua từ
Paris và New York, chúng giành nhau để leo lên đi rong chơi trên chiếc xe Jeep
nhỏ khoảng một nửa chiếc xe Jeep thật mà tôi đã làm từ một chiếc máy cày cũ cùng
với người thợ cơ khí ở nhà băng. Chúng cũng thích cỡi lên lưng một con ngựa nhỏ
mà tôi mua từ một xóm dân tộc; chúng ăn ngon, ngủ ngon và lên cân đều đặn, làm
hai vợ chồng tôi rất sung sướng.
Ban đêm chúng tôi có thể nghe
tiếng hổ gầm xa xa, và tôi luôn luôn đi ngủ với một khẩu súng nạp sẵn đạn, còn
ban ngày chúng tôi có thể trông thấy một vài con nai con, thỏ và chim trĩ chạy
quanh các bụi cây. Một ngày kia mấy người giúp việc bắt được một con nai cái nhỏ
và chúng tôi đã nuôi nó trong một cái chuồng gần nhà, chúng tôi đặt tên cho nó
là Bambi, và đám trẻ rất thích chơi với nó, nó trở nên rất thuần tánh, khi mấy
đứa con tôi cho nó ê hề thức ăn, rau cải, đường miếng, và đặc biệt là thuốc lá
điếu, món mà nó trở nên nghiện rất mau.
Liêng Khàng không có nước máy, những người giúp
việc của chúng tôi phải đi tới giếng nước của nhà hàng xóm để gánh nước đem về
đổ trong những cái chum lớn dùng cho cả gia đình. Họ bắt đầu tìm cách đào giếng
riêng cho trang trại nhưng không bao giờ gặp được mạch nước. Rồi một người ở
trong làng cho tôi hay là có một người Nhật thường đi khắp nơi giúp dân chúng
tìm chỗ đào giếng, những cái giếng rất tốt mà không cần phải đào sâu lắm. Tôi
lái xe lòng vòng đi kiếm ông ta và một ngày kia tôi đã gặp ông. Ông ta đã chỉ
cho chúng tôi coi ông ta tìm mạch nước ngầm như thế nào. Ông ta cắt một cái cành
cây có chạc (nạng), đẽo sạch vỏ và cầm hai đầu chạc cây đi quanh rà rà cái nạng
trên mặt đất, thế rồi ở một địa điểm đặc biệt, cái nạng rung lên rất mạnh trong
tay ông. Ông ta quay lại nói với chúng tôi bằng thứ tiếng Việt ngượng nghịu rằng
dưới địa điểm này nhất định có một nguồn nước đang chảy chầm chậm như một con
suối giữa các tảng đá. Những người giúp việc trong trang trại của tôi hết sức
khích động, họ bắt đầu đào ngay xuống đất. Ngày hôm sau họ chạm tới mạch nước và
chúng tôi có thể nhìn thấy dòng nước chảy xuyên qua các tảng đá. Qua bao nhiêu
năm cái giếng này vẫn cho thấy nó có một mạch nước rất mạnh, luôn luôn đầy một
thứ nước sạch và trong vắt; suốt cả mùa hạ nước không bao giờ cạn và mực nước
luôn luôn ở mức đều như nhau suốt cả năm. Chúng tôi tới mời người Nhật dùng cơm
với chúng tôi và tôi cố gởi ông một ít tiền thưởng. Ông ta từ chối. Tôi cứ tự
hỏi ông ta sống cách nào khi ông ta cứ đi khắp nơi để giúp đỡ mọi người và không
hề nhận tiền công. Đối với tôi đó là cả một điều bí mật. Tôi tìm được một bô lão
ở một ngôi làng gần Liêng Khàng biết rành chữ Hán và do đó có thể nói chuyện với
người chuyên viên Nhật Bản. Tôi được biết là sau khi Nhật bại trận năm 1945 ông
không muốn trở về Nhật và đã ở lại Việt Nam, đi từ làng này qua làng khác trên
khắp cao nguyên để giúp dân chúng đào giếng và trồng trà và cà phê. Ông hiếm khi
nhận tiền thưởng cho những việc ông làm, và tôi không thể hình dung được làm sao
ông sống mà không có việc làm cố định và cũng không có lương cố định. Sau đó một
vài hôm khi ông trở lại coi cái giếng có tốt hay không, với một vài tiếng Nhật
mà tôi đã học hồi xưa khi toan đi du học ở Nhật Bản năm 1944 (viên lãnh sự Nhật
ở Huế sau đó cho tôi hay là chuyến tàu dự định chở tốp sinh viên Việt Nam thứ
hai đã bị phi cơ Đồng minh bắn chìm giữa biển), tôi cám ơn ông ta và mời ông ta
ở lại sống với chúng tôi. Tôi sẵn sàng nhường cho ông ta một chỗ ăn ở trong khi
ông ta đi đây đó giúp dân làng, nhưng ông ta từ tạ. Rồi ông ta ra đi và chúng
tôi không bao giờ gặp lại ông nữa. Tôi không biết chuyện gì xảy ra với ông về
sau. Đối với tôi ông ta là một con người rất tốt, một trái tim nhân hậu xứng
đáng cho chúng ta kính trọng và yêu mến.
Trong những năm đó tôi đã nhiều lần đi săn thú lớn
trên vùng cao nguyên, ở Đà Lạt, ở Pleiku, vì sau khi bắn hạ một vài con nai tôi
không còn thấy thú vị và tôi quyết định săn những con thú dữ thật sự: cọp,
beo, minh và voi. Một người bạn thân của tôi, Trung tá Nguyễn Văn Luận, là Cảnh
sát trưởng ở Đà Lạt và tôi thường cùng nhau đi săn. Khi nào có thể được, anh ta
để tôi dùng chiếc xe đi săn vốn dành riêng cho Ngô Đình Nhu; chiếc xe này được
trang bị rất đầy đủ, có một giàn để đứng bắn và quan sát ban đêm và hai ngọn đèn
pha rất mạnh để tìm thú dữ. Chúng tôi thường đi tới những khu vực săn bắn dành
riêng cho Hoàng đế Bảo Đại hồi trước và Ngô Đình Nhu sau này, nơi có đủ các loại
thú dữ. Những chỗ này nằm rất xa, gần vùng ba biên giới Việt Nam–Lào–Cao Miên.
Tôi nhớ lần đầu tiên khi chúng tôi tới một chỗ như vậy, một ngôi làng Thượng
giữa các khu đầm lầy, thì trời gần sập tối, sau một ngày ngồi trên chiếc xe Jeep
luồn lách qua các khu rừng đầy nguy hiểm. Chúng tôi bước ra khỏi xe để duỗi chân
cho đỡ mỏi, trong khi người hướng đạo của chúng tôi đi vào làng để sắp xếp cho
buổi đi săn tối nay. Tôi nhìn về phía cuối vùng đầm lầy, bật ngọn đèn rọi ở trên
trán, và rất ngạc nhiên khi trông thấy rất nhiều cặp mắt màu xanh rải rác khắp
nơi và một vài cặp mắt màu đỏ ở xa hơn: mắt màu xanh là mắt của lũ hươu nai, còn
mắt màu đỏ là của cọp, beo đen hoặc beo gấm. Sau khi đã nhìn thấy những thứ này
chúng tôi quyết định tại chỗ là sẽ tổ chức một buổi săn cọp. Chúng tôi bắn hạ
hai con nai, một con dùng làm mồi nhử cọp, còn con kia đem về cho dân làng. Ba
người dân làng đã tới giúp chúng tôi dựng một chỗ để bắn cọp; rồi chúng tôi lựa
một nơi thích hợp, cột con nai chết vào một thân cây mà từ chỗ nấp của chúng tôi
cách đó 10 mét có thể nhìn thấy rất rõ. Dân làng đào một cái hố dưới đất cho hai
chúng tôi nấp, nhưng vì đất quá cứng nên họ không đào đủ sâu. Chúng tôi phải
ngồi trên một vài cành cây đặt dưới hố nếu muốn nhô đầu lên khỏi miệng hố. Đây
là một lối sắp xếp rất nguy hiểm bởi vì chúng tôi sẽ phải phơi người ra trong
trường hợp cọp tấn công. Chúng tôi xây một tấm màn che bằng cành và lá cây, đoạn
trở về làng nghỉ ngơi. Sau bữa cơm tối, Luận cho tôi mượn người phụ tá của anh,
Trung sĩ Viên, rồi để tôi đi tới chỗ nấp để bắn con cọp đầu tiên của tôi; còn
anh thì đã hạ được nhiều cọp rồi trong những lần đi săn với ông Nhu. Anh ta muốn
đi theo một hướng khác cùng một người hướng đạo Thượng để săn gấu và beo.
Khi chúng tôi đến chỗ săn,
chúng tôi nghe những tiếng động sột soạt chung quanh do cành lá lay động; chúng
tôi biết rằng trong bóng tối lũ thú rừng đang theo dõi chúng tôi, chúng nhìn
thấy chúng tôi còn chúng tôi thì không thấy chúng. Một lúc sau khi chúng tôi
ngồi yên vị trong hố, chúng tôi nghe bầy cọp gầm và phóng quanh chúng tôi, có lẽ
muốn dọa cho chúng tôi tránh xa bữa tiệc của chúng. Sau khoảng 5 phút mà lâu như
5 tiếng đồng hồ, không nghe động tịnh gì về phía chúng tôi, lũ cọp bắt đầu ăn
con mồi. Viên nói khẽ bên tai tôi chỉnh lại ngọn đèn đeo trước trán, và nạp đạn
vào cây súng mới của tôi, một khẩu Ithaca 12 mua ở New York trong chuyến đi Mỹ
vừa rồi, chúng tôi nói bằng một ngôn ngữ ngắn gọn đã được nhất trí trước đây và
bổ túc bằng những cú thúc cùi chỏ nhè nhẹ. Chúng tôi ngồi bất động, chờ cho lũ
cọp bị thu hút hoàn toàn vào bữa ăn ngon lành của chúng. Âm thanh do lũ cọp xé
toạc miếng mồi và nhai xương rau ráu rất là đáng sợ, nó tựa như tiếng xe tăng
nghiến trên sỏi đá. Trong bóng tối tôi có cảm giác như lũ cọp đang ở sát bên
mình và chúng có thể chạm vào chúng tôi; chúng gầm gừ cãi cọ và cắn lộn nhau,
thấy càng thêm đáng sợ. Tôi bắt đầu đâm nghi ngại không biết mình có thể bắn hạ
chúng không, và tôi cố tưởng tượng việc gì sẽ xảy ra nếu tôi bắn hụt và chúng
nhảy xổ lên chúng tôi. Những người đi săn từng trải kể cho tôi nghe trước đây
rằng cọp thường nhảy lên tấn công người khi chúng bị trúng đạn, ngay cả trong
một tích tắc trước khi chúng chết.
Vài phút sau Viên dùng cùi chỏ thúc nhẹ vào sườn
trái tôi. Đó là dấu hiệu bắn. Chúng tôi đã đồng ý với nhau là tôi sẽ bắn trước
và anh ta sẽ bắn tiếp hỗ trợ nếu tôi bắn hụt. Tôi mở chốt an toàn, bật ngọn đèn
rọi, nhắm phía lũ cọp và bóp cò súng, tất cả chỉ trong vòng vài giây đồng hồ.
Tiếng nổ xé toang sự yên lặng của màn đêm và lũ cọp nhảy dựng lên, rống rú và
tháo chạy tán loạn, gây nên một cảnh hỗn độn khủng khiếp trong bóng tối dày đặc
của rừng già.
Sau một số phút kéo dài, yên lặng lại bao trùm. Chúng tôi quyết định bò ra khỏi
hố xem xét. Một con cọp chết nằm gần bên miếng mồi. Đó là con cọp đầu tiên của
tôi. Nhưng tôi cảm thấy buồn vì con cọp hình như vừa mới lớn chứ chưa phải là
một con cọp trưởng thành như tôi đã hy vọng.
Dân trong làng nghe tiếng nổ đã
chạy ra từng tốp; họ cười và nhảy múa khi thấy con cọp chết, họ sắp có thêm thịt
ăn cho cả làng. Hai người đàn ông lực lưỡng cột hai chân trước và hai chân sau
của con cọp lại với nhau rồi dùng một khúc cây dài và lớn nhấc con cọp lên và đi
về làng. Trong ngôi làng Thượng, một người thợ săn từng trải bắt đầu lột da cọp,
rất thận trọng để tránh làm hư bộ da đẫm máu nhưng rất đẹp. Anh ta đặt bộ da vào
trong một cái chum lớn và đổ muối phủ lên trên. Đoạn anh ta quay lại cắt hết
đống thịt cọp, gột sạch các khúc xương và bỏ vào trong một cái chum khác. Bộ da
sẽ được thuộc, và xương sẽ được chùi rửa sạch sẽ trước khi nấu trong nhiều ngày
liền để làm cao hổ cốt, một món thuốc được coi là rất tốt cho bệnh thấp khớp.
Viên tử tế lo giữ bộ da và xương cọp cho tôi. Tôi thưởng cho dân làng một món
tiền lớn rồi ra về.
Có một lần, một tay Chủ tịch
ngân hàng Mỹ, ngày trước là một viên tướng đánh giặc ở Thái Bình Dương với bao
nhiêu là huy chương, đến viếng thăm tôi. Ông ta nghe tôi nói chuyện săn bắn cọp,
beo, gấu, minh… nên tỏ ý muốn bắn một con cọp để lấy da chưng ở phòng khách và
khoe với bạn bè. Tôi tổ chức cho ông ta một cuộc săn cọp như kiểu trước đây.
Chúng tôi đi đến một làng Thượng ở gần vùng ba biên giới, và đến tối, ông
ngồi với tôi trong một hầm rất lớn đào dưới đất. Vì ông ta cao to nên khi ngồi
trong hầm, đầu ông cao hơn đầu tôi nhiều, nhô lên khỏi mặt đất. Đây là một lối
săn cọp rất nguy hiểm đối với một người chưa có kinh nghiệm săn cọp. Tôi cảnh
cáo ông nhưng ông ta bảo ông không sợ, ông đã gặp cảnh chiến tranh nguy hiểm hơn
nhiều.
Cũng như lần trước với Viên,
viên tướng Mỹ, người thợ săn và tôi định sẵn trước với nhau lối bật đèn nhìn cọp
và bấm cò. Tôi để người thợ săn đứng bên tay mặt tôi, viên tướng ở bên trái. Lũ
cọp không đến ăn ngay, chúng tôi phải chờ gần hai tiếng đồng hồ, chúng mới mò
tới chỗ con mồi. Nhưng lần này chúng tới đông hơn, và gầm rống, nhảy nhót rất
lâu trước khi ăn mồi. Quả thật là đáng sợ. Tôi có cảm giác như là lũ cọp biết
chúng tôi đang ngồi ở đây, và chúng nhảy qua nhảy lại gần miệng hầm để doạ chúng
tôi. Sau một thời gian lâu hơn chuyến trước, lũ cọp bắt đầu ăn mồi. Nhưng không
những gây gổ, đe doạ nhau trong đêm tối, chúng còn thốt ra những tiếng gầm thét
rùng rợn, cùng những tiếng nhai xương ghê gớm. Khi đàn cọp bắt đầu mê ăn, tiếng
động, tiếng gầm bớt đi, người thợ săn thúc nhẹ cùi chỏ cho tôi hay, tôi liền
dùng cùi chỏ báo hiệu cho viên tướng hay, vì tôi muốn nhường ông bắn trước, để
ông quả thật là người hạ được cọp. Nhưng tôi chờ mãi không thấy ông bật đèn lên
bắn, nên lại dùng cùi chỏ thúc ông một lần nữa. Vẫn không thấy ông ta phản ứng.
Tôi lên cò, mở đèn, bắn. Lũ cọp
nhảy dựng lên, gầm thét, tháo chạy hỗn loạn. Quang cảnh thật rùng rợn. Trong ánh
đèn đã bật, tôi nhìn về phía ông ta, thì thấy mặt ông ta xanh lè, và ông đã tè
ướt cả quần. Tôi leo lên, tới nhìn xác con cọp nằm trên đất. Tôi không dám hỏi
ông ta tại sao không nổ súng, vì tôi biết ông ta quá sợ khi lũ cọp nhảy nhót gầm
thét gần bên. Tuy nhiên tôi vẫn thuộc da cọp và biếu ông ta, như thể ông đã hạ
được cọp.
Sau khi đã tự tay mình hạ được
con cọp đầu tiên và thuộc bộ da của nó để làm chiến lợi phẩm kỷ niệm (bộ da cọp
rất đẹp và tôi đã trải nó ở trong phòng khách), và giúp ông bạn Mỹ bắn con cọp
thứ hai, tôi lại muốn một thách thức lớn hơn: săn beo. Đây là một loài vật hay
rụt rè, nhưng rất thông minh và rất khôn lanh. Nó nhỏ hơn cọp nhưng đi săn nó thì nguy
hiểm hơn nhiều. Trong khi đang chuẩn bị cho chuyến đi săn kế tiếp thì tôi nghe
tin một người bạn của tôi, một người Tây lai, con của một ông cha Pháp và một
người mẹ Việt, một tay đi săn từng trải hơn tôi rất nhiều, mới được đưa vô bệnh
viện vì bị tai nạn trong lúc đi săn. Tôi chờ vài ngày cho anh ta đỡ được đôi
chút đoạn tới thăm anh trong bệnh viện. Cha anh ta là một tay săn thú lớn cừ
khôi và cũng là một người hướng đạo rất giỏi nhưng rất đắt tiền. Tôi thấy ông ta
đang ngồi bên cạnh giường bạn tôi. Tôi rất sung sướng được gặp cả hai ở đây.
Henri muốn ngồi dậy nói chuyện nhưng cha anh biểu anh nằm xuống nghỉ. Ông đoán
là tôi tới thăm con ông nhưng chắc là cũng muốn nghe câu chuyện, vì vậy ông nói
với Henri rằng ông sẽ kể những gì xảy ra cho tôi nghe. Mười ngày trước, Henri đã
đi tới vùng Ba Biên giới cùng với hai người bạn và một người hướng đạo Thượng,
đó là một đêm rất tối, tốt cho việc săn bắn. Họ bước đi từ tốn, thận trọng ở
phía sau người hướng đạo vào sâu trong rừng, tìm kiếm hươu nai hay cọp. Thình
lình Henri trông thấy hai cặp mắt đỏ. Anh bật đèn rọi lên và thấy một con beo
cái ngậm một con hươu nhỏ trong miệng; nó đang trèo lên cây, theo sau là một con
beo con. Henri ra dấu cho mọi người ngồi xuống nấp sau gốc cây, anh hướng ngọn
đèn về phía con beo và kéo cò. Khẩu súng là một khẩu Ithaca 12 giống như của
tôi. Tiếng nổ xé toang màn đêm và cả hai mẹ con con beo rớt xuống đất. Con beo
mẹ phóng chạy nhưng con beo con run rẩy kêu la, nó không chạy theo mẹ được vì
hai chân sau của nó đã bị gãy. Henri bồi thêm một phát súng để chấm dứt sự đau
đớn của con beo nhỏ, và ra lệnh cho người hướng đạo giữ con beo con trong khi
anh và hai người bạn đuổi theo con beo mẹ. Sau một hồi tìm kiếm Henri trông thấy
một vài giọt máu ở trên đám lá cây. Anh và hai người bạn nhìn quanh nhưng không
thấy một con vật nào cả. Henri quyết định trở về với xác con hươu và con beo nhỏ
để con beo mẹ bị thương lại trong rừng sáng mai sẽ quay lại tìm. Ngày hôm sau
trời đầy sương, nhưng Henri và hai người bạn cùng người hướng đạo vẫn đi trở lại
cái chỗ anh đã bắn hạ con beo đêm trước. Anh lại trông thấy những giọt máu còn
tươi trên đám lá và càng đi càng vào sâu trong rừng; rừng cây càng lúc càng dày
và họ phải dùng dao chặt một lối đi và gỡ những cành cây cản đường, nhưng Henri
bị thu hút bởi những vết máu còn tươi trên đám lá không chịu quay lui. Thình
lình từ sau một bụi rậm, một con beo phóng ra chồm lên người Henri, nó chộp lấy
vai Henri bằng hai chân trước, mặt nó kề sát mặt Henri, và mọi người trông thấy
hai chân con beo đã bị gãy đầy cả máu, tất cả bọn họ biết rằng đó là con beo mẹ
bị thương. Nó cà cái miệng bị bể vào mặt Henri, nhưng Henri không bắn nó được và
cũng không thể tự vệ, con beo tuy bị thương nhưng vẫn còn rất mạnh. Không ai dám
bắn con beo vì nó quấn chặt lấy Henri. Cuối cùng con beo té xuống đất và người
hướng đạo bắn vào đầu nó. Trong lúc bốn người đi với nhau thành hàng một, làm
sao con beo biết được ai là người đã bắn nó và giết chết con của nó đêm trước,
làm sao nó có thể nhận ra anh ta và nhảy xổ lên anh? Đó là trí thông minh hay
trực giác, hay chỉ đơn giản là tình cờ? Không ai có thể biết chắc được, nhưng
những sự cố như vậy không phải là chuyện quá bất thường. Một người thợ săn già
nhiều kinh nghiệm đã có lần kể tôi nghe chuyện một con beo bị một tay thợ săn
Thượng dùng giáo đâm bị thương, đã
đi tới tận ngôi làng của anh tối hôm sau, gần bìa rừng để tìm người thợ săn và
tấn công anh ta. May mà anh ta được dân làng cứu thoát vì họ phát hiện ra con
beo kịp thời.
Dù sao câu chuyện này cũng
khiến tôi suy nghĩ lại trước khi đi săn beo, và tôi chuyển qua mục tiêu kế tiếp
– Minh, một loại bò rừng lớn vô cùng. Minh là loại thú nguy hiểm nhất, dữ
nhất và khó lường nhất trong các loài dã thú, ít người dám săn chúng và chỉ có
những tay thợ săn hết sức từng trải mới có thể săn được. Có lẽ việc săn minh là
một sai lầm lớn của tôi khi tôi có rất ít kinh nghiệm đi săn. Tôi quả là thiếu
khôn ngoan khi đâm đầu đi săn minh sau một kinh nghiệm quá dễ dàng với nai và
cọp. Minh nặng từ 800 tới 900 kí-lô và có thể chạy với tốc độ 50 tới 60 cây số
giờ lên sườn dốc. Chúng sống trên những vùng núi cao xa xôi nhất, lang thang
khắp các thung lũng và đỉnh núi, luôn luôn họp thành đàn từ 5 tới 10 con. Khi bị
thương hoặc khi sống một mình vì bị đuổi ra khỏi bầy, chúng thường tấn công
người ta. Vào một ngày thứ bảy, trên con đường tới một địa điểm săn bắn của ông
Nhu gần biên giới Lào, chúng tôi dừng lại ở một ngôi làng Thượng và được báo là
có một đàn minh mà các tay săn Thượng đã thấy không xa ngôi làng của họ. Chúng
tôi quyết định đi tìm. Một người hướng đạo đồng ý đưa chúng tôi lên đỉnh núi
không xa ngôi làng bao nhiêu, nơi đàn minh thường lang thang quanh quất. Đứng
trên chỗ cao để quan sát đàn minh dưới thung lũng để tính toán cách tấn công thì
an toàn hơn. Suốt hai giờ đồng hồ chúng tôi chật vật tìm đường lên trên đỉnh qua
các bụi cây đầy gai, các tảng đá trơn trợt, và các cành cây cứ bật ngược vào
người, bị lũ côn trùng và vắt bu đầy, những con vắt chỉ nhỏ như sâu đo, sống
trong những khu rừng ẩm ướt. Chúng từ trên cây bắn xuống người anh khi anh đi
sát chúng, bò dưới lớp áo quần và lặng lẽ hút máu anh mà không gây ra một chút
đau đớn nào. Anh chỉ phát hiện ra khi chúng đã hút no bụng và nhả ra, và máu cứ
rỉ ướt áo quần anh. Sau khi đã gỡ hết đám vắt, uống một ít nước giải khát và
kiểm tra lại súng, chúng tôi lại tiếp tục đi qua khu rừng rậm khoảng hai cây số
nữa. Khi tới được trên đỉnh núi chúng tôi nhìn xuống dưới thung lũng và thấy
ngay phía trước mắt một đàn gồm năm con minh đã trưởng thành và một con còn nhỏ
đang lặng lẽ gặm cỏ trong khi một con minh đực to lớn đứng gác, canh chừng cọp,
beo và người. Chúng tôi từ từ lần xuống dốc núi tiến về hướng chúng, con minh
đực ngẩng đầu lên và nhìn thấy chúng tôi, nó rống lên một tiếng rất lớn và cả
bầy đều ngước đầu lên, thấy chúng tôi và chuẩn bị bỏ chạy. Trong một tích tắc,
tôi đưa khẩu Winchester Magnum 3.75 nhắm vào đầu con bò đực và kéo cò. Tôi nghĩ
rằng mình đã bắn trúng nên rất ngạc nhiên khi thấy chúng nhảy dựng lên và chạy
tán loạn. Theo linh tính tôi chạy theo chúng và khi tới địa điểm chúng ở hồi
nãy, tôi nhận thấy có một ít máu vương trên cỏ và trên lá cây. Sau chừng vài
trăm mét thì tôi mất dấu nên dừng lại nhìn xung quanh. Thình lình tôi nghe một
tiếng động sau lưng. Tôi quay lại và thấy ở sau một gò mối cao, một con minh đực
với cặp mắt đỏ ngầu, nhìn tôi một cách dữ tợn và sẵn sàng tấn công. Nó dậm hai
chân trước hùng mạnh xuống đất, thở phì phò qua lỗ mũi đang bốc hơi, nghiêng đầu
qua một bên rồi phóng tới trước. Tôi nâng súng lên và nhắm vào đầu nó, ngay giữa
hai con mắt. Tiếng nổ dội lại rất đanh và con vật rớt xuống đất, bốn chân còn
quờ quạng trong không khí. Tôi may mắn đã phát hiện ra nó trước khi nó tấn công.
Minh là loài thú rất thông minh. Khi bị thương, chúng thường bọc ra phía sau và
tấn công anh từ phía sau lưng. Tôi cũng rất may mắn khi những người dân làng
theo tôi không đứng chặn giữa tôi và con vật. Họ rất sợ hãi nhưng họ cũng rất
sung sướng khi thấy con bò rừng bị giết, vì họ sắp sửa có rất nhiều thịt với con
vật to lớn này. Tôi đứng gần con bò và sờ vào cái đầu to lớn của nó với cặp sừng
rất đẹp.
Tôi tiếc mình đã không đem theo
một cái máy ảnh để ghi hình con vật khổng lồ này trước khi nó bị xẻ ra từng
mảnh. Dân làng cắt đầu con minh để dành cho tôi (sau này tôi sẽ đem về thuộc và
treo ở Sài Gòn) rồi cắt tất cả những tảng thịt mà họ có thể đem về làng. Thịt bò
rừng rất ngon, mềm và ngọt. Sau đó dân làng dùng thừng lớn cột đầu con minh,
đoạn hai người khiêng tới xe Jeep cho tôi.
Hình 3. Đầu con Minh đầu tiên săn được
Tôi hạ thêm bốn con minh nữa
trong những chuyến đi săn tiếp theo,
nhưng suýt chút nữa tôi bị con thứ tư giết chết. Một ngày kia viên Cảnh sát
trưởng quận Tùng Nghĩa, nơi có trang trại của tôi, cũng là một tay thợ săn cừ
khôi đến rủ tôi đi săn. Cách uỷ ban quận 40 cây số, một linh mục Thiên Chúa giáo
trong những chuyến hành lễ ngày thứ bảy thường gặp một đàn cọp 3 con gần bờ sông
vào lúc chiều tối. Ông cho biết con cọp đực là một con cọp rất oai và đẹp, luôn
luôn có một con cọp cái lớn và một con cọp con đi cùng. Viên Cảnh sát trưởng cho
một người Thượng hướng đạo theo tôi và nói tôi hãy đi tìm đàn cọp; anh ta lỡ hứa
đi dự một đám cưới nên không đi với tôi được. Tôi cầm khẩu Ithaca của tôi đưa
cho người hướng đạo, còn tôi lấy khẩu Winchester Magnum 3.75 đem theo để phòng
xa. Sau này tôi biết mình đã quyết định đúng, loại súng săn Ithaca chỉ thích hợp
khi đi săn hươu nai hoặc cọp nhưng đối với những loại thú lớn hơn thì không đủ
sức mạnh. Một khẩu Winchester Magnum 3.75 mới là vũ khí ngang tầm lũ minh và cả
voi nữa.
Một người lính Thượng xin tôi
cho anh ta đi theo vì anh ta muốn về thăm cha mẹ tại ngôi làng gần địa điểm mà
người linh mục Thiên Chúa giáo đã mô tả. Bởi vì tôi đã có một người bạn ở Sài
Gòn lên thăm đang đi cùng nên tôi không muốn nhận thêm người lính nữa, vì săn
cọp giữa ban ngày rất nhiều trắc trở, đòi hỏi phải xử lí thật nhanh; quá nhiều
người có thể cản trở những phản ứng như vậy. Nhưng người lính cứ nằng nặc đòi đi
và người hướng đạo cũng ủng hộ anh ta, nói rằng có thể chúng tôi phải cần thêm
người để khiêng xác cọp trở về xe Jeep. Đó có lẽ là một quyết định sai lầm về
phần tôi khi tôi nghe lời anh ta.
Chúng tôi lái xe tới ngôi làng
gần sông nằm trên một vùng đất cao; sau khi leo lên chóp một ngọn núi, chúng tôi
nhìn xuống thung lũng, thay vì cọp chúng tôi lại thấy một đàn minh ở phía bên
này sông. Người bạn tôi quyết định ở lại trên xe vì khẩu súng của anh ta
không đủ mạnh để bắn minh. Tôi nhìn người hướng đạo, anh ta nói anh ta sẽ dùng
một khẩu súng cũ của quân đội và để khẩu Ithaca lại trên chiếc xe Jeep. Anh ta
đề nghị chúng tôi săn lũ minh này, mặc dù trước đây chúng tôi dự định là săn bầy
cọp mà người linh mục đã chỉ. Tôi do dự bởi vì chúng tôi không có đủ súng cho
một đàn minh nhiều như vậy, nhưng người hướng đạo đưa mắt nhìn khẩu Winchester
Magnum của tôi và hai khẩu súng quân đội, nói rằng nếu chúng tôi hạ một con
minh, cả đàn sẽ bỏ chạy thôi và chúng tôi sẽ không phải đối diện với nhiều con.
Anh ta rất háo thắng.
Chúng tôi kiểm tra lại súng ống
và lên đường. Chúng tôi đi xuống thung lũng, nhưng rừng tre càng lúc càng dày;
không dễ gì mở một con đường xuyên qua đám rừng này, lại càng không dễ phát hiện
một con thú nào, chúng tôi bèn quyết định tiến về phía con sông. Tôi thận trọng
bước từng bước xuyên qua rừng tre, theo sau là người hướng đạo rồi đến người
lính. Đầu óc tôi rất căng thẳng, vì cứ sợ nếu một hay một con cọp xuất hiện,
người lính có thể hoảng hồn và bắn chúng tôi thay vì bắn thú. Nhưng cũng nguy
hiểm không kém nếu để anh ta đi trước, bởi vì anh ta sẽ không đủ sức tự vệ và có
thể làm cả đám chúng tôi lâm nguy nếu có một con thú lớn tấn công. Tôi đang còn
đắn đo suy nghĩ nên làm gì thì thình lình nghe một tiếng rống ngay phía trước
mặt; ngước mắt lên tôi trông thấy một con minh khổng lồ từ sau một bụi tre rậm
lao ra tấn công. Nó chỉ cách tôi chưa tới mười mét và tôi không còn đủ thì giờ
nâng súng lên nữa. Đầu cúi xuống, cặp sừng dựng đứng, con vật lao tới tấn công
như một tia chớp, những cái chân to lớn của nó dậm mặt đất nghe như tiếng sấm.
Tôi ngã người qua tay phải để tránh và nó cọ sướt tay áo tôi, và rồi tôi nghe
thấy một tiếng động rất lớn phía sau lưng. Tôi chạy bổ về phía trước và chỉ
ngừng khi bị con sông chặn lại. Người hướng đạo chạy nhào theo tôi và cả hai
chúng tôi nhảy ào xuống sông, nấp sau bờ sông, hướng mũi súng về phía con minh.
Chúng tôi chờ một ít lâu, lòng lo lắng không biết người lính ra sao vì mãi không
thấy anh xuất hiện, và quyết định đi trở lui tìm anh ta. Cả hai chúng tôi đều
ngờ rằng anh ta có thể bị thương với con minh sau khi nó tấn công hụt hai chúng
tôi; cái tiếng động rất lớn hồi nãy có thể là tiếng con minh húc vào người anh
ta. Đó là một giây phút cực kỳ đáng sợ. Chúng tôi bắn nhiều phát đạn lên trời để
xua đuổi con minh và đi trở lại chỗ chúng tôi bị tấn công hồi nãy. Quả là một
cảnh tượng rùng rợn: người lính nằm sóng sượt trên mặt đất với một vết thương
khủng khiếp ở ngực và một vết thương nữa ở đùi trái. Anh ta còn bị con minh dẫm
lên người và máu đang tuôn ra khắp nơi, từ miệng, mũi, mắt và tai. Người lính
nhất định phải chết ngay tức khắc với cú húc khủng khiếp của hai cái sừng nhọn
hoắc vào ngực và đùi, với một vận tốc 60 cây số giờ và một khối xương thịt nặng
cả tấn tống vào người anh. Nhìn thân thể tan nát của người lính tôi mới nhận
thức được một con minh độc thân có thể nguy hiểm tới chừng nào. Đây phải là một
bài học cho những tay thợ săn thiếu kinh nghiệm như tôi.
Chuyến đi trở về cực kỳ khốn
khổ, mưa tầm tã và người hướng đạo cùng tôi phải khiêng xác người lính trên hai
cành cây, lên dốc xuống dốc, trượt chân trên những tảng đá ướt, té xuống bùn
lầy, chống chọi với các cành cây và bụi rậm suốt một khoảng đường bốn, năm cây
số để về lại chiếc xe Jeep. Khi chúng tôi về tới trung tâm quận lị, gia đình của
người lính chạy ra kêu khóc không ngớt. Tôi cảm thấy khốn khổ, lòng tôi tràn
ngập nỗi buồn rầu, thương xót và ân hận. Tôi không thể tự tha thứ cho mình đã
gây nên cái chết của một con người vì cái thú đi săn. Tôi gởi một món tiền lớn
giúp đỡ gia đình người lính, bày tỏ lòng tiếc nuối sâu xa và quyết định ngay tại
chỗ sẽ không bao giờ đi săn trở lại. Suốt một tuần lễ đầu óc tôi hoàn toàn trống
rỗng và tôi hầu như không thể lo toan công việc hàng ngày. Tôi đem tất cả súng
đạn cho người Cảnh sát trưởng và kể từ ngày ấy tôi không bao giờ chạm vào một
khẩu súng hay đi săn nữa.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ và
bị giết tháng Mười một 1963, Việt Nam trải qua một giai đoạn rối loạn chính trị
và bất an xã hội. Du kích càng ngày càng mạnh hơn và tình hình an ninh đâm ra
rất nghiêm trọng. Những cuộc đấu đá giữa các nhóm quân đội cũng như các cuộc
đụng độ tôn giáo giữa Phật tử và tín đồ Thiên Chúa giáo đe doạ sự ổn định của
Nam Việt Nam: nhiều người đã tiên đoán một cuộc sụp đổ toàn diện của miền Nam
vào năm 1965. Dây kẽm gai và chướng ngại vật giăng trên đường phố là chuyện
thường ngày. Tinh thần chung của dân chúng rất là u ám. Những hoạt động nghề
nghiệp của tôi cũng chậm lại rất nhiều khi mà tình hình an ninh chung không
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Tôi quyết định tạm rời đất nước để ra
nước ngoài làm việc. Cuối năm 1963 Thủ tướng
Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị bổ nhiệm tôi làm Đại sứ ở Nhật Bản, tôi không phản đối ý
kiến này và Gaimucho, bộ Ngoại giao Nhật, cũng rất đồng tình, nhưng một thành
viên trong hội đồng Tướng lãnh, tướng Kim, người mà tôi đã từ chối không đi theo
giúp, đã phản đối kịch liệt việc bổ nhiệm tôi. Năm 1962, T.T. Diệm gởi một phái
đoàn do tướng Kim cầm đầu qua Nhật. Cũng vào lúc đó ông Diệm gởi tôi tới Tokyo
để thăm dò với chính quyền Nhật về việc mở rộng hợp tác kinh tế tài chánh. Ông
đã phạm một sai lầm khi không nói cho tướng Kim biết là tôi có một nhiệm vụ
riêng biệt. Giống như những tay lãnh đạo quân sự khác, tướng Kim không biết gì
về lãnh vực kinh tế tài chánh và cứ nghĩ rằng tôi nằm trong phái đoàn của ông.
Khi tôi từ chối không đi cùng với đoàn của ông, ông tức giận và báo cáo lại
T.T.Diệm, thế nhưng Ông Diệm nói với ông là tôi có một nhiệm vụ khác và ông ta
phải để tôi yên. Đây là cung cách làm việc đặc trưng của ông Diệm. Ông luôn luôn
làm theo ý kiến riêng mà không chia sẻ với bất cứ ai trong chính phủ.
Rồi vào cuối năm 1962 khi đang
ở trên đường tới Pháp và tới Đức nhằm tìm kiếm sự tài trợ cho ngân hàng khuếch
trương mà tôi mới thành lập, tôi nhận được tin cha tôi đột ngột qua đời. Ông đã
từ trần trong lúc đang ngủ, trước lúc mẹ tôi thò tay qua tấm mùng để nắm lấy tay
ông. Đó nhất định là một cái chết rất êm thắm, rất đẹp và tôi muốn tôi cũng được
như vậy khi rời khỏi cuộc đời này. Tôi vội vã quay về từ Paris; khi tới phi
trường Tân Sơn Nhất tôi được Kim, một người bạn và là phụ tá thân cận ra đón rồi
đưa tôi cùng hai con gái là Đạm và Lịch lên ngay một chiếc máy bay đã thuê, bay
ra Huế. Lúc ấy là mùa mưa và chúng tôi gặp phải một cơn bão rất xấu suốt quãng
đường về Huế. Chuyến bay hết sức khủng khiếp vì đó là một chiếc máy bay DC3 cũ
kỹ. Nó bị lọt vào lỗ không khí và rơi xuống nhiều lần, hất tung mọi vật ở trong
khoang. Đạm và Lịch rất sợ và tôi phải nắm tay chúng để trấn an suốt thời gian
đó. Khi chúng tôi tới Huế thì máy bay lại không thể đáp xuống phi trường Phú Bài
vì đã quá khuya và phi trường không đủ trang bị để đón máy bay đêm, tình hình an
ninh lại rất tệ, nhân viên phải trở về thành phố trước khi trời tối. Chúng tôi
phải quay trở lại Đà Nẵng rồi từ đó mướn một chiếc xe hơi để tiếp tục cuộc hành
trình. Khi tôi tới được nhà cha tôi vào 3 giờ sáng thì đã đến lúc bắt đầu những
nghi lễ cuối cùng vì lễ động quan được trù định lúc 5 giờ sáng. Tôi khóc như một
đứa trẻ và cảm thấy buồn khôn xiết vì không nhìn được mặt cha tôi lần cuối.
Những nhà sư Phật giáo đã đọc kinh cầu siêu suốt ba ngày ba đêm cho cha tôi và
hơn 200 người bạn bè và bà con tập họp trong nhà tôi và trong những ngôi nhà
hàng xóm để lo đám tang. Mặc dù hết sức đau đớn nhưng mẹ tôi vẫn phải tham dự
đầy đủ các buổi lễ, phải lo coi sóc mọi việc chuẩn bị cho tang lễ và đồng thời,
theo đúng phong tục, phải tổ chức nơi ăn chốn ngủ cho một đám bà con bạn bè đông
hơn 200 người. Tang lễ hết sức phức tạp và công việc chuẩn bị bao gồm tất cả mọi
thứ như cha tôi đã viết lại đầy đủ mọi chi tiết trước khi ông mất. Gia đình tôi
tuân theo truyền thống rất kỹ và cha tôi đặc biệt coi trọng mọi nghi thức liên
quan tới việc thờ cúng tổ tiên và tỏ lòng kính trọng với những người đã khuất.
Sau này tôi được biết đám tang cha tôi là đám tang lớn thứ hai ở Huế trong vòng
50 năm. Đoàn người dự lễ đưa đám trải dài 3 cây số với những chiếc xe trang trí
các vòng hoa trắng, những người phu xe mang các vòng hoa tang, những công nhân
mang cờ phướn, theo sau là hàng ngàn người thương tiếc. Cha tôi được rất nhiều
người tôn trọng và khâm phục trong tất cả 18 tỉnh thành mà ông đã làm việc trong
đời ông. Những người vừa mới biết ông cũng tới chào một lần cuối hoặc theo tiễn
ông tới nơi yên nghỉ cuối cùng. Đám tang theo đúng truyền thống và lớn đến nỗi
viên Giám đốc cơ quan USAID Mỹ đã phái một toán truyền hình tới quay làm phim
tài liệu. Tôi đội một cái vành rơm và một bộ đồ tang làm bằng vải sô may qua
loa, rồi cùng với Minh em tôi, chúng tôi đi thụt lùi ở phía trước quan tài, suốt
7 cây số đường trường từ nhà tôi đến nghĩa trang (quí vị có bao giờ thử đi thụt
lùi 100 bước chưa, quí vị hãy làm thử rồi sẽ thấy nó đau cặp giò và nhức mỏi
toàn thân như thế nào, và hãy tưởng tượng chúng tôi cảm thấy ra sao suốt một
quãng đường 7 cây số sau hai hoặc ba đêm không ngủ). Dân chúng đứng sắp hàng 2
bên đường nhìn đám tang dài dằng dặc đi qua trong lúc cảnh sát bận rộn điều
khiển sự giao thông đang hỗn loạn. Khi chúng tôi tới địa điểm chôn cất, thì mẹ
tôi và tôi, với tư cách là trưởng nam, phải thực hiện nghi lễ cuối cùng trước
khi hạ huyệt. Tất cả mọi người trong gia đình tôi phải quỳ xuống và cúi đầu chạm
trán xuống đất để đáp lễ những ai tới lạy cha tôi lần cuối. Có thể tưởng tượng
chúng tôi đã phải quỳ gối cúi đầu và dùng trán chạm đất tới biết bao nhiêu lần!
Sau khi xong những nghi
lễ cuối cùng và mọi người đã cúi đầu trước quan tài cha tôi, bốn người phu đám
tang mặc đồng phục bắt đầu hạ dần quan tài xuống huyệt; nghi lễ truyền thống bắt
buộc quan tài phải tuyệt đối nằm ngang, và nắp quan tài không được nghiêng một
chút; người ta đặt một ly nước đầy trên nắp quan tài và nước không được tràn ra
dù chỉ một giọt trong suốt thời gian quan tài hạ xuống. Những người phu đám tang
sẽ được thưởng nếu họ làm tốt, còn nếu nước đổ ra ngoài hay ly bị ngã thì gia
đình sẽ bị khiển trách. Rồi trước khi nắm đất đầu tiên được ném xuống mộ, một
người bạn và là đồng nghiệp của cha tôi, bác Lâm Toại, đọc một bài điếu văn dài
và cảm động trong đó ông ca ngợi những đức tính của cha tôi, cuộc sống gương mẫu
của ông và tiếng tăm của ông trong và ngoài giới nhà giáo. Ông nói thêm, và làm
mọi người hết sức thán phục, rằng trên chiếc xe đạp cũ kỹ của mình cha tôi đã đi
một quãng đường tương đương 4 lần vòng quanh trái đất để thăm viếng các trường
học dưới quyền thanh tra của ông. Cái chết của cha tôi là một cú sốc rất lớn đối
với tôi và tôi cảm thấy đau lòng trong nhiều năm tiếp theo. Ông đã chấp nhận
nhiều hy sinh đối với bản thân ông để cho tất cả chúng tôi được học hành tử tế
hơn ông. Sau khi ông về hưu thì tôi đã nghĩ tới chuyện đưa ông qua Pháp du lịch
một vòng, điều mà ông mơ ước suốt đời. Nhưng ông đã lặng lẽ qua đời trước khi
tôi có thể giúp ông thực hiện giấc mơ đó. Tôi luôn luôn ân hận về điều này và
cho tới hôm nay tôi vẫn còn cảm thấy có lỗi mỗi khi nghĩ tới cha tôi. Trong hơn
hai mươi năm, mỗi lần tới dịp kỵ giỗ ông hàng năm, tôi đều khóc. Tôi vẫn
thường bày ra cúng vái ông nhiều lần trong năm mặc dù thông thường chỉ cần mỗi
năm một lần thôi. Cha tôi luôn luôn có ảnh hưởng tốt và sâu đậm trong cách xử
thế của tôi, và ảnh hưởng đó còn lớn hơn sau khi ông mất. Mỗi khi tôi muốn làm
điều gì tôi đều tự hỏi cha tôi có làm vậy hay không, và ký ức về sự chân thật và
chính trực của ông luôn luôn cho tôi can đảm và sức mạnh để đi đúng đường, bất
chấp những khó khăn trong sự nghiệp của tôi.
V.
SỰ NGHIỆP QUỐC TẾ ĐẦU TIÊN
Tháng 8/1964 tôi đưa cả gia đình tôi qua Pháp. Sau đó ít lâu tôi được phái đoàn
Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) ở Tokyo phỏng vấn và tuyển dụng làm Chánh sự vụ
ở IFC trong Ngân Hàng Thế Giới. Tôi rời Việt Nam tháng 2/1965 để nhận công việc
ở World Bank. Gia đình tôi ở Pháp đi theo tôi tới Washington D.C và chúng tôi đã
được sống sung sướng một thời gian. Lợi tức của tôi tăng lên đáng kể với công
việc mới, lương mỗi năm 22.000 đô-la, khỏi thuế, tương đương với 250.000 đô-la
trước thuế – tính theo giá đô-la năm 2004 (vào thời điểm ấy, chiếc xe Mercury
đầy đủ tiện nghi máy móc, tôi mua chỉ với giá 2.000 đô-la thôi, bây giờ phải hơn
25.000 đô-la). Washington cũng đẹp hơn Sài Gòn nhiều. Tôi rất thích công việc
mới này – tôi phụ trách ngân hàng phát triển trong các quốc gia nói tiếng Pháp.
Với những kinh nghiệm cần thiết đã có sẵn và với lòng nhiệt thành, tôi bắt đầu
công việc ở IFC rất tốt dù dưới quyền một con người rất khó tánh – Tổng giám đốc
điều hành Martin Rosen đã nói và viết ra trên giấy khen khi tôi rời chức vụ.
Nhưng tôi cũng không thoát khỏi một cảm giác mơ hồ là đã rời bỏ quê hương trong
lúc khó khăn. Mỗi khi có một chính phủ mới lên cầm quyền thì từ Sài Gòn, bạn bè
và quan chức nhà nước đều nhắn tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tháng 9/1965 phái
đoàn Việt Nam dự hội nghị thường niên IMF-IBRD đã tiếp xúc với tôi và cho tôi
biết chính phủ đang dự định mời tôi về đứng đầu Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam.
Họ nói tôi phải về phục vụ đất nước vì chính phủ mới tỏ ra có năng lực hơn các
chính phủ trước kia và Việt Nam có lẽ sẽ có được một giai đoạn ổn định chính trị
và an ninh xã hội. Họ cho biết viên Thống đốc hiện nay, vốn mới được bổ nhiệm
cách đây vài tháng, đã tỏ ra thiếu năng lực và quan tâm tới chính trị nhiều hơn
là tới công việc ngân hàng.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người vừa được Hội đồng Tướng
lãnh chỉ định làm Thủ tướng đã sai Đại sứ ở Washington Vũ Văn Thái tới gặp tôi
và thuyết phục tôi về nước giúp cho chính phủ mới. Thời gian đó chính quyền Mỹ
cũng đặt quyết tâm giành chiến thắng. Tổng thống Johnson dự định gởi 500 ngàn
quân qua chiến trường Việt Nam. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn nói với ông là Thủ tướng
Nguyễn Cao Kỳ cần có một chuyên viên hàng đầu để điều hành kinh tế nhằm giúp ông
ta chỉ tập trung toàn bộ vào việc chiến đấu. Bộ Ngoại giao Mỹ và những viên phụ
tá của Tổng Thống Johnson nói với ông rằng tôi rất nổi tiếng về việc điều hành
kinh tế tài chánh ở cả trong lẫn ngoài nước và tôi có thể đóng vai trò của người
chuyên viên ấy. Tổng thống Johnson chỉ thị cho bộ Ngoại giao và những người phụ
tá tiếp xúc tôi và thuyết phục tôi trở về phục vụ; tôi trả lời là tôi sẽ chỉ về
nếu tôi được hứa giúp những yêu cầu cần thiết - và không giới hạn: để cải thiện
tình hình kinh tế Việt Nam ngay giữa lòng chiến tranh, tôi sẽ chỉ phục vụ quyền
lợi của đất nước tôi thôi; tôi phải có kế hoạch ổn định của riêng tôi và được tự
do vạch những phương pháp điều hành độc lập. Tôi cũng nói, chắc họ đã biết tính
thẳng thắn, sự nghiêm nhặt và những phương pháp điều hành cứng rắn của tôi. Đại
diện bộ Ngoại giao Mỹ Peter Ferguson, và những tay phụ tá toà Bạch Ốc bảo đảm
với tôi rằng tôi sẽ được hoàn toàn tự do làm việc; được hỗ trợ toàn diện từ phía
toà Bạch Ốc, và sẽ có tất cả những tài nguyên cần thiết. Các sứ
giả Việt Nam của tướng Kỳ cũng nói là tôi sẽ được toàn quyền hành động trong
lãnh vực của tôi và chính phủ sẽ hỗ trợ toàn diện.
Cùng lúc đó toà Bạch Ốc đã nhắn vị Chủ tịch Ngân
Hàng Thế Giới, ông Wood, yêu cầu để tôi đi, nhưng tôi vẫn thấy lòng do dự bởi
tôi có cảm giác tướng Kỳ là một tay cao bồi và tôi thấy mình không đủ kính trọng
ông ta để làm việc dưới quyền của ông. Đối với tôi Kỳ là một vị tướng tánh tình
sôi nổi, một người mới bắt đầu vào làng chính trị và một nhà lãnh đạo chưa có ý
thức tổng quát về các vấn đề kinh tế mà những nguyên thủ quốc gia bắt buộc phải
có. Tôi không muốn cột sự nghiệp của mình trong thời điểm khó khăn như thế này
vào một chính phủ có thể không đứng vững; tôi cần phải được thuyết phục rõ ràng
là với chính phủ của Kỳ tôi có thể làm được việc để phục vụ đất nước.
Mặc dù rất
thương yêu đất nước, tôi vẫn phân vân không biết miền Nam có sống qua được cuộc
chiến tranh. Trở về nước trong một giờ phút nguy kịch như thế này là một việc
rất phiêu lưu và rất nguy hiểm và tôi không thể biết chắc là với những sự hỗ trợ
của cả hai chính phủ Việt Nam và Mỹ như vậy có làm thay đổi được gì trong bầu
không khí ảm đạm và đầy thất vọng của dân chúng; những cuộc tấn công của du kích
quân xảy ra hầu như mỗi ngày, càng lúc càng táo bạo và càng gây nhiều thương
vong, mặc dù Mỹ đã tăng cường rất nhiều nỗ lực chiến tranh. Trong đầu tôi diễn
ra một cuộc xung đột giữa ý thức về trách nhiệm và ý thức về thực tế, giữa tình
yêu đất nước và mối bận tâm về tình thế, giữa trách nhiệm đối với gia đình và
những đứa con nhỏ của tôi với ước muốn phụng sự đất nước và giúp đỡ dân chúng.
Quả là rất khó khăn cho
tôi để quyết định. Tôi bị giằng xé giữa biết bao nhiêu điều suy tính, tất cả đều
chánh đáng như nhau. Trong lúc đó Kỳ chỉ thị cho các sứ giả của ông mời tôi về
làm một vòng quan sát để thuyết phục tôi. Tôi chấp nhận ý kiến này; để tôi có
thể nhận định về toàn bộ tình hình cùng đánh giá năng lực lãnh đạo của Kỳ. Tôi
về thăm Việt Nam và có một buổi nói chuyện rất lâu với Kỳ. Tôi phải nói rằng mặc
dù những điều không vừa ý trước kia, tôi vẫn rất có ấn tượng về lòng tận tụy
chân thật của Kỳ đối với đất nước, sự thông minh và đầu óc cởi mở của ông đối
với các vấn đề kinh tế tài chánh. Ông ta nói với tôi là đã nghe nhiều về khả
năng chuyên môn của tôi cũng như sự liêm khiết và thẳng thắn của tôi, không
những từ phía Việt Nam mà từ cả phía người Mỹ, ông ta hoàn toàn tin tưởng nơi
tôi và trông cậy vào khả năng của tôi để thực hiện những điều tốt đẹp cho đất
nước vào giai đoạn khó khăn này. Tôi phải nói rằng sau này ông ta vẫn luôn luôn
giữ lời hứa.
Sau nhiều đêm không ngủ
và tham khảo ý kiến với vợ tôi, tôi quyết định về nước. Tháng 11/1965 sau khi
đưa gia đình tới thành phố Nice ở Pháp, tôi bay về Việt Nam. Tôi được trả 600
USD mỗi tháng để cấp dưỡng cho gia đình ở Pháp, trong khi chờ đợi tôi trở về Mỹ
tiếp tục công việc ở Washington. Tôi hạ cánh xuống Sài Gòn vào một ngày nắng
đẹp, và khi tôi bước ra khỏi máy bay, tôi thấy toàn bộ nhân viên cao và trung
cấp của Ngân Hàng Trung Ương đang chờ đón tôi ở trong phòng khách VIP. Khi nhìn
thấy lại quang cảnh quen thuộc bao quanh phi trường, lòng tôi đầy xúc động và
tôi cảm thấy dâng lên một ý thức trách nhiệm sâu sắc. Nguyễn Xuân Oánh, viên
Thống đốc cũ đã rời ngân hàng không bàn giao công việc, không một lời từ giã,
cũng giống như cung cách của Vũ Quốc Thúc năm 1956 khi anh ta bị T.T. Diệm sa
thải. Tại sao những con người có học như hai ông Oánh và Thúc lại có thể xử sự
như vậy được? Anh ta đã để lại cho ngân hàng một đống hỗn độn. Vì đã hưởng mùi
vị quyền lực một vài ngày khi các viên tướng đang lo đánh nhau đưa anh ta lên
làm Thủ tướng tạm thời, anh ta cũng đâm ra ưa thích chính trị và có rất nhiều
tham vọng. Nhưng công việc ngân hàng thì hình như chẳng hấp dẫn gì đối với anh
ta, và dĩ nhiên sự thiếu hiểu biết cũng như thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực
ngân hàng làm anh ta khó lòng quản lý Ngân Hàng Trung Ương, sự hỗn độn trong
ngân hàng là từ đó mà ra.
Ông Oánh điều hành Ngân
Hàng Trung Ương như là một cơ quan tiếp tân ngoại giao (public relations
agency) và dùng nó làm một bàn đạp cho các tham vọng chính trị. Trước khi rời
ngân hàng, vào phút cuối cùng, anh ta đặt một văn phòng đại diện ở Paris để quản
lý dự trữ ngoại tệ – làm cho nhân viên cao cấp của ngân hàng sửng sốt – rồi anh
ta giao văn phòng này cho người bạn thân anh ta phụ trách. Đây là một hành động
rất bất thường, vì để ở trung ương mà quản lý thì ít tốn kém hơn, dễ dàng hơn và
hợp lý hơn. Thành lập một văn phòng ở Paris chỉ để làm việc này là chuyện phi
lý, trừ khi anh ta và bạn anh ta có một động cơ nào khác không nói ra được, nhất
là khi tất cả các sở ở trung ương đều phải có nhân viên đại diện của sở Tổng
kiểm soát, mà văn phòng Paris không có kiểm soát viên, nên nhiều người nghi ngờ
rằng việc đầu tư dự trữ ngoại tệ cho đất nước không phải là mục đích chính của
họ. Nói gì thì nói, văn phòng này làm cho ngân hàng tốn kém rất nhiều vừa
về phương diện bố trí nhân viên vừa về vấn đề tiền bạc bố trí văn phòng. Vì vậy
với sự đồng ý của Hội đồng Quản trị, tôi quyết định đóng cửa. Người ta cho tôi
hay là cả Oánh và bạn anh ta, đều căm tức quyết định này. Oánh thì đã sẵn ác cảm
với tôi sau hai lần gặp trước đây vì ganh ghét với sự nghiệp của tôi, và bạn anh
ta cũng chẳng mấy thiện cảm sau một thời gian ngắn làm việc dưới quyền của tôi
tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Khi Ernest Lederer tới Việt Nam để thu thập
dư luận, lượm lặt những tin tức đồn đại, những chuyện ngồi lê đôi mách ở các
quán bar và các tiệm cà phê – nơi những người chống chiến tranh và phe phái đối
lập gặp gỡ nhau hàng ngày – để viết một cuốn sách nhằm làm mất uy tín chính sách
Việt Nam của Tổng thống Johnson, thì Oánh và Lê Phát Đạt, một nhân viên cũ của
ngân hàng đã gặp anh ta và buộc tội tôi gian lận trong việc xử lí dự trữ ngoại
tệ, điều mà đúng ra, lại là chính mục đích thầm kín của họ khi mở văn phòng đại
diện ở Paris! Ai lại không tin một cựu Thống đốc, và một Nghị sĩ, nhân viên cũ
của ngân hàng? Nhưng cả hai người này đều cùng nuôi lòng đố kỵ tôi, một người vì
ganh tị vấn đề nghề nghiệp và người thứ hai thì vì công việc kém, nhưng rất hống
hách nên phải ra đi.
Lê Phát Đạt đã từng làm
việc dưới quyền tôi, phụ trách Sở ngoại vụ tại ngân hàng. Anh ta làm việc không
giỏi, anh ta thường mang hồ sơ tới gặp tôi để xin chỉ thị và hướng dẫn cách giải
quyết công việc của anh ta. Anh ta chưa bao giờ được đào tạo về ngân hàng. Nhưng
anh ta rất hống hách, đặc biệt đối với nhân viên dưới quyền, đến nỗi một nhân
viên đã cạo đầu như các nhà sư để phản đối cách cư xử hách dịch của anh ta.
Người này đi khắp ngân hàng, tới tất cả các nơi có nhân viên tụ họp, trình diện
cái đầu trọc để nhắc toàn thể nhân viên về sự hống hách của Đạt, làm không ai
nhịn cười được khi nhìn thấy một nạn nhân bị cạo sạch đầu của Lê Phát Đạt! Mặc
dù thiếu năng lực về ngân hàng, Đạt lại rất nhiều tham vọng và muốn dược bổ
nhiệm làm Tổng giám đốc, vì hai vợ chồng anh ta đã từng là bạn thân với vợ tôi;
nhưng đối với tôi, bạn hay không bạn, khi một nhân viên không đủ năng lực, tôi
không thể thăng chức. Sau đó Đạt vào được quốc hội. Vào lúc đó ở Nam Việt Nam không có nền dân chủ thật sự vì dân chủ thật sự đòi hỏi một trình độ ý thức chính trị trưởng thành ở trong dân chúng mà người Việt Nam chưa có. Vì vậy mà Ông Thiệu đã đưa một hệ thống bầu cử được áp dụng ở Nam Mỹ về dùng. Không có bầu "một người một phiếu, một ứng cử viên một phiếu" như trong một cơ cấu dân chủ thật sự. Hệ thống được ông Thiệu áp dụng dựa trên một liên danh ứng cử 10 người, mà đứng đầu thường là một chính trị gia tên tuổi. Cử tri không cần biết từng người một trên danh sách liên danh và sẽ bầu cho cả liên danh khi họ bỏ phiếu cho người đứng đầu. Vì vậy mà người dân đi bầu thường chỉ chọn liên danh này hay liên danh kia vì họ biết người đứng đầu, chứ họ không nhắm bầu cho chín người còn lại vì họ không biết; nhưng khi người đứng đầu danh sách được bầu thì chín người kia cũng theo ông ta mà vào Quốc hội. Nếu họ đều là những người đàng hoàng thì liên danh này có thể chấp nhận được và Quốc hội sẽ có những thành viên khả dĩ. Nếu không thì chúng ta có thể thấy chất lượng của các nghị sĩ cũng như Quốc hội kém cỏi như thế nào. Thường người ta vào trong một liên danh ứng cử không phải vì các chủ trương hay lý thuyết chính trị. Người ta vào vì tiền, vì quyền lực, vì uy tín, vì tham vọng và thường thì vì có cơ hội làm ăn; ít khi người ta vào để phục vụ đất nước. Trong trường hợp của Lê Phát Đạt thì được cha vợ của anh ta là người rất xứng đáng, đứng đầu danh sách, còn Đạt là chính trị gia chưa tập sự. Cử tri đã bỏ phiếu bầu cho cha vợ anh ta là người có tiếng tăm và anh ta cùng mấy người kia, như một cái đuôi theo ông vào trong ngành lập pháp. Nhưng anh ta rất tự cao và luôn luôn khoe khoang trước công chúng hay trong các nhóm riêng. Anh ta hống hách đến nỗi anh ta trở về ngân hàng đòi hưởng quyền mua một căn nhà dành cho các thành viên lâu năm, cái quyền không còn thuộc về anh ta nữa vì anh ta đã từ chức! Anh ta cũng đòi được sáp nhập trở lại vào danh sách hưu bổng của ngân hàng mà tôi đã thành lập cho các nhân viên với những điều kiện rất hậu hĩnh, mà anh đã rút ra khỏi khi từ chức. Anh ta cứ nghĩ rằng vì là bạn của gia đình, anh ta sẽ được ưu đãi đặc biệt. Không có một lý do nào chính đáng nào trong các đòi hỏi của anh ta và tôi rất ngạc nhiên là anh ta dám đòi những đặc quyền như vậy. Tuy nhiên đối với tôi, thì bạn hay không bạn, khi không có tư cách để hưởng quyền lợi, thì đòi hỏi vô ích. Dĩ nhiên là chính tôi từ chối bởi vì người phụ trách phần việc, viên Giám đốc hành chánh, không dám từ chối anh ta, ngại cái tít Nghị sĩ và tính hống hách của anh ta. Và dĩ nhiên là anh ta rất tức giận và công khai chỉ trích tôi bất cứ khi nào có cơ hội, mặc dầu quan điểm của anh ta hoàn toàn trái luật. Một ngày kia khi anh ta biết tin là tôi đang gởi thơ lên Tổng thống Thiệu xin từ chức để trở về lại Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), anh ta lên diễn đàn Quốc hội và trước sự sững sờ của các nghị sĩ, tố cáo việc quản lí của tôi ở ngân hàng, kê ra nào là bán nhà tự do cho nhân viên, trợ cấp hưu bổng rộng rãi và bảo hiểm y tế rất hậu cho nhân viên, buộc tội tôi là quản lý sai dự trữ ngoại tệ và tài sản ngân hàng. Tất cả các nghị sĩ đều sửng sốt. Rất nhiều người tuy không yêu thương gì tôi nhưng kính trọng năng lực và sự liêm khiết của tôi; họ cũng đều biết công tác kém cỏi của Đạt trong ngân hàng ngày trước. Cha vợ của anh ta bị sốc đến nỗi ông đã bỏ ra khỏi phòng họp, rồi sau đó nói cho anh ta hay là ông xấu hổ vì Đạt đã chỉ trích một cách bất công và xấu xa một người bạn; tôi cũng được nghe một số bạn bè chung kể là vợ anh ta cũng giận anh ta đến nỗi cô đã dọa ly dị. Tôi gọi ông già vợ anh và cho ông hay cuộc viếng thăm của Đạt tại ngân hàng và những sự đòi hỏi vô lý của anh ta. Tôi dọa sẽ viết thư cho Chủ tịch Thượng nghị viện về các sự đòi hỏi hống hách của Đạt; ông già vợ anh ta xin lỗi tôi, nên tôi bỏ qua chuyện gởi thư cho Chủ tịch Thượng viện. Đạt rất nể gia đình vợ vì chính họ tạo cho anh ta công ăn việc làm; sau đó anh ta có nép mình đi đôi chút. Nhưng anh ta rất sung sướng khi gặp Ernest Lederer để cùng với Nguyễn Xuân Oánh phá hại tôi. Sau khi trốn thoát được qua Mỹ, với cái chết của cha vợ và căn bệnh nặng của người vợ, anh ta lại chỉ trích tôi dữ dằn hơn trước, bất cứ dịp nào, bất cứ lúc nào.
Với việc tái tổ chức lại
ngân hàng lần thứ hai từ trên xuống dưới, tôi khôi phục lại được uy tín và cải
thiện được tư thế của nó; đặc biệt là tôi đã nâng cao vai trò của nó trong việc
lập chính sách kinh tế tài chánh cho chính phủ. Từ đây trở đi cho tới ngày tôi
từ chức năm 1968 để trở về Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đã
trở nên một người cố vấn rất quan trọng đối với chính phủ và là một tác nhân
hàng đầu trong chính sách tổng quát của chính phủ trên các lãnh vực kinh tế tài
chánh, nhiều khi còn vượt cả phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của ngân hàng. Điều
này cũng có nghĩa là tăng thêm rất nhiều hoạt động cho ngân hàng và tăng
mạnh các công việc của tôi, nhưng tôi không ngại phải làm việc nhiều hơn và nhận
nhiều trách nhiệm hơn vì ích lợi của ngân hàng và quyền lợi của quần chúng. Nói
cho cùng tôi đã chấp nhận những thiệt thòi lớn về tài chánh khi trở về làm việc
giúp đất nước, thì tôi không ngại gì mà làm việc ngày đêm. Trong suốt thời gian
này tôi được Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ mời tham dự các buổi họp
Nội các bàn về các vấn đề kinh tế tài chánh. Tôi cũng thường được Thủ tướng Kỳ
và các Tổng trưởng liên quan yêu cầu cho ý kiến và đề nghị chánh sách và phương
án giải quyết những vấn đề khó khăn; chính phủ thường chấp nhận các ý kiến và
các đề nghị của tôi. Vì lý do đó tôi rất thận trọng khi làm việc và hợp tác chặt
chẽ với Trần Văn Kiện, Tổng trưởng Tài chánh, và Trương Thái Tôn, Tổng trưởng
Kinh tế. Kiện là một người rất tốt và rất dễ thương, nhưng lại quá dễ dãi. Anh
ta là người của đảng Đại Việt và được Phan Huy Quát, thủ lãnh đảng Đại Việt đưa
vào chính phủ Kỳ. Tôn là một kỹ sư nông nghiệp cũng là một người dễ thương và
lịch thiệp, có quan hệ ngoại giao rộng nhưng cũng không phải là nhà kinh tế
giỏi; anh có thể quán xuyến công việc thường lệ nhưng không thể hoạch định những
vấn đề chính sách. Tôi giúp chánh phủ bằng mọi cách, nhiều nhất là trong việc
nghiên cứu và vạch chính sách kinh tế tài chánh. Đóng một vai trò tích cực trong
việc hoạch định chính sách và dành một vị trí ưu thế cho ngân hàng, tôi đã góp
phần ấn định một phương hướng tổng quát cho nền kinh tế tài chánh của đất nước.
Tôi cũng hợp tác chặt
chẽ với Giám đốc cơ quan USAID Mỹ (U.S. Agency for International
Development) Donald McDonald và Cố vấn
Kinh tế của tòa Đại sứ Mỹ, Roy Wherlee. Họ thích xử lý với tôi các vấn đề kinh
tế tài chánh mà lẽ ra là phải được hai ông Tổng trưởng Tài chánh và Tổng trưởng
Kinh tế xử lý, bởi vì họ biết rõ ảnh
hưởng của tôi đối với Nội các và các vị Tổng trưởng liên quan. Nhưng trên hết họ
đánh giá cao cách làm việc của tôi bởi vì công việc của họ được giải quyết hay
quyết định dứt khoát, mau lẹ trong khi họ không thể dễ dàng làm được như vậy với
các Tổng trưởng thường hay ngập ngừng do dự.
Để công việc được dễ
dàng và thu được nhiều kết quả tốt hơn khi hợp tác với họ, tôi duy trì sự tiếp
xúc thường xuyên với các Đại sứ Mỹ, Pháp, Úc, Nhật và Trung Hoa, chiêu đãi họ
rất thịnh soạn. Về phía người Mỹ, tôi thường chiêu đãi tại nhà tôi Đại sứ
Ellsworth Bunker cùng bà Bunker vợ ông – bà ta là Đại sứ Mỹ tại Nepal. Hai ông
bà Bunker cũng thường mời tôi cùng họ đi thăm xứ sở Nepal bằng máy bay riêng của
họ, nhưng tôi không có đủ thời gian cho việc này. Về sau tôi cứ tiếc đã để mất
cơ hội thăm một quốc gia mà sau này tôi sẽ đại diện tại Hội đồng Quản trị Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế. Cùng với Đại sứ Bunker tôi cũng thường mời Robert Komer, Phó
Đại sứ Mỹ đặc trách chương trình bình định và là người đại diện không chính thức
của toà Bạch Ốc ở Sài Gòn, tướng Westmoreland, Tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt
Nam và sau này người kế nhiệm ông, tướng Abrams. Phòng ăn của tôi nổi tiếng
những thức ăn ngon và điều này giúp tôi rất nhiều trong các mối quan hệ ngoại
giao. Tôi cũng thường chơi tennis với Robert Komer, nhưng tôi không tìm ai ra để
cùng tôi chơi trượt ván nước.
Tôi thường nói với những
người đối tác bên phía Mỹ và bộ chỉ huy quân sự Mỹ rằng 500 ngàn du khách (đó là
con số lính Mỹ tại Việt Nam) lương mỗi tháng 600 USD mỗi người, là một gánh quá
nặng đối với một nền kinh tế bé nhỏ như Việt Nam nếu họ được phép tiêu xài thả
cửa trên thị trường bản địa; điều đó sẽ tạo ra một áp lực khổng lồ trên mặt cung
ứng sản phẩm và tỉ lệ lạm phát sẽ bùng nổ theo một chiều hướng tệ hại. Tôi cực
lực yêu cầu những người lính Mỹ chỉ được tiêu xài trong phạm vi căn cứ của họ,
và phải được cách li khỏi nền kinh tế Việt Nam. Việc lính Mỹ xài quá nhiều tiền
trong khi sống giữa một khối dân chúng nghèo khổ, cùng với việc họ công tác bên
cạnh những người lính Việt Nam sống một đời cực nhọc nguy hiểm mà lương mỗi
tháng chỉ 20 USD cho cả nhà gồm có tới chín, mười người sẽ gây nên một vấn đề xã
hội, chính trị hết sức đáng quan ngại. Trong những chuyến đi thị sát ở thôn quê,
tôi thường nghe lính tráng Việt Nam so sánh đời sống của lính Mỹ với lính Việt,
về việc lính Mỹ ngoài 600 USD mỗi tháng còn có tất cả mọi tiện nghi khác như
được tắm ngay trong rừng sau trận đánh, ăn thịt ngỗng trong ngày lễ Tạ Ơn, bánh
ngọt trong dịp lễ Giáng Sinh. Đó rõ ràng là không công bằng đối với người lính
Việt Nam và họ thường nói với nhau cứ để bọn Mỹ đi đánh nhau và chết thay cho
họ! Điều này là một vấn đề chính trị kinh tế xã hội rất quan trọng, phải được
chính Thủ tướng và các Tổng trưởng có liên quan lưu tâm tới. Nhưng vì không ai
muốn gánh lấy trách nhiệm nên tôi phải gánh luôn cái gánh nặng giải quyết và đưa
ra những phương án hợp lí cho mỗi cơ quan. Điều này không phải dễ dàng, đôi khi
tôi bị mắc kẹt giữa các phe phái đối nghịch nhau.
Quân đội Mỹ và những
nhân viên dân sự làm việc cho họ nhận tiền lương bằng loại tiền MPC mà người Tàu
và người Việt gọi là đô-la đỏ; họ được khuyến cáo để những đồng
đô-la xanh ở nhà, chỉ dùng đồng MPC trong các căn cứ của họ. Việc lưu hành đồng
đô-la đỏ được giới hạn trong các căn cứ Mỹ và tại các khu quân tiếp vụ, nơi cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho lính Mỹ; nhưng chúng tôi không thể ngăn chận được
đồng đô-la đỏ tràn vào nền kinh tế Việt Nam qua những cô gái bán Bar và đám
người làm ăn với Mỹ. Lẽ tự nhiên điều này tạo ra một khối lượng khổng lồ nạn chợ
đen, đầu cơ và làm bạc giả. Phải ngăn chận tình trạng này. Vì vậy mặc dù có sự
phản đối của binh lính Mỹ và những nhân viên dân sự Mỹ, tôi vẫn nói với bộ tư
lệnh quân sự Mỹ nên thỉnh thoảng đổi đồng MPC một cách bất ngờ, không báo trước.
Bộ tư lệnh Mỹ tuy thường hay ngần ngại nhưng đôi khi cũng đồng ý và tổ chức
những đợt đổi tiền đô-la đỏ chớp nhóang. Đám chợ đen, đầu cơ và kinh doanh bất
hợp pháp thường bị chưng hửng trong khi làm ăn và có thể mất một số tiền lớn. Đó
là hình phạt mà tôi muốn dùng để dân chợ đen, chợ đỏ sợ mà tránh xa thị trường
buôn bán đô-la đỏ.
Đánh hơi thấy một cơ hội
lớn để kinh doanh trong một cộng đồng đông đúc người Mỹ như vậy, một số lớn
những tay kinh doanh Mỹ đã tới Việt Nam và làm giàu bằng cách cung cấp dịch vụ
cho đám lính GI Mỹ. Nhiều người trong bọn họ cung cấp hàng chợ đen, các cuộc
giải trí bất hợp pháp (thoát y vũ, mại dâm, ma tuý) bán đồng đô-la xanh,
mua đô-la đỏ và tiền Việt Nam trong các thị trường đổi tiền bất hợp pháp; họ
giàu lên rất lẹ và đồng thời gây nên nhiều xáo trộn trong thị trường hoán đổi
tiền tệ. Toà Đại sứ Mỹ không thể làm gì được để ngăn chận những hành động bất
hợp pháp tai hại như vậy. Họ nói với tôi nhân viên toà Đại sứ đã trao đổi với bộ
Nội vụ, bộ Chỉ huy Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam nhưng không bao giờ được trả lời.
Nhân viên chính phủ Việt Nam không muốn bị dính líu vào những chuyện này, có lẽ
vì họ không hiểu bao nhiêu về ảnh hưởng đối với nền kinh tế đất nước và cũng vì
họ không muốn đụng tới công việc của người Mỹ, điều có thể gây rắc rối cho đời
sống và công việc của họ mà không lợi lộc gì. Cơ quan Điều Tra Hình Sự (CID) của
toà Đại sứ Mỹ cung cấp cho tôi một danh sách những người Mỹ và công dân các nước
thứ ba có dính líu vào các hoạt động bất hợp pháp cùng thông tin về các hoạt
động của họ. Theo lệnh của Đại sứ Mỹ, cơ quan CID đã cấp cho tôi rất nhiều thông
tin hữu ích, và rất nhiều lần, về các hoạt động mua bán ma tuý; thậm chí họ – cơ
quan CID – còn mua cho tôi cả những bản kê các trương mục bí mật ở các ngân hàng
Thụy Sĩ và cho tôi thông tin về số tài khoản của một vài thành viên trong chính
phủ Việt Nam. Có một Bộ trưởng bị dính vào với một trương mục thật lớn ở Thuỵ
Sỹ; tôi định đưa cho toà án để giải quyết, tương tự như một người Trung Hoa ở
Chợ Lớn cũng bị bắt và đang ngồi tù. Nhưng Thủ tướng Kỳ sợ tai tiếng cho chánh
phủ, nên bảo tôi phạt thật nặng là đủ. Tôi đưa hồ sơ cho Viện Hối Đóai và anh ta
bị phạt 300 %.
Sau đó cứ mỗi tháng toà
Đại sứ lại cung cấp cho tôi cả danh sách của những người Mỹ tình nghi phạm tội.
Khi tôi đã có đủ thông tin chắc chắn để thành lập một cáo trạng, tôi ký
một văn bản yêu cầu trục xuất những người Mỹ và những công dân các nước thứ ba,
và viên Giám đốc cảnh sát Sài Gòn-Chợ Lớn, một người bạn quen biết từ lâu, sẵn
lòng trục xuất cho tôi. Công việc này không phải của tôi, của chánh phủ, của bộ
Nội vụ và của cảnh sát, nhưng buồn thay, không một ai dám làm vì sợ đụng chạm
đến người Mỹ, rất nguy hiểm. Nhưng đối với tôi bảo vệ nền kinh tế của đât nước
là một vấn đề rất quan trọng, tôi phải làm.
Tất cả những người bị
trả lại về nước, thường không dám quay lại Việt Nam; họ tiếp tục việc làm ăn của
họ từ Hồng Kông, Singapore hay Băng Cốc, nhưng cũng có một vài người trở lại
trên những chiếc máy bay quân sự đưa những người lính GI Mỹ từ các chương trình
nghỉ ngơi giải trí trở về. Một người đặc biệt lì lợm cũng trở lại Việt Nam theo
cách này qua Pleiku và tới Sài Gòn. Y tới văn phòng người phụ tá đặc biệt của
tôi, cô Kiều Dung, một người phụ tá tuyệt vời trong ban tham mưu của tôi; trong
khi tôi đang bận tiếp khách; y đe dọa đạp cửa xông vào giết tôi. Y hơi "xỉn", vì
vậy Kiều Dung báo động được ngay cho người phụ trách an ninh ngân hàng; người
này lên tóm y giao cho Đại tá Nguyễn văn Luận, Gíam đốc cảnh sát Sài Gòn - Chợ
Lớn, một người bạn thân và bạn đi săn của tôi. Đại tá Luận tống anh ta lên
chuyến máy bay đầu tiên rời khỏi Việt Nam và bảo anh ta đừng có bao giờ trở lại;
nếu không anh ta sẽ bị tống vô ngục. Sau sự cố này, tôi gọi điện cho toà Đại sứ
Mỹ yêu cầu ra lệnh cho tất cả các chuyến bay quân sự vào Việt Nam không được
nhận hành khách không có giấy tờ hợp lệ.
Đối với các vấn đề kỷ
luật tài chánh và quản lí kinh tế như vậy, tôi được sự hỗ trợ hoàn toàn của tòa
Đại sứ Mỹ và bộ tư lệnh quân sự Mỹ, nhưng thái độ thẳng thắn và việc bảo vệ các
quyền lợi quốc gia một cách kiên quyết của tôi đã làm bực bội một số viên chức
Mỹ và thỉnh thoảng tôi có chuyện khó khăn với họ cũng nhiều khi như họ có chuyện
với tôi. Họ thường nói với nhau tôi là một tên khốn kiếp (son of bitch – một lối
nói quen thuộc của người Mỹ) rất dai, rất lì, nhưng cũng là một người rất tận
tụy, một tay chuyên môn và một tay hành động có cỡ (doer); chẳng thà làm việc
với y (tức là tôi) với sự cứng rắn và hiệu quả của y còn hơn làm việc với những
người khác mềm mỏng hơn nhưng kém hiệu quả hơn nhiều. Trong con mắt của các quan
chức Mỹ tôi là một trong số ít quan chức cao cấp của Việt Nam có khả năng quyết
định mau chóng và hiệu quả, và họ luôn luôn tới tôi bất cứ khi nào họ cần câu
trả lời hoặc một quyết định mau lẹ, ngay cả trong những trường hợp hơi ngoài
quyền hạn của tôi.
Tôi cần người Mỹ hỗ trợ
trong công việc bởi vì Việt Nam cần sự trợ giúp của Mỹ để ổn định và phát triển
kinh tế khi đang theo đuổi chiến tranh; nhưng tôi là một người Việt Nam tự hào
về tổ quốc mình nên tôi không chấp nhận bất cứ ai xen vào phương thức làm việc
của tôi và vi phạm pháp luật Việt Nam. Tôi có quan điểm của tôi về quyền lợi của
đất nước và tôi sẽ bảo vệ quyền lợi ấy một cách quyết liệt. Tôi rất kiên định
trong những điều mà tôi tin tưởng là tốt cho dân và đất nước tôi và tôi chỉ đề
nghị hoặc chấp nhận những biện pháp mà tôi thấy ích lợi nhất. Những nguyên tắc
không khoan nhượng này đã làm nhiều người bạn Mỹ của tôi nổi giận. Charlie Mann
là một người bạn cũ từ giai đoạn đầu tiên của chương trình viện trợ Mỹ ở Việt
Nam, đầu những năm 50. Anh ta là Giám đốc phái đoàn USAID khi tôi trở về Việt
Nam năm 1965. Chúng tôi cùng nhau làm việc trong một bầu không khí thân thiện,
nhưng Charlie không có năng lực trong lãnh vực tiền tệ; anh thường không thích
những quan điểm của tôi, nhất là quan điểm chống phá giá đồng Việt Nam của
tôi, nhưng tôi không chịu nhượng bộ vì tôi tin rằng anh ta đương nhiên quan tâm
tới quyền lợi của Mỹ hơn quyền lợi Việt Nam. Một ngày kia anh ta tới phòng tôi
và khẩn khoản yêu cầu một điểm mà tôi đã từ chối nhiều lần trước đó. Anh ta rất
giận và đã phạm sai lầm là nói ra cái mà có lẽ anh ta luôn luôn nghĩ trong đầu:
“Bọn Việt Nam lúc nào cũng cứng đầu.” Tôi đứng dậy bước về phía cửa và mời anh
ta ra ngoài, không nói một tiếng. Rồi tôi gọi điện cho Phó Đại sứ Mỹ là Alexis
Johnson nói rằng từ nay trở đi tôi không muốn làm việc với Charlie Mann nữa và
tôi giải thích lý do vì sao. Tôi không bao giờ nói chuyện trở lại với Charlie;
một tháng sau anh ta được chuyên chuyển về Mỹ. Về sau khi tôi trở lại Mỹ làm
việc cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF tôi cố tìm Charlie Mann để nối lại tình bạn
ngày xưa nhưng anh ta đã được thuyên chuyển qua một nước châu Phi và tôi không
bao giờ gặp lại anh nữa. Đối với tôi công việc là công việc và tình bạn là tình
bạn, không thể lẫn lộn với nhau được. Một khi đã giải quyết xong vấn đề quan
điểm, thì không nên để công việc xen vào mối quan hệ giữa người và người.
Một câu chuyện tương tự
cũng xảy ra với Roy Wherlee sau đó ít lâu. Roy là Cố vấn kinh tế của tòa Đại sứ
Mỹ. Chúng tôi làm việc chung với nhau rất hợp, nhưng một ngày kia khó chịu vì
tôi cứ không chịu tán đồng quan điểm của Mỹ, anh ta đã nói một vài lời xấc xược
về chính sách của nhà nước Việt Nam. Tôi cám ơn anh ta, chào từ biệt và nói anh
ta đừng bao giờ gọi điện cho tôi hay gặp tôi nữa. Sau đó không lâu Roy được
thuyên chuyển về lại Washington và rời khỏi bộ Ngoại giao. Sau khi tôi trở về Mỹ
để tiếp tục sự nghiệp ở nước ngoài chúng tôi lại chơi với nhau trở lại. Đối với
tôi khi bảo vệ quyền lợi của quốc gia thì chúng ta phải đứng thẳng nhưng sau khi
xong công việc thì chúng ta phải trở lại bạn bè, đó luôn luôn là cách làm việc
của tôi; nhưng nhiều người không thể tách rời công việc khỏi tình bạn, và đôi
khi họ mất một người bạn hoặc một mối quan hệ tốt vì không đồng ý về những vấn
đề hoặc nguyên tắc quan trọng. Chúng ta hay có thói quen coi bất cứ sự khác biệt
quan điểm nào như là một sự đối đầu cá nhân hay sự sỉ nhục, và nhìn người trước
mặt như kẻ thù trọn đời.
Robert Komer, Phó Đại sứ
Mỹ phụ trách bình định và cũng là người đại diện bán chính thức của tòa Bạch Ốc
ở Sài Gòn, cũng làm việc rất mật thiết với tôi; nhờ sự hỗ trợ của anh ta mà tôi
đã đạt được một vài nhượng bộ lớn mà phía Mỹ đã hứa trước khi tôi trở lại Việt
Nam (tổng số viện trợ, chương trình viện trợ đặc biệt...). Anh ta rất thích ăn ở
nhà tôi, cùng đi chơi với tôi và cũng hay đánh tennis với tôi. Cứ mỗi năm chúng
tôi lại thảo luận về chương trình viện trợ kinh tế tài chánh thường niên, và một
vài điều trở nên rất khó đồng ý với nhau, một trong những điều ấy là mức dự trữ
ngoại tệ của Việt Nam. Quốc hội Mỹ muốn hạ nó xuống còn 200 triệu USD, lấy cớ là
chương trình viện trợ cho Việt Nam vào thời điểm đó đã quá lớn rồi. Chính quyền
Mỹ và toà Bạch Ốc làm áp lực rất mạnh với chính phủ Việt Nam để giảm nó xuống
mức 250 triệu USD. Tôi thường nói cho Chủ
tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia Nguyễn Văn Thiệu và Chủ
tịch Uỷ ban hành pháp trung ương Nguyễn Cao Kỳ biết rõ, nước nhà cần phải có ít
nhất là 300 triệu Mỹ kim để có thể giữ cho Việt Nam được một khoảng đệm trong số
dự trữ ngọai tệ và để chánh phủ có thể có một chánh sách độc lập khi có sự khác
biệt với quan điểm của Mỹ; vì những lý do chính trị, hai ông Thiệu lẫn Kỳ đều dễ
dàng nhượng bộ về điểm này, nhưng tôi nhất định giữ vững quan điểm của tôi và từ
chối điều chỉnh chính sách của Ngân Hàng Quốc Gia để hạ xuống số dự trữ như
chánh phủ Hoa Kỳ muốn.
Khi Thủ Tướng Nguyễn Cao
Kỳ mời tôi về giúp chánh phủ, bên Hoa Kỳ cũng cố gắng thuyết phục tôi, Tổng
Thống Johnson chỉ thị đại diện Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao đưa tin cho tôi hay
là Ông sẽ giúp cho tôi đầy đủ phương tiện để làm việc, mở rộng thêm chương trình
viện trợ cho Việt Nam để giúp tôi giữ thế quân bình trên mặt tiền tệ, để tránh
cho dân Việt Nam những nỗi khó khăn, và tiếp tục phát triển đất nước trong vòng
khói lửa.
Từ ngày chánh phủ Hoa Kỳ
trợ giúp cho ngân sách Việt Nam, bắt đầu từ những năm 50, phía Việt Nam chỉ biêt
nhận những khoản viện trợ do chánh phủ Mỹ cấp cho, một cách thụ đông, không hề
đòi hỏi, thay đổi hay thương thuyết gì hết.
Nhưng với lời hứa của
T.T. Johnson, tôi có một ý niệm hoàn toàn khác về vấn đề nhận viện trợ, và tôi
không ngần ngại đòi hỏi thêm hay thay đổi trong chiều hướng có lợi cho đất nước.
Tôi luôn luôn nêu ra các vấn đề dể bàn cãi và thương thuyết chương trình viện
trợ với Hoa Kỳ. Đối tác của tôi là Robert Komer. Khi nào có sự bất đồng ý kiến,
thì Robert Komer và tôi bay qua Washington để họp với T.T. Johnson. Nhưng không phải vì vậy mà
tôi chịu nhân nhượng; tôi không ngần ngại từ chối, không nhượng bộ.
Cũng nhờ có một số người
rất ít liên hệ đến việc thương thuyết chương trình viện trợ, không phải đi qua
nhiều trạm nhiều bộ, bên phiá Hoa Kỳ, cũng như về phía Việt Nam, nên công việc
thừơng đựơc giải quyết hết sức mau lẹ và nhũng kết quả luôn luôn có phần tốt
đẹp.
Về phía Việt Nam, chẳng
có ai đủ thâm quyền và sự hiểu biết để tôi trình bày, nhất là khi không có một
cơ quan trung ương nào để quản trị chương trình viện trợ. Thủ Tướng Nguyễn Cao
Kỳ thì giao phó vấn đề hoàn toàn cho
tôi; ông chỉ can thiệp khi nào, vì lý do chánh trị, ông thấy cần phải nhựơng bộ
Hoa Kỳ. Nhưng ròi tôi cũng tìm cách giành giật trở lại những gì ông đã chấp
thuận, như vụ tổng số dự trữ ngoại tệ của Việt Nam mà ông chấp thuận bớt xuống
250 triệu; nhưng tôi vẫn không chịu và sau đó tôi bay qua Washngton, nói chuyện
với Tòa Bạch Ốc và lấy lại đựơc số 50 triệu Mỹ Kim, khỏan tiền phát triển kinh
tế, để mang tổng số lên 300 triệu Mỹ
Kim như củ; tôi thừơng không để ý đến khía cạnh chính trị mà chỉ lo bênh vực
quyền lợi của đất nứơc.
Tôi cũng đòi chương
trình PL480, vốn là một phần của toàn bộ chương trình viện trợ, phải được hoàn
toàn dành riêng cho chính phủ Việt Nam sử dụng vào việc phát triển kinh tế thay
vì để cho chính phủ Mỹ dùng cho các mục đích quân sự hay chính trị. Hai điều này
cùng với một số điều khác ít phức tạp hơn đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận
giữa Robert Komer và tôi tại toà Bạch Ốc trong chuyến tôi qua thăm Washington,
và cuối cùng không thể giải quyết bởi vì tôi “giữ chặt khẩu súng" của mình.
Hình 5.
Phái đoàn Việt Nam viếng
Tòa Bạch Ốc với TT Johnson. 1966, Washington DC.
Trong một chuyến đi Washington như vậy, chúng tôi đã tới thảo luận một lần với
Tổng thống Lyndon Johnson. Tôi rất ấn tượng về sự hiểu biết của ông đối với các
vấn đề bàn cãi và vẻ uy quyền toát ra từ con người ông, nhưng tôi vẫn giữ vững
quan điểm của tôi và không chịu nhượng bộ một khoản nào hết. Chúng tôi chấm dứt
buổi thảo luận ở đó và khi tôi đứng dậy từ giã Tổng thống Johnson, Bob Komer nói
với ông nửa đùa nửa thật: “Thống đốc Hanh rất tử tế nhưng cũng rất cứng rắn. Mỗi
khi chúng tôi thương thuyết với nhau là ổng làm cho tôi
mất quần”.
Một tuần sau tôi trở lại
Sài Gòn và nhận được qua bộ Ngoại giao một công hàm của Bùi Diễm, Đại sứ Việt
Nam tại Washington, chuyển một văn kiện do Robert Komer gởi, với tiêu đề của toà
Bạch Ốc ở phía trên, đề cập những điểm đã thảo luận tại toà Bạch Ốc. Lá thư của
ông Bùi Diễm ủng hộ quan điểm của Bob Komer và bày tỏ sự bất mãn về quan điểm
của tôi. Tôi biết rằng ông ta cũng gởi một công hàm như vậy tới Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, đổ trách nhiệm việc cuộc thương
thuyết bị tắt nghẽn cho sự cố chấp của tôi.
Hình 6. Lyndon B. Johnson – Tổng thống Hoa Kỳ
Hình như Bob Komer đã trông vào
cái oai và uy tín của Tổng Thống Johnson để ép tôi nhượng bộ, nên anh ta rất
thất vọng với thái độ không khoan nhượng của tôi. Bây giờ anh ta lại định dùng
áp lực cấp trên của tôi nhằm làm mềm yếu thái độ của tôi. Anh ta không hiểu gì
tôi cả! Các quan điểm và ý kiến của tôi đâu có nghiêng ngửa dễ dàng như vậy
được. Tôi gởi lại cho Bob Komer một bức thư cũng mạnh mẽ không kém, thông qua
toà Bạch Ốc và bộ Ngoại giao Việt Nam. Trong một lá thư gởi cho Đại sứ Việt Nam,
tôi xác định lại niềm tin của mình trong việc bảo vệ quyền lợi đất nước và lấy
làm tiếc cho quan điểm mềm yếu của ông ta và việc ông ta đứng về phía chính
quyền Mỹ. Sau đó tôi được biết Bùi Diễm đã gọi điện cho ông Kỳ than phiền quan
điểm và thái độ cứng rắn của tôi. Nhưng Kỳ không bao giờ nói gì với tôi cả, cũng
không than phiền thái độ của tôi.
Bây giờ tôi mới hiểu tại sao
viên Đại sứ này được chính phủ Mỹ giúp, ngay cả sau khi Nam Việt Nam bị mất. Và
tôi mới hiểu được tại sao một số quan chức Mỹ đã tìm cách ngăn chận IMF thâu
nhận tôi làm Cố vấn sau khi tôi trở lại Washington.
Chánh phủ Mỹ hình như biết rõ
họ cần dùng ai, không cần dùng ai, mua được ai, không mua được ai. Một cựu
Tổng trưởng, thích mị dân, một thời gian trước khi miền Nam thất thủ, đã có một
vài tuyên bố nảy lửa chống lại người Mỹ để tạo tiếng tăm chống Mỹ trong lòng
công chúng Việt Nam thời đó. Thế nhưng khi anh ta qua Mỹ, anh ta đã nhận được sự
hỗ trợ tích cực từ giới chức Mỹ khi đi tìm việc làm. Tôi đóan được những gì đã
xảy ra lúc trước chỉ là một trò diễn kịch. Trong khi anh ta được người của USAID
quan tâm nhiều như vậy thì các viên chức bộ Ngoại giao Mỹ và những đối tác của
tôi bên phía Mỹ, cũng như bạn bè người Mỹ của tôi ở Việt Nam, đã xây lưng lại
tôi sau khi Sài Gòn thất thủ. Một phó Tổng lãnh sự Mỹ đã từ chối không cấp visa
nhập cảnh cho tôi vào Mỹ, sau chuyến tôi về thăm Sài Gòn tháng 4/1975, ngay
trước lúc Việt Nam sụp đổ – T.T.Thiệu đã yêu cầu tôi trở về để xem có thể làm gì
cho đất nước vào một thời kỳ nguy cấp như vậy không –. Viên phó lãnh sự này tên
là Oh, gốc Đại Hàn, đã nói với tôi rằng tòa Đại sứ không bíêt tôi là ai.
Tôi mong sao Đại sứ Durbrow, Đại sứ Ellsworth
Bunker, các Phó Đại sứ Alexis Johnson, Palmer, Robert Komer, các Cố vấn như Roy
Wherlee, Giám đốc USAID Donald McDonald v.v… có thể nghe được câu trả lời ngắn
ngủi này. Sau nhiều năm làm việc với tòa Bạch Ốc, các Đại sứ, Phó Đại sứ Mỹ và
các Cố vấn đủ hạng ở tòa đại sứ, đây quả là một câu trả lời khôi hài – đó là nói
ít nhất, nó giải thích tại sao thế giới luôn luôn nhìn các nhà ngoại giao và
chính sách ngoại giao của Mỹ một cách nghi ngờ và không thiện cảm. Họ nghĩ rằng
những nhà ngoại giao Mỹ chỉ là những con người không tình cảm và chính sách
ngoại giao của Mỹ rất ngạo mạn. Các nhà ngoại giao Mỹ không thật sự đại diện cho
dân chúng Mỹ. Mọi người trên thế giới đều yêu mến và kính trọng người dân Mỹ khi
họ có dịp hiểu hoặc sống cùng, bởi vì người dân Mỹ tốt bụng và rộng rãi; bất
hạnh thay, người dân Mỹ cũng bị ghét vì họ chỉ được biết tới qua các nhà ngoại
giao Mỹ. Thế giới bên ngoài nước Mỹ xem chính sách ngoại giao của Mỹ, như chính
sách của Tổng thống Bush chẳng hạn, là ngạo mạn và hống hách.
Tôi phải dùng tới giấy
thông hành ngoại giao của Liên Hiệp Quốc do IMF cấp để vào nước Mỹ. Trước khi
tôi rời Washington để về thăm Việt Nam trong chuyến đi cuối cùng ấy, tôi đã nói
chuyện với Nha hành chánh IMF rằng tôi sắp về nước theo lời mời của Tổng thống
Thiệu, và IMF đã cho phép tôi sử dụng giấy thông hành của Liên Hiệp Quốc bất cứ
khi nào cần thiết vì họ liệu trước rằng miền Nam Việt Nam có thể thất thủ và một
tình trạng hỗn loạn cực kỳ có thể sẽ kéo theo sau sự sụp đổ của chính quyền Việt
Nam. Hành động này của IMF đã giúp tôi thoát khỏi rất nhiều khó khăn trở ngại.
Trở lại công việc tháng
10/1967, Nguyễn Cao Kỳ đã mời tôi vào chính phủ và yêu cầu tôi phụ trách toàn bộ
các lãnh vực kinh tế, tài chánh, thương mại và kỹ nghệ, trong lúc vẫn điều hành
Ngân Hàng Quốc Gia và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín; ông ta muốn tôi đảm nhiệm
luôn chức chủ tịch Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ, vốn lâu nay do Phó Tổng thống hoặc
Thủ tướng phụ trách. Tôi sẽ nắm trong tay 4 bộ, với
4 Tổng trưởng dưới quyền giám sát của tôi, cùng với Ngân Hàng Quốc Gia, Ngân
Hàng Việt Nam Thương Tín và kiêm luôn cả chức chủ tịch Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ.
Đó là trách nhiệm của một phó Thủ tướng phụ trách kinh tế tài chánh. Ông ta muốn
tôi phụ trách toàn bộ các vấn đề kinh tế tài chánh của chính phủ để ông có thể
tập trung tất cả thời gian vào cuộc tranh cử Tổng thống sắp tới.
Tôi từ chối.
Tôi không bao giờ muốn dính líu tới chính trị vì
tôi luôn luôn biết rằng tôi không đủ các tính tốt cũng như tính xấu để có thể
làm một chính trị gia giỏi. Ngoài những phẩm chất về đạo đức và chính trị, chính
trị gia còn phải có những tính xấu như có thể nói láo, có thể đóng kịch và những
điều mà tánh tình của tôi không chấp nhận được. Nhưng Kỳ cứ khẩn khoản yêu cầu
tôi chấp nhận, và khi tôi vẫn từ chối ông ta doạ “sẽ trưng dụng tôi như một
người lính". Cuối cùng tôi đành chấp nhận với hai điều kiện: tôi phải được hoàn
toàn rộng tay trong việc dọn dẹp sạch sẽ những khu vực kinh tế tài chánh cần
thiết, ông ta phải ủng hộ tôi một trăm phần trăm; và tôi sẽ từ chức ngay sau khi
kết thúc cuộc bầu cử. Trong nhiệm vụ mới, tôi phải làm việc thường xuyên hơn và
sâu rộng hơn với giới chức Mỹ; họ đều cảm thấy bằng lòng với cách sắp xếp này,
bởi vì họ chỉ làm việc với một người thôi trong các lãnh vực phi quân sự và
chính trị.
Một thời gian sau khi
tôi đáp lại công hàm của Bob Komer, tôi được tòa Đại sứ Mỹ thông báo là anh ta
sắp trở lại Sài Gòn để tiếp tục những cuộc thảo luận về các điểm tranh cãi trước
đây tại toà Bạch Ốc. Trước khi anh ta tới, tôi xuống vùng châu thổ sông Cửu Long
để khảo sát vụ lúa mùa và việc cung cấp thực phẩm cho Sài Gòn, thời gian này
đang trở nên càng lúc càng khó khăn với sự gia tăng các hoạt động du kích. Trên
thực tế tôi không muốn gặp Bob Komer và muốn để chính Kỳ xử lý vấn đề dự trữ
ngoại tệ. Nếu vì những lý do chính trị mà Kỳ muốn nhượng bộ Komer, tôi không
muốn dự phần vào đó. Ngày hôm sau, khi tôi đang lái xe dọc theo các cánh đồng ở
gần Châu Đốc, viên Tỉnh trưởng đã phóng xe rượt theo tôi để trao tận tay một
thông điệp của Kỳ: trở về Sài Gòn ngay lập tức, công việc rất quan trọng. Tôi
biết việc quái gì rồi nhưng tôi cũng phải tuân hành. Kỳ cấp cho tôi một chiếc
máy bay nhỏ và tôi bay trở về lại Sài Gòn. Khi máy bay bay qua các cánh đầm lầy,
tôi nghe tiếng súng trường và súng tiểu liên rộ lên từ phía dưới đất nhưng may
mắn máy bay không trúng đạn. Kỳ gởi một chiếc xe hơi tới ngay phi trường để đón
tôi về văn phòng Thủ tướng ngay lập tức. Kỳ và Komer đang ở đó chờ tôi. Kỳ dẫn
tôi vào một phòng khác và đề nghị tôi nhượng bộ vì những lý do chính trị quan
trọng, có lẽ để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ trong cuộc bầu cử sắp tới. Ông ta
muốn tôi chịu giảm mức dự trữ ngoại tệ xuống còn 250 triệu USD. Tôi nói với Kỳ
là tôi không muốn nhận trách nhiệm về một quyết định như vậy và chính ông phải
ký bản thỏa ước với Bob Komer. Tôi sẽ không công khai phản đối, nếu như ông chịu
để cho tôi đi Washington để bàn cãi lại khoản này và đòi lại những gì sẽ mất.
Một tuần sau tôi trở lại
Washington và giải quyết vấn đề thoả đáng như ý tôi muốn, bằng một đường lối êm
thắm hơn: tôi ký một thỏa ước kinh tế tài chánh trọn gói trong đó Việt Nam được
cấp thêm một khoản viện trợ để lập Quỹ Tái thiết và Phát triển Hậu chiến là 50
triệu đô-la; đó là một nước cờ kỹ thuật để gỡ lại thỏa ước của Kỳ với mức 250
triệu đô-la. Như vậy mức dự trữ ngoại tệ của Việt Nam được nâng lên một cách
gián tiếp tới 300 triệu đô-la. Trên thực tế trong sổ sách của Ngân Hàng Trung
Ương, mức dự trữ ngoại tệ vẫn không thay đổi vì Quỹ Phát triển Hậu chiến sẽ nằm
ở chương mục dự trữ ngọai tệ trong sổ sách ngân hàng.
Khi tôi đang ở
Washington thì lời đồn đại và tin tức báo chí lan truyền ở Sài Gòn nhắc đến tên
tôi như một người có thể được chọn làm Thủ tướng cầm đầu một Nội các gồm các chuyên gia.
Tôi hiểu rằng một vài quan chức cao cấp của Mỹ ở trong tòa đại sứ, vốn quan tâm
đến việc điều hành kinh tế nhiều hơn là chính trị, đã đề nghị tên tôi với Đại sứ
Bunker và Đại sứ Bunker đã gợi ý với hai ông Kỳ và Thiệu mà không hỏi ý kiến
tôi. Về phía Việt Nam, nhiều chính trị gia đã ngán tới tận cổ cách điều hành nhà
nước kiểu quân đội, muốn có một Nội các gồm các chuyên viên nếu như đám Tướng
lãnh vẫn không chấp nhận một Nội các dân sự. Tổng thống Thiệu đã từng biết khả
năng xử lí kinh tế của tôi, không phản đối ý kiến này, nhất là từ khi ông ta
chấp nhận nhường cho Phó Tổng thống Kỳ lựa chọn Nội các đầu tiên. Kỳ cũng ủng hộ
đề nghị của Đại sứ Bunker nhưng ông ta bị đám bạn bè bà con tác động; những
người này rất có ác cảm với tôi bởi vì tôi đã dẹp vụ nhập cảng lậu thuế xe
Fatima và bởi vì những hành động quyết liệt của tôi chống lại việc buôn bán ma
tuý mà có lẽ một vài người trong họ dính tới. Bạn của Kỳ, Bùi Diểm, mặc dù đã bị
đẩy qua Washington làm Đại sứ vì không được lòng quần chúng, vẫn còn mơ mộng
được người bạn hẩu của mình đưa lên làm Thủ tướng: anh ta nhìn thấy ở tôi
một đối thủ tiềm tàng rất đáng ngại và sẳn sàng làm những gì để phá hoại sự tiến
triển của tôi, nếu có.
Còn về phía Mỹ, những
người nhìn thấy ở tôi một con người hoạt động và một chuyên viên đầy năng lực
thì ủng hộ mạnh mẽ ý kiến này. Giới quân sự Mỹ vì đã từng làm việc với tôi về
các vấn đề kinh tế tài chánh (như đồng tiền MPC cho lính Mỹ, các vấn đề kinh tế
địa phương trong các vùng chiến thuật như mỏ than Nông Sơn chẳng hạn) đều ủng hộ
tôi. Nhưng những viên chức Mỹ có liên quan tới chính trị Việt Nam hoặc có giao
hảo với Bùi Diễm như Phil Habib thì chống lại. Nhưng vì không thích thú gì chính
trị nên tôi nói với hai ông Thiệu, Kỳ và Đại sứ Bunker rằng tôi hoàn toàn không
quan tâm tới chuyện này và tôi chỉ thích trở về làm việc ở World Bank sau cuộc
bầu cử.
Trong thời gian giữ chức
vụ Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương, tôi đã có nhiều đồng minh quan trọng trong
chính quyền Việt Nam bởi vì họ đánh giá cao năng lực chuyên môn cũng như sự
trung thực của tôi, sự làm việc tận tụy vì quyền lợi chung, một điều mà họ hiếm
thấy ở những người phục vụ công ích lúc đó, ngay giữa lòng một cuộc chiến tranh
với biết bao nhiêu là đau khổ điêu tàn, nhưng đồng thời cũng với biết bao nhiêu
cơ hội làm giàu hợp pháp và bất hợp pháp. Nhưng tôi cũng có một số kẻ thù đố kỵ
vì tính thẳng thắn không chịu thỏa hiệp, sự tuân thủ pháp luật một cách cứng rắn
của tôi… Giữa đám người này có cả bạn bè và bà con của tôi vì khi thực hiện theo
đúng pháp luật, tôi coi bạn bè, kẻ thù, người quen, kẻ lạ như nhau; nhiều người
bà con ghét tôi vì tôi không cho họ việc làm nếu họ không đủ năng lực.
Sau khi ông Thiệu được
bầu làm Tổng thống và ông Kỳ làm Phó Tổng thống, một buổi lễ long trọng được tổ
chức. Tổng thống Lyndon Johnson cử Phó Tổng thống Hubert Humphrey sang dự với
tư cách đại diện chính thức của chính phủ Mỹ.
Khi ông ta tới phi
trường Tân Sơn Nhất với chiếc Air Force Two, toàn thể Nội các được điều động ra
đón tiếp. Tôi nghĩ điều này hơi lố bịch nhưng Kỳ không chịu nghe. Tất cả các
Tổng trưởng và các Tướng lãnh đứng
thành hàng từ cửa phòng khách VIP trải thảm đỏ. Hubert Humphrey, người tôi đã có
hai lần tiếp xúc ngắn ngủi ở toà Bạch Ốc, đi vào trong phòng tiếp tân giành cho
VIP, sau lưng là Đại sứ Bunker, tướng Westmoreland và các viên chức cao cấp của
tòa Đại sứ. Ông lần lượt bắt tay từng người, nhưng ngang tôi thì ông dừng lại,
gọi tôi là Thống đốc Hanh và nói một vài lời chúc tụng. Có lẽ ai đó đã nói nhỏ
tên tôi với ông, Đại sứ Bunker hay một người phụ tá nào đó. Đây rõ ràng là một
màn trình diễn và quảng cáo có tính chất ngoại giao, nhưng mọi người đều ngạc
nhiên là tôi quen biết Humphrey và người ta có thể thấy một thoáng ganh tị trong
ánh mắt của nhiều thành viên Nội các và Tướng lãnh – họ chỉ nhận được một cái
bắt tay. Sau này tôi được biết là thái độ thân thiết của Phó Tổng thống Humphrey
đã làm tăng thêm những lời đồn đãi trong thành phố là tôi sẽ trở thành Thủ tướng.
Tháng 11, hai ông Thiệu
và Kỳ yêu cầu tôi đại diện Việt Nam tham dự lễ đăng quang của Tổng thống Đại Hàn
Phác Chánh Hy. Sau này khi tôi đại diện Trung Hoa, Đại Hàn và Việt Nam tại Hội
đồng Quản trị Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, tôi lại thường gặp ông ta trong những chuyến
viếng thăm Seoul, và tôi rất kính phục ông. Ông ta tỏ ra là một Tổng thống rất
giỏi, rất biết việc, mỗi khi tôi gặp ông để thảo luận công việc giữa Hàn Quốc và
IMF. Những cuộc gặp này cho thấy ông ta đã lo chuẩn bị trước rất chu đáo mọi
chuyện, mặc dù tôi chắc chắn là ông ta có rất nhiều việc quan trọng phải làm.
Ông ta rất thông minh và rất thông hiểu vấn đề mỗi khi thảo luận và đặt những
câu hỏi rất sâu sắc. Ông ta chứng tỏ là một nhà lãnh đạo rất có năng lực và thật
là một điều đáng buồn khi ông ta bị ám sát sớm như vậy về sau. Trong khi tôi
thăm viếng Seoul thì những lời đồn đại ở quê nhà lại nổi lên một lần nữa về việc
tôi sắp sửa được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Tên tôi xuất hiện trên nhiều tờ báo như
là người có nhiều khả năng được chỉ định làm Thủ tướng nhất trong đợt cải tổ nội các sắp tới. Đó
là "nụ hôn của Thần Chết" – nói như lời Phạm Kim Ngọc, một người bạn lâu năm, và
sau này được T.T.Thiệu đề cử làm Tổng trưởng Kinh tế; bởi vì cái thông tin được
tính toán rất kỹ này đã gợi lên rất nhiều sự ghen tuông và đố kỵ không những từ
các ứng cử viên bị thua cuộc mà từ các Tướng lãnh và viên chức cao cấp nhận ra
rằng họ sẽ khó mà nhét cho đầy túi họ vì sự cứng rắn của tôi.
Khi tôi về lại Việt Nam,
tôi nói với Kỳ tôi không thấy thích thú gì trở thành Thủ tướng, mà ngược lại ông
ta phải để cho tôi rời khỏi chính phủ như ông ta đã hứa; để cho tôi tập trung
vào việc điều hành hai ngân hàng và dành thời gian cho những vấn đề tài chánh
quan trọng hơn. Tôi cũng nói với Đại sứ Bunker tôi không thích việc một vài giới
chức Mỹ tự coi mình có quyền thảy những quả bóng thăm dò mà không hỏi ý tôi.
Sau khi hai ông Thiệu và
Kỳ nhậm chức, Tổng thống Johnson đã kêu gọi mở những cuộc họp thượng đỉnh giữa
Mỹ và các đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam như Đại Hàn, Trung Hoa (lúc
ấy là Đài Loan), Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan. Tôi được hai ông Thiệu và Kỳ yêu
cầu tham dự tất cả các buổi họp này ở Manila và ở Guam. Tôi chẳng có việc gì để
làm cho lắm bởi vì những cuộc họp này chủ yếu bàn về các vấn đề quân sự chính
trị và rất ít bàn tới việc phát triển kinh tế.
Trong những chuyến bay
đường dài ra nước ngoài hay quay về nước, những viên chức cao cấp cũng như các
Tướng lãnh Việt Nam và Mỹ ngồi chơi bài xì phé trong khi các phu nhân của họ thì
lo bàn chuyện phiếm hay khoe nhau nữ trang, xe hơi và nhà cửa. Lần đầu tiên tôi
nhận thức được các vị Tướng lãnh của chúng ta và các bà vợ của họ thuộc về loại
gì. Những cảnh tượng như thế này chẳng đẹp mắt gì và cũng chẳng thú vị gì; vì
vậy tôi che mắt lại giả bộ ngủ. Rồi thỉnh thoảng tôi nghe một vị phu nhân nào đó
nói lớn, có lẽ muốn cho tôi nghe: “cái ông Hanh này lúc nào cũng ngủ; cứ mỗi lần
leo lên máy bay là ổng ngủ.” Đúng vậy, nếu có thể được, tôi muốn ngủ hơn là nhìn
thấy cảnh tượng trước mắt vừa chẳng hấp dẫn vừa không đẹp đẽ tí nào, cho cả đôi
mắt và đôi tai tôi.
Hình 9.
Hội nghị các Tổng trưởng
Kinh tế các nước Á châu và
Hình 10.
Phái đoàn các Bộ trưởng
Kinh tế các nước Á châu và
Hình 11.
Hội nghị các Tổng trưởng
Kinh tế các nước Á châu và
Trong nhiều tháng trời
tôi rất thất vọng vì sự tranh chấp giữa hai ông Thiệu và Kỳ, những cuộc đấu đá
nội bộ giữa các nhóm chính trị và quân sự, sự thiếu vắng động cơ và lòng ham
muốn chiến đấu trong các cấp lãnh đạo quân sự, sự tham nhũng trong chính phủ và
trong quân đội, và sự nản lòng của toàn thể dân chúng. Ngày nào tôi cũng nghe có
người nói về những vụ xì-căng-đan dính tới các Tướng lãnh và mấy bà vợ của họ
trong đám thân cận T.T.Thiệu về việc mua bán giấy phép cho sinh viên đi du học
nước ngoài. Người ta cũng kể tôi nghe việc mua bán các chức vụ Quận trưởng, Cảnh
sát trưởng, những chức vụ sẽ đem lại một số tiền hối lộ tuỳ theo mức anh bóp cổ
được bao nhiêu từ đám thương gia Trung Hoa hoặc từ dân chúng. Người ta kể tôi
nghe chuyện các viên Đại tá như vầy như vầy, phụ trách tiếp liệu đang bán dây
kẽm gai và vật liệu xây dựng ngoài chợ trời, hay bán gạo và thuốc men cho Việt
Cộng qua trung gian của đám thương gia Tàu.
Trong nhiều năm quan sát
tình hình tại nước Mỹ, tôi đã chứng kiến sự gia tăng mau lẹ của phong trào chống
chiến tranh giờ đây đã chiếm được sự ủng hộ của một phần lớn dân chúng Mỹ. Quốc
hội Mỹ lần lần bị ảnh hưởng bởi phong trào chống chiến tranh Việt Nam; các
Thượng nghị sĩ và Dân biểu quốc hội bắt đầu lảng xa dần chính sách của chính
quyền Tổng Thống Johnson. Viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam bị mất dần sự
ủng hộ trong quốc hội Mỹ, và chính phủ Mỹ mỗi ngày mỗi thấy khó khăn để đòi hỏi
quốc hội thông qua các chương trình viện trợ. Khi mà chiều hướng mới này cứ tăng
dần trong những đợt tôi viếng thăm nước Mỹ, tôi nói với những người bạn tôi ở
quê nhà rằng nếu sự việc không được cải thiện, thì quyết tâm của người Mỹ giúp
Việt Nam sẽ yếu đi rất nhanh và chúng ta sẽ phải đối diện với một sự cắt giảm
mạnh mẽ số viện trợ quân sự và kinh tế. Điều này sẽ gây nên một trở ngại nghiêm
trọng cho việc chiến đấu chống lại một kẻ thù kiên cường và đầy quyết tâm. Không
có thể làm gì nhiều để đảo ngược chiều hướng này nếu như không có một sự thay
đổi toàn diện về phía chúng ta; nhưng hầu hết các người bạn tôi cũng như quần
chúng bình thường đều ngây thơ tin rằng người Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi Việt
Nam; vì vậy họ cho rằng tôi là một người bi quan. Rất ít người bạn và không có
nhà lãnh đạo chính trị nào coi lời cảnh cáo của tôi là nghiêm túc. Đa số những
người còn lại thì tin rằng chẳng qua đó là một lý lẽ để tôi rút lui khỏi chính
phủ và trở về làm việc với World Bank.
Cuộc tấn công tết Mậu
Thân đầu năm 1968 của Bắc Việt đã giáng một đòn điếng người vào sự lạc quan ngây
thơ ấy. Nó đã làm suy yếu thêm quyết tâm của người Mỹ khi phải chiến đấu trong
một cuộc chiến tranh đầy mâu thuẫn cách xa bờ biển họ tới hai mươi ngàn dặm.
Nhân dịp Tết âm lịch, tôi lái một chiếc thuyền nhỏ từ Sài Gòn đến bãi biển Vũng
Tàu cách đó khoảng 100 cây số trên bờ Thái Bình Dương để nghỉ ngơi. Tôi đem theo
một người lính cận vệ và xuôi dòng sông Sài Gòn trong một buổi chiều mưa bão và
Việt Cộng phục kích dọc khắp con đường. Nghe tin chuyến đi của tôi, vị Đô đốc Mỹ
phụ trách vùng biển phía Nam đã gởi cho tôi hai viên Đại uý thuỷ quân lục chiến
trẻ tuổi theo hộ tống. Đó là một chuyến đi rất mệt, nhưng chúng tôi đều sung
sướng thưởng thức cuộc hành trình ngược gió từ cửa sông Sài Gòn tới bãi biển
Vũng Tàu. Khi chúng tôi tới nơi thì trời đã chiều tối, chúng tôi thả neo ở trước
ngôi nhà của một người bạn mà tôi đã mượn rồi cả đám chúng tôi đi ra ngoài kiếm
một bữa ăn tối hải sản rất ngon. Giữa đêm khuya chúng tôi bị đánh thức bởi những
tiếng nổ dữ dội của súng đại bác, súng tiểu liên và súng cối không xa
vi-la của chúng tôi bao nhiêu. Qua ra-đi-ô, chúng tôi được biết quân đội Bắc
Việt và Việt Cộng đã phát động một cuộc tấn công lớn nhất từ trước tới nay trên
toàn lãnh thổ miền Nam. Tất cả chúng tôi đều rất sợ, kể cả hai chàng Đại úy thuỷ
quân lục chiến Mỹ, họ không liên lạc được với Bộ chỉ huy của họ.
Rồi chúng tôi được biết
là có hai thành viên khác của nội các cũng đang đi nghỉ Tết. Viên trưởng ban
tham mưu của T.T. Thiệu gọi điện cho tôi thông báo là Tổng thống đã gởi một
chiếc trực thăng để đưa chúng tôi trở lại Sài Gòn. Chuyến bay trở lại Sài Gòn
thật là đáng sợ. Từ trên cao chúng tôi có thể nhìn thấy cuộc chiến đấu ác liệt ở
dưới đất và bất cứ lúc nào chiếc trực thăng của chúng tôi cũng có thể lãnh một
tràng tiểu liên hay một phát súng ba-zô-ka. Chúng tôi hạ cánh ngay trên nóc dinh
Độc Lập và T.T.Thiệu sai xe Jeep nhà binh đưa chúng tôi về nhà. Chuyến đi về chỗ
tôi ở chỉ cách đó 6 khu nhà cũng cực kỳ nguy hiểm bởi vì các trận đánh cũng đang
rộ ra trên các khu đường chúng tôi đi. Chúng tôi thấy ở không xa trên đại lộ
Thống Nhất, tòa Đại sứ Mỹ đang bị du kích quân bao vây và chúng tôi nghe tiếng
nổ giòn giã của tiểu liên và đại bác.
Cuộc tấn công Tết và
phản ứng của người Mỹ đã xác nhận niềm tin của tôi và tôi quyết định từ chức để
trở về công việc ở World Bank. Tôi móc nối với Bill Diamond, người cấp trên của
tôi trước đây và ông cho biết ông rất vui mừng có tôi trở lại IFC, chỗ của tôi
đang trống. Vào tháng 3/1968 sau khi cuộc chiến đã tạm lắng, tôi gọi điện cho
T.T. Thiệu và thông báo với ông ta ý muốn từ chức khỏi Ngân Hàng Trung Ương Việt
Nam. T.T.Thiệu hỏi ý kiến của Phó Tổng thống Kỳ và cả hai đều từ chối. Khi tôi
khẩn khoản nhiều lần thì ông ta chấp nhận trên nguyên tắc nhưng cứ lề mề cù cưa
mấy tháng, nói là ông ta không tìm ra được người thay tôi. Tôi cố tìm cách đề cử
người phó của tôi là Nguyễn Văn Dõng nhưng tên của Dõng không được chấp nhận và
tới tháng 8/1968 khi cuối cùng tôi nhất quyết từ chức, thì T.T.Thiệu chỉ chịu bổ
nhiệm Dõng làm quyền Thống đốc. Vài tháng sau ông ta bổ nhiệm Lê Quang Uyển, một
người cháu của ông ta làm Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương. Uyển vừa mới tốt
nghiệp ở trường học cũ của tôi một thời gian ngắn trước đó và anh ta chỉ mới
có thời gian ngắn giúp việc cho Ngân Hàng Đông Dương, một ngân hàng thương mại ở
Paris. Chủ nghĩa bà con bầu bạn và quan hệ gia đình luôn luôn đóng một vai trò
quan trọng ngay giữa lòng những tình thế khó khăn và Dõng vẫn cứ chỉ là phó.
VI. TẬN TỤY TRONG CÔNG VIỆC:
Ngồi ghế Thống đốc và làm việc
tận tụy trong thời chiến với tất cả những sự tàn phá và những khó khăn kinh tế
tài chánh, đã là khó vô cùng rồi; còn khó hơn nữa và có thể đến mức không chịu
đựng nỗi, khi mà ngoài Ngân Hàng Trung Ương, còn phải điều hành toàn bộ nền kinh
tế tài chánh của một quốc gia bị lọt vào giữa vòng tham nhũng, đầu cơ, chợ đen,
cùng những thiếu thốn vì biến động chính trị và bất an xã hội. Trong vòng một
năm từ 1967 tới 1968, ngoài Ngân Hàng Trung Ương, tôi còn phải ôm trong
tay bộ Tài chánh, bộ Kinh tế, bộ Thương mại và bộ Kỹ nghệ, bốn bộ này tạo thành
một Tổng uỷ Kinh tế Tài chánh, thông thường nằm dưới dự giám sát của một phó Thủ
tướng và bốn Tổng trưởng. Tôi đã từ chối chức phó Thủ tướng
mà Kỳ đề nghị, bởi vì tôi luôn luôn ghét chính trị và chỉ muốn phục vụ đất nước
như một chuyên viên. Đây quả là một lượng công việc khổng lồ và một lãnh vực
hoạt động hết sức rộng lớn. Tôi làm việc tận lực và đã tàn phá sức khỏe của mình
với hàng giờ liền ngồi miệt mài làm việc tại văn phòng và cả ở nhà, theo sau đó
là những hoạt động xã hội kiệt sức mà các nhiệm vụ khác nhau của tôi đòi hỏi, dù
tôi vẫn tập luyện thể dục hàng ngày. Thế nhưng tôi cũng đã được giúp sức rất
nhiều bởi những người phụ tá đầy năng lực và hết sức tận tụy, như anh Đoàn Thêm,
cô Vũ Gia Kiều Dung, anh Trần Cự Uông và ba người thư ký hết sức tín cẩn, cô
Cúc, chị Bảy và anh Long, những người đã muốn làm việc với tôi ở Ngân Hàng Trung
Ương hơn là nhận những chức vụ cao hơn ở các bộ khác dù vẫn do tôi đứng đầu. Tôi
cũng còn được rất nhiều sự giúp đỡ của các nhân viên cấp thấp hơn tại Ngân Hàng
Trung Ương, những người mà tôi hết sức thương yêu, và họ cũng hết lòng tận tụy
với tôi. Tôi tự bắt buộc mình mỗi tháng phải mời cơm trưa các nhóm nhân viên của
tôi từ những cấp thấp nhất như là kiểm ngân, cho tới cấp cao nhất, tán gẫu với
họ, thăm hỏi công việc và đời sống gia đình họ. Trong một đất nước mà sự phân
biệt giai cấp vẫn còn là chuyện tự nhiên thì đây là một không khí mới mẻ tạo nên
sự hợp tác chân thành giữa các giai cấp. Tôi cũng hết sức quan tâm tới vấn đề
phúc lợi của nhân viên ở cả hai ngân hàng Ngân Hàng Quốc Gia và Việt Nam Thương
Tín: tôi đã thiết lập một kế hoạch hưu bổng phóng khoáng nhất nước, cải thiện hệ
thống bảo hiểm y tế xã hội, xây dựng những khu nhà ở thoáng rộng để cho nhân
viên ở, và bán chịu dài hạn cho các nhân viên ngân hàng mọi cấp. Việc này thường
bị các cơ quan nhà nước khác ganh tị và chỉ trích kịch liệt, nhưng được các nhân
viên ngân hàng hết sức tán thưởng; rồi không bao lâu các cơ quan nhà nước cũng
bắt chước, nhưng việc làm của họ thường bị giới hạn bởi thiếu kinh phí hay thiếu
quyết tâm của các cấp lãnh đạo của họ. Tôi rất sung sướng khi nhận thấy vẻ hạnh
phúc và vừa lòng trên gương mặt của những người phụ tá và nhân viên của tôi.
Sống trong sự thiếu vắng những người thân trong gia đình hiện vẫn đang ở nước
ngoài, tôi coi họ như là những người thân trong gia đình lớn và chia sẻ tình cảm
cũng như thời gian rảnh rỗi của tôi với họ. Ngày nay, sau 40 năm, có nhiều người
vẫn nhắc nhở đến những gì tôi đã làm cho họ. Và có những người vào ngân hàng sau
khi tôi ra đi, tôi chưa hề quen biết, cũng tìm đến tôi, mời tôi đi ăn cơm...
Thật là cảm động! Đây là một ngưồn an ủi rất lớn cho tôi, sau những năm khó khăn
thuở trước. Họ đã có một cuộc sống đẹp đẽ hơn-- và về phần tôi, là những chỉ
trích dữ dội của chánh phủ.
Tôi cũng yêu mến công việc của
mình và rất chú tâm để có thể hoàn thành nhiệm vụ (tất cả sáu chức năng); nhưng
trách nhiệm tôi phải gánh vác quá lớn và tôi thường phải lấy hết can đảm mới làm
nổi. Động cơ duy nhất là phục vụ đất nước và hạnh phúc của người dân. Về sau này
có nhiều người hiểu tôi, đã chê tôi ngu ngốc không biết lợi dụng vị thế của mình
để làm giàu hay ít nhất là dành dụm một cái gì để phòng những ngày mưa gió. Tôi
phải nói rất thành thật rằng trong suốt thời gian đó tiền là mối quan tâm ít
nhất của tôi. Tôi được trả một số ngoại tệ tối thiểu để lo cho gia đình ở nước
ngoài, và biết rằng cái ngày mà tôi quyết định từ chức, tôi có thể trở về công
việc lương bổng hậu hĩnh ở World Bank. Vì vậy mà lòng tôi yên ổn và tôi không
cần phải bận tâm về việc riêng khi thi hành nhiệm vụ. Ngoài ra, tôi còn phải thú
nhận rằng dù tôi có muốn làm giàu cho bản thân, thì tôi cũng không biết phải làm
như thế nào để gợi ý hay nhận tiền hối lộ. Vì vậy tôi cảm thấy rất là tự do để
thi hành những quyết định cứng rắn và đôi khi gây mích lòng nếu tôi thấy điều đó
làm lợi cho đất nước hay dân chúng. Điều này giải thích cho những khía cạnh hoạt
động của tôi suốt thời gian ấy.
Trong khi chúng tôi đang theo
đuổi chiến tranh thì nền kinh tế phải chịu một áp lực rất lớn và tình trạng lạm
phát trở nên mỗi ngày một tồi tệ hơn. Lượng tiền cung ứng tăng nhanh bởi những
chi phí quân sự phục vụ chiến tranh không có giới hạn, trong khi lượng cung cấp
thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu đi lết bết ở phía sau vì mùa màng bị cứ phá
hoại và giao thông vận tải cứ bị gián đoạn. Giá cả có khuynh hướng tăng rất
nhanh mặc dù chính quyền đã cố hết sức để ổn định nó. Điều này đến phiên nó lại
tạo nên một sự khan hiếm giả tạo làm cho nạn chợ đen phát triển mạnh. Hối suất
hoán đổi đồng tiền quốc gia, đồng bạc Việt Nam, cứ lần lượt bị trụt giảm trên
thị trường chợ đen, và dân chúng có xu hướng coi tỉ giá này là giá trị thật của
đồng bạc.
Sau khi tôi trở về Việt Nam
tháng 11/1965, tôi thấy cần phải cải cách tiền tệ, nhưng phá giá đồng bạc là một
vấn đề hết sức nhạy cảm đối với quần chúng; muốn tiến hành một cuộc cải cách
tiền tệ đòi hỏi một lòng can đảm rất lớn. Dính liền với các vấn đề tiền tệ là
các hậu quả xã hội và chính trị nên các chính phủ bao giờ cũng rất miễn cưỡng
khi phải ôm ấp một ý định như vậy. Nhưng càng cố tránh vấn đề chừng nào thì nó
càng thêm nghiêm trọng chừng nấy, và các hành động cứu chữa về sau càng khó khăn
hơn. Tôi đã thấy rất rõ ràng rằng nếu như không cải cách kịp thời, nền kinh tế
sẽ bị tổn thương nghiêm trọng và đời sống khó khăn cơ cực của người dân sẽ khó
lòng chịu đựng nổi.
Tháng 6/1966, tôi chuẩn bị phát
động một cuộc cải cách tiền tệ. Bộ trưởng Kinh tế, Âu Trường Thanh, cũng biết
rằng một cuộc cải cách là không thể tránh được. Vấn đề này thuộc về trách nhiệm
của anh ta và phải được đặt thù lù trên gối anh ta, nhưng vì là một chính trị
gia khôn khéo, đang nuôi tham vọng làm Tổng thống, anh ta không muốn bị dính líu
vào nó, hay ít nhất cũng không công khai dính vào. Tướng Kỳ can đảm hơn; tôi đã
giải thích với ông về sự phức tạp của chiến dịch cần tiến hành với tất cả những
hệ luận kinh tế tài chánh của nó, sự cần thiết phải cải cách, những hậu quả
chính trị bất lợi ngắn hạn, và những lợi ích dài hạn cho nền kinh tế và đặc biệt
cho phúc lợi tương lai của dân chúng. Là một nhà lãnh đạo thông minh, ông ta
hiểu ngay vấn đề, đồng ý với tôi, nói ông ta hoàn toàn ủng hộ tôi và tôi cứ việc
tiến hành, Âu Trường Thanh có đồng ý hay không cũng được. Nếu Thanh không ký sắc
lệnh thì ông ta sẽ ký. Thế là tôi bắt đầu các bước chuẩn bị, nhưng một cách lặng lẽ chỉ có những người phụ tá rất thân cận với tôi mới biết (ngay cả Thanh tôi cũng không cho biết, mãi cho tới phút cuối cùng ). Tôi nói chuyện với Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, tranh thủ được sự đồng tình và hỗ trợ của họ. Tôi tham khảo cơ quan USAID để xin thêm viện trợ cho dự án và cấp thêm chương trình viện trợ PL 480 để có một khối lượng lớn cung cấp cho thị trường các mặt hàng chủ yếu như gạo, bột mì, đường, sữa. Tôi nói chuyện với toà Bạch Ốc để có một sự chấp thuận đặc biệt, cho phép bán vàng cho dân chúng vào thời gian hạ giá đồng bạc để kềm bớt giá vàng, tạo một điều kiện tâm lý thích hợp và ổn định tỷ giá hối đoái. Tôi yêu cầu Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế bật đèn xanh cho việc mua bán vàng, đó là chế độ ưu đãi đặc biệt cho một nước hội viên của họ vào lúc ấy, hỗ trợ hoàn toàn về phương diện kỹ thuật cho việc chuẩn bị cải cách kinh tế. Bản thân tôi và bốn người phụ tá thân cận cùng ba thư ký rất tin cẩn là Đoàn Thêm, Kiều Dung, Trần Cự Uông, cô Cúc, chị Bảy và anh Long làm việc đêm ngày cho chương trình cải cách. Tôi muốn nhân đây bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến tất cả bọn họ – họ đã cùng tôi duy trì sự bí mật tuyệt đối của kế hoạch trong hơn 2 tuần lễ. Gia đình của họ, chồng hoặc vợ của họ nhất định rất ngạc nhiên và bối rối trước những giờ giấc làm việc lạ kỳ và những gương mặt mệt mỏi của họ; họ đã giữ kín sự bí mật này, sự bí mật mà nếu họ tiết lộ ra có thể kiếm được rất nhiều tiền; nếu bất cứ ai trong họ quyết định phản bội tôi, người đó có thể làm giàu bằng cách đưa tin cho các thương gia Trung Hoa, cho đám chợ đen hay cho những người buôn tiền.
Trần Cự Uông là người phụ tá
đặc biệt của tôi, mặc dù chỉ học ở trong nước anh lại viết tiếng Anh rất giỏi,
còn giỏi hơn rất nhiều một vài tay có bằng Ph.D hay bằng MBA từ các trường đại
học Mỹ. Anh thường hay viết các bài diễn văn và bản ghi nhớ cho tôi; tôi vẫn đem
anh theo trong tất cả mọi cuộc họp về kinh tế hay tài chánh ở nước ngoài. Một
ngày kia, viên cố vấn chính trị của tòa Đại sứ Mỹ tới gặp tôi và nói Uông là một
nhân viên của Bắc Việt và họ muốn tôi sa thải anh ta để CIA có thể điều tra sâu
hơn. Tôi sắp sửa bổ nhiệm Uông làm Thứ trưởng Kinh tế: vì vậy việc này trở nên
một vấn đề chính trị khá tế nhị khi Uông sắp sửa tham dự phiên họp nội các sắp
tới. Tôi nói với viên cố vấn Mỹ rằng tôi không tin điều đó, Uông là một người
vui sống, một người thích cuộc sống tiện nghi và xa hoa. Như vậy anh ta không
thể nào chấp nhận các tư tưởng thiên tả, và tôi biết anh ta có một lý tưởng quốc
gia và một lòng yêu nước mạnh mẽ. Viên cố vấn Mỹ bảo tôi là CIA đã theo dõi anh
ta khi anh ta ra nước ngoài trong những chuyến công tác với tôi và họ đã thấy
anh ta nói chuyện với các nhân viên Bắc Việt. Tôi nói với tay cố vấn những người
ấy có thể là bà con của anh ta từ miền Bắc tình cờ gặp anh ta trong khi họ cũng
đang đi công tác ở nước ngoài; và tôi không hề tin anh ta phản bội tôi với những
người bà con đó; trừ phi CIA có bằng chứng rành rành là những cuộc tiếp xúc đó
không mang tính chất gia đình, còn không thì tôi sẽ không sa thải Uông, và nếu
anh ta phải rời chức vụ thì tôi cũng sẽ đi. Sau đó tôi nói chuyện thẳng với
Uông, anh ta thề trên đầu đám con của anh là anh ta không hề tiếp xúc với nhân
viên Bắc Việt, đó có lẽ là một vài người bà con ở Hà Nội mà anh ta tình cờ gặp ở
Hồng Kông. Câu chuyện này kéo dài một vài tháng và phía Mỹ cũng không thuyết
phục được tôi hay cho tôi một bằng chứng nào rõ rệt. Uông hơi mất kiên nhẫn, anh
nói với tôi rằng nếu CIA không làm phiền anh nữa, anh sẵn lòng bỏ chức vị sắp
tới, anh sẽ từ chức và qua làm việc ở Cophavina, một công ty dược rất lớn liên
doanh với một người bạn của ông Thiệu. Tôi nói lại với viên cố vấn chính trị Mỹ
và chúng tôi đồng ý bỏ qua vụ này, để Uông gia nhập khu vực kinh tế tư, ở đó anh
ta kiếm tiền còn nhiều hơn trước rất nhiều.
Trở lại sự chuẩn bị cho việc
thay đổi tỷ giá hối đoái vào ngày N tháng 6/1966, tôi trình toàn bộ kế hoạch lên
ông Kỳ và Thanh để cùng ký vào phút cuối cùng, và cuộc cải cách tiền tệ được
thông báo vào sáng ngày hôm sau, một ngày chủ nhật, khi các ngân hàng và các tổ
chức kinh tài đóng cửa. Dân chúng cũng như giới tài chánh và kinh doanh bị bất
ngờ và những hậu quả tiêu cực ngắn hạn được giới hạn ở mức tối thiểu. Đồng thời
tôi cũng cho phép các ngân hàng thương mại và các cửa hiệu vàng bạc mua vàng từ
Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và bán vàng cho dân chúng: đây quả là một sự ngạc
nhiên rất lớn cho tất cả mọi người bởi vì vàng là mặt hàng được đánh giá cao
nhất và được mọi người chuộng nhất vào lúc đó; người Việt Nam cũng như bất cứ
người dân phương Đông nào, luôn luôn muốn giữ vàng dưới lớp nệm, chiếu của họ
hoặc chôn dấu dưới đất.
Các tin tức về việc bán vàng
cho dân chúng đã có một ảnh hưởng khổng lồ về mặt tâm lý đối với dân chúng và đã
góp phần làm giảm đáng kể những hiệu quả không tốt của việc hạ giá đồng tiền đối
với dư luận quần chúng. Đây là một chiến dịch tài chánh thành công hết sức lớn.
Tuy nhiên việc cải cách tiền tệ này đã gây
ra một làn sóng ồn ào trong dư luận và các tờ báo đối lập đã in những tít lớn và
giật gân để chỉ trích chính phủ kịch liệt. Kỳ và Thanh nấp đằng sau tư thế chính
trị của họ và để tôi gánh tất cả mọi lời chỉ trích, thế nhưng Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế lại khen ngợi không tiếc lời sự thành công của chiến dịch và lấy nó dẫn chứng
như là một trong những chiến dịch tài chánh thành công nhất xưa nay. Chính phủ
Mỹ cũng ca ngợi sự thành công của chương trình cải cách và khen ngợi sự khôn
khéo và can đảm của tôi. Tôi lại có thêm tiếng tăm trong cộng đồng tài chánh
quốc tế.
Nhưng báo chí đối lập lại tặng cho tôi danh
hiệu “Vua phá giá” và tôi phải sống với danh hiệu đó một thời gian dài. Lần lần
người ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc phá giá, những hậu quả ích lợi trên đời
sống họ về lâu dài; từ từ họ nhận ra được giá trị của việc tôi làm, rồi sau
nhiều năm trôi qua, người ta mới nhận ra được rằng trong khi đang lâm vào một
cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam vẫn thành công trong việc giữ cho tỷ
lệ lạm phát ở mức 36% mỗi năm, một tỷ lệ rất đáng nể trong một hoàn cảnh cực kỳ
khó khăn, khi mà những nước ở Châu Mỹ La Tinh và ở Nam Á đã kinh qua những tỷ lệ
lạm phát cao tới từ 600% tới 1200% trong những năm 50 và 60 dù họ đang sống
trong hòa bình. Đợt cải cách được tôi phát động năm 66 sau này được tiếp tục bởi
nhiều lần phá giá khác. Phản ứng với người dân mỗi lúc mỗi dịu đi, nhưng báo chí
vẫn cứ nghi ngờ tôi là người chủ mưu, hoặc nói đúng hơn, tôi là “kẻ xấu” đứng
đằng sau các cuộc cải cách.
Không bao lâu sau đó tôi được biết rằng sau
vụ phá giá đồng bạc, giữa bốn bức tường của một cuộc họp nội các, Thanh tự nhận
mình là người thực hiện cuộc cải cách tiền tệ ấy. Người ta kể lại là Kỳ, người
biết rõ sự thật, đã ném một cái nhìn khinh bỉ về phía Thanh, và nở một nụ cười
miệt thị dưới hàm râu kẽm của ông. Thanh chỉ dám nói vậy trong phòng kín, nhưng không bao giờ dám thốt một lời trước công
chúng về vai trò của anh ta trong vụ phá giá đồng tiền, vì anh ta hiểu rõ rằng
dân chúng biết ai là người đứng sau vụ cải cách tiền tệ và ai là người lẩn tránh
nó.
Gạo là món ăn chủ yếu của dân
Việt Nam. Người Việt Nam có thể không có thứ gì cũng được, thiếu thứ gì cũng
được, trừ gạo. Mặc dù Việt Nam thường xuất khẩu cả 1 triệu tấn gạo trước chiến
tranh (và vì vậy năm 1936, một đồng bạc Đông Dương ăn 3,6 đô-la Mỹ ở Thượng
Hải), nhưng những sự tàn phá và thiệt hại do chiến tranh gây nên đã làm giảm các vụ lúa mùa thê thảm đến nỗi
trong các thập niên 60 và 70 chúng tôi phải nhập 200 tới 300 ngàn tấn gạo mỗi
năm để sống. Từ lúc tướng Kỳ nắm chính quyền đã có hai lần thiếu gạo nghiêm
trọng gây nên xáo trộn lớn trong tình hình xã hội và chính trị. Mọi người đều
biết rằng những thương gia Trung Hoa ở Chợ Lớn kiểm soát hoàn toàn thị trường gạo, không
chỉ ở Việt Nam mà còn các quốc gia Đông Nam Á khác, từ ngày gieo mạ cho đến ngày
gặt lúa, xay xát, kinh doanh và phân phối, qua một hệ thống vay vốn có thể síêt
cổ bất cứ ai muốn thoát khỏi vòng trói buộc của họ. Họ kiểm soát việc kinh doanh
lúa gạo rất chặt; sử dụng những biện pháp rất đáng trách để làm giàu mau chóng
như đầu cơ tích trữ, tạo sự khan hiếm giả tạo và những trò ma mãnh khác trên thị
trường. Có một lúc Kỳ đã kết án tử hình một thương gia Trung Hoa và đưa ông ta
ra bắn ngay trước công chúng để làm gương. Vụ này được coi như một bài học cảnh
cáo, thế nhưng vì lợi nhuận chợ đen quá cao, quá hấp dẫn nên nạn đầu cơ và buôn
gian bán lận vẫn tiếp tục trở lại sau vụ xử bắn. Không bao lâu sau khi tôi bị Kỳ
ép giữ bộ Kinh tế, gạo lại thiếu và giá tăng vọt lên, mặc dù chính phủ vừa kêu
gọi vừa đe doạ. Kỳ gọi tôi vào, yêu cầu tôi nhanh chóng giải quyết vụ khủng
hoảng này vì ông sắp sửa phải đối diện với cử tri; ông sợ rằng cuộc khủng hoảng
kéo dài có thể làm ông thất bại trong cuộc bầu cử tới đây. Tôi hứa sẽ cố hết sức
ổn định thị trường mà không cần dùng tới những biện pháp mạnh. Tôi gọi người phụ
tá của tôi là Phạm Kim Ngọc, một người rất có năng lực, sau này sẽ trở nên một
Bộ trưởng Kinh tế dưới thời Tổng thống Thiệu; chúng tôi vạch một kế hoạch nhằm
đối phó với đám con buôn kinh doanh gạo và nhằm kéo giá gạo hạ xuống. Ngọc và
tôi đã từng đối phó với đám thương gia buôn bán gạo khi tôi còn ở Ngân Hàng Việt
Nam Thương Tín. Chúng tôi biết tất cả bọn họ và các phương pháp của họ. Ngọc làm
một cuộc điều tra chớp nhoáng và báo với tôi hiện chỉ còn khoảng 6.000 tấn gạo
trong các kho của chính phủ ở Sài Gòn - Chợ Lớn, nơi mỗi tháng tiêu thụ hết
25.000 tấn gạo. Tôi gọi Mc Donald, giám đốc USAID và Roy Wherlee, Cố vấn Kinh tế
tòa Đại sứ Mỹ, yêu cầu họ cho một số tàu đang chở gạo trong chương trình PL 480
tới một số nước được viện trợ quay mũi ngay lập tức hướng về Việt Nam, coi như
là một khoản vay của chính phủ. Cùng lúc đó tôi mượn bên quân đội 200 chiếc xe
nhà binh để chở gạo đi bán ở tất cả các ngã đường trong thành phố. Tôi lên đài
truyền hình và đài phát thanh thông báo là chính phủ sẽ bán gạo trực tiếp cho
dân với giá chính thức, và hiện nay 100 ngàn tấn gạo mượn chính phủ Mỹ đang được
điều khẩn cấp tới Sài Gòn và chuyến tàu đầu tiên chở 30 ngàn tấn sẽ cập bến
trong một, hai ngày nữa. Không một lời đe doạ đối với đám chợ đen và đầu cơ,
không một lời về các tòa án đặc biệt để xử những kẻ buôn bán bất hợp pháp.
Hình ảnh hàng trăm chiếc xe vận tải nhà binh chở đầy gạo chạy khắp thành phố, và
cảnh gạo được bán với giá chính thức ở trên mọi ngã tư đường đã trấn an lòng dân
và giá gạo trên thị trường hạ xuống ngay tức khắc. Đám thương gia Trung Hoa đầu
cơ gạo, vừa sợ bị bắt, vừa sợ sẽ lỗ nặng với sự tụt giá gạo, đã tuôn gạo tích
trữ lâu nay ra thị trường bán. Họ không biết rằng chúng tôi chỉ còn đủ gạo tồn
kho cho một tuần lễ. Nếu họ cố thủ thêm một hoặc hai tuần nữa thì chúng tôi đã
thua trận này và kết quả sẽ rất là khủng khiếp! Đó là một ván bài xì-phé
mà Ngọc và tôi đã chơi, và thắng.
Tướng Kỳ luôn miệng tuyên bố
rằng chính quyền của ông là một chính quyền trung thực, một chính quyền của
người nghèo và ông ta sẽ nhổ sạch tận gốc mọi tham nhũng đang bám rễ trong chính
phủ và trong quân đội. Nhớ lại những gì ông ta đã hứa trong chuyến tôi về thăm
để nhận công việc, tôi tin vào sự thành thật của ông ta và tôi quyết định thử
nghiệm quyết tâm của ông. Đầu tiên tôi quyết định đánh vào bọn mua bán ma tuý.
Tôi yêu cầu chính phủ Mỹ cho
tôi tất cả mọi thông tin họ đã thu lượm được về chuyện mua bán ma tuý. Một ngày
kia tôi được cơ quan CID (Cơ quan Điều Tra Hình Sự, một bộ phận của CIA) mật báo
là có một chiếc xe tải chở đầy thuốc phiện đã bị nổ lốp và đang nằm ở một con
đường rất đông trong thành phố, đường Phan Đình Phùng, gần cơ quan mà tôi bắt
đầu sự nghiệp năm 1953 (Ngân Hàng ba nước Đông Dương). Tôi gọi tướng Nguyễn Ngọc
Loan, một người bạn từ thuở nhỏ – sau này nổi tiếng vì bị một phóng viên của báo
Time chộp được cảnh anh ta kê súng bắn vào đầu một chiến binh Việt Cộng, hai tay
bị trói quặt sau lưng, đang đứng trên đường phố trong cuộc tổng công kích Mậu
Thân – yêu cầu anh ta điều tra ngay lập tức và cho bắt ngay tội phạm nếu cần.
Trong lúc đang phấn khởi tôi quên rằng những hành động như vậy có thể làm tôi
mất mạng vì bọn tội phạm ở ngoài và cả trong quân đội có dính líu đến buôn bán
ma túy có thể dễ dàng siết cò súng nhắm vào bất cứ ai cản đường chúng. Tạ ơn
Trời Đất! Thật vậy, chiếc xe tải chở một số lượng lớn thuốc phiện và hai gã tài
xế là hai tên lính cải trang. Có vẻ như là lượng thuốc phiện này thuộc về một vị
tướng nào đó trên Tây Nguyên. Loan sửng sốt vì tôi có những lượng thông tin giá
trị như vậy, và anh ta vẫn cứ làm việc bình thường; thế nhưng tôi nghe nói là
chiếc xe tải này được đưa về bộ tư lệnh cảnh sát (Loan là Chỉ huy trưởng lực
lượng công an, cảnh sát toàn quốc). Tôi phản đối và yêu cầu chiếc xe cùng số
thuốc phiện phải được đưa về tòa án để làm bằng chứng. Tôi sợ rằng thuốc phiện
sẽ bị biến mất nếu như nó không nằm trong tay ngành Tư pháp. Không may thay
những mối nghi ngờ của tôi được chứng tỏ là đúng và tôi nghe nói là khi chiếc xe
được chuyển tới tòa án thì phần lớn ma tuý trên đó đã biến mất và trong
công-ten-nơ hầu như trống rỗng! Tôi không bao giờ biết được điều gì đã xảy ra,
hai ông Kỳ và Loan không ai trả lời tôi cả. Tôi cũng không dám nói chắc là Kỳ và
Loan có đứng về phía luật pháp hay không nếu như có ai đó đủ phương tiện để đẩy
cuộc điều tra cho đến cùng. Trong lòng tôi đã bắt đầu có một vài ngờ vực về
quyết tâm chống tham nhũng của Kỳ, về việc ông ta có dám chịu hay không dám chịu
mất một vài sự hỗ trợ chính trị của bạn bè ông ta trong quân đội vì quyết tâm
đó.
Ngang đây tôi muốn làm
rõ một điều về hai ông Thiệu và Kỳ. Người Việt Nam, cũng giống như nhiều người
phương Đông khác, thích lượm lặt những câu chuyện giật gân và thêu dệt lên thành
sách từ những lời đồn đãi, chẳng hạn như việc Thiệu lấy 7 tấn vàng của Ngân Hàng
Trung Ương Việt Nam và Kỳ dính líu tới buôn bán ma túy. Nhiều người thường tới
hỏi tôi xác nhận chuyện này bởi họ thấy tôi biết rất nhiều chuyện bí mật. Tôi
nói với họ rằng nếu ông ta muốn, Thiệu cũng không có thể lấy vàng ra khỏi Ngân
Hàng Quốc Gia được, trừ phi ông ta tổ chức một vụ đảo chánh để đánh cướp Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam và cuỗm đi số vàng ấy. Đương nhiên là ông ta không thể
làm như vậy. Khi người Mỹ bắt đầu ngừng viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam nhằm
đưa Nam Việt tới bàn hội nghị, chớ không chịu cung cấp thêm súng đạn nữa, T.T.
Thiệu đã nghĩ một cách ngây thơ rằng ông ta có thể gởi số vàng ở Ngân Hàng Quốc
Gia qua châu Âu để bán đi mà mua vũ khí. Thiệu và những người thân cận ông ta,
vì không có kiến thức và kinh nghiệm trong ngành ngân hàng, không hề biết rằng
trong thời chiến các công ty bảo hiểm sẽ không chịu ký các hợp đồng bảo
hiểm chuyên chở các hàng hóa hay kim khí với thực giá quá cao. Không có hợp đồng
bảo hiểm thì không có ai -- dù là Tổng thống, hay Thủ tướng, hay Thống đốc Ngân
hàng trung ương-- có thể gởi vàng đi được . Vì vậy câu chuyện này chỉ là một lời
cáo buộc vô căn cứ của những người không biết vấn đề chuyên môn về dự trữ kim
khí ngân hàng trung ương. Và các vị lãnh đạo, dầu có quyền hạn đến đâu, dầu có
độc tài đến đâu, cũng nên nhớ rằng quyền lực hay sức mạnh chính trị cũng không
thể nào phá huỷ được những nguyên tắc kinh tế hay che đậy được những sự thật tài
chánh. Còn về số vàng mà ông ta có thể mang theo với mình khi chạy trốn qua Đài
Loan như người ta nói thì tôi không biết. Đây nữa, một vị nguyên Phó Thủ tướng,
người đã ở lại Việt Nam để làm việc cho chính quyền mới, hình như đã tuyên bố rằng chính ông ta đã bảo vệ số vàng ở
Ngân Hàng Trung Ương chống lại mọi nỗ lực của Thiệu nhằm đem vàng đi; đó là một
lời khẳng định sai lầm, và những ai tin lời nói ấy dù ở trong hay ngoài chính
quyền cũng đều hết sức ngây thơ. Cũng như chuyện ông Kỳ buôn thuốc phiện. Người
ta nói xấu Kỳ và kết án ông ta dính líu vào việc buôn bán ma túy. Tôi chưa bao
giờ có một chứng cứ hay bằng cớ rõ rệt nào về chuyện này và cơ quan CID cũng
chưa bao giờ nói với tôi một điều gì tương tự như vậy cả, trừ phi chính phủ Mỹ
ém nhẹm tin đó – mà điều này thì rất khó có khả năng xảy ra. Tôi muốn chúng ta
phải thật sự công bằng và tôi không muốn tin những lời đồn đãi nhảm nhí (đại
loại như những câu chuyện do Ernest Lederer dựng lên) vốn nảy nở rất dễ dàng ở
Việt Nam vào thời đó – trừ phi tôi có bằng chứng chắc chắn.
Trở lại câu chuyện chiếc xe chở thuốc phiện và quyết tâm của Kỳ chống tham
nhũng; những mối nghi ngờ của tôi không bao lâu được xác nhận với vụ xì-căng-đan
“xe hơi Fatima”. Hồi đó xe hơi nhập cảng bị đánh thuế lên tới 250% giá mua và
chỉ có những hãng buôn xe hơi có giấy phép do bộ kinh tế cấp mới được nhập xe
hơi. Không một cá nhân nào được phép nhập xe hơi, dù không cần phải hoán đổi
ngoại tệ chính phủ để trả cho hãng cung cấp xe. Tuy nhiên một sắc lệnh sai lầm
và vô ý thức đã được áp dụng năm 1964 bởi một chính phủ trước đó mà Thủ tướng
là một người Thiên Chúa giáo,
đã cho phép bất cứ ai đi hành hương Fatima (một địa điểm ở Bồ Đào Nha)
khi trở về được đem theo một chiếc xe hơi đã qua sử dụng (second hand). Bởi vì
thuế nhập cảng rất cao, nên việc xác nhận một chiếc xe đã qua sử dụng hay chưa,
và số tuổi của xe bao nhiêu, được thực hiện rất là lỏng lẻo nên đã mở đường cho
cả một khối chuyện gian lận. Có rất ít xe hơi phải trả thuế, hoặc là trả một số
thuế chẳng nghĩa lý gì. Số tiền lời có thể thu khi bán xe ra, hết sức lớn, nên
có người dám nhập luôn cả loại xe tay lái bên phải từ Hồng Kông và Thái Lan về
(trong khi ở Việt Nam người ta lái xe ở bên lề tay mặt và bánh tay lái của xe
nằm bên tay trái). Tháng 9/1967 số lượng lớn các cuộc hành hương Fatima và số xe
trở về không đóng thuế đã làm tôi chú ý, và tôi quyết định dẹp cái thủ đoạn lợi
dụng này bằng cách bãi bỏ sắc lệnh nhập cảng đặc biệt và định sẵn số tiền thuế
phải trả cho đám xe còn chờ giải quyết. Tôi tới gặp Kỳ hỏi ông ta có hỗ trợ tôi
trong trường hợp thực thi pháp luật tế nhị này không, một việc có thể làm cho
nhiều chính trị gia phải đau đầu. Kỳ nhìn tôi và nói: “Dĩ nhiên là ủng hộ. Chính
phủ này là chính phủ chống tham nhũng. Anh cứ làm.” Ông ta không nhận thức được
rằng việc “cứ làm” sẽ làm ông ta nhức đầu nhiều lắm. Tôi ra lệnh cho Tổng giám
đốc Quan thuế lập một danh sách tất cả những người có xe hơi Fatima nhập cảng
đang nằm chờ giải quyết. Khi tôi nhận được bản danh sách dài tới 150 tên, tôi
sững sờ nhận thấy có đủ hạng người trong đó: lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tôn
giáo, Tướng lãnh, vân vân... Không phải mọi chiếc xe đều tới từ Bồ Đào Nha, nơi
được coi là đích đến của các đoàn hành hương Fatima. Một số xe từ Pháp và một số
khác từ Hồng Kông chở về, mặc dầu Pháp và Hồng Kông không phải là nơi hành hương
Fatima (ở Hồng Kông, không giống như ở Việt Nam, người ta lái xe bên lề trái).
Những người đem xe các nơi khác về, không phải là những người mộ đạo đi hành
hương, họ đi đâu cũng được, miển là có thể mua xe đem về được để bán lấy lời
thôi.
Tôi tới gặp ông Kỳ, đưa ông ta
coi danh sách và hỏi ông có còn muốn giữ vững quyết định của mình và “chộp”
những người có tên trong danh sách không. Ông ta xem rất kỹ lưỡng, dựa lui vào
thành ghế và yên lặng một hồi. Tôi có thể tưởng tượng những gì đang diễn ra
trong đầu ông. Cuối cùng ông ta nói: “Ôi trời! Cái này rắc rối dữ! Thôi được!
Anh cứ làm cái gì thấy cần làm, nhưng đừng kéo tôi vào trong đó!”. “Vì cuộc bầu
cử sắp tới!”, ông ta nói thêm. Rõ ràng ông ta sợ những cái tên trong danh sách.
Tôi quay trở về văn phòng của mình, mời vị Bộ trưởng bộ Thương mại, một người
bạn và một nhân viên cũ ở Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín mà tôi đã đặt vào bộ
Thương mại, và yêu cầu
anh ta ký một sắc lệnh xóa tất cả mọi điều khoản nhập khẩu đặc biệt và
đánh thuế bình thường lên tất cả những chiếc xe đang chờ thủ tục quan thuế. Tôi
nhấn mạnh rằng tôi sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm trong vụ này. Anh ta nhìn vào
danh sách và tôi thấy gương mặt anh ta bỗng đỏ bừng lên. Anh ta có vẻ rất bối
rối và lầm bầm vài tiếng gì đó; tôi thấy rõ ràng là anh ta không muốn ký sắc
lệnh ấy, mặc dù anh ta biết rất rõ đó là nhiệm vụ của anh ta. Tôi bèn bảo anh ta
hãy chuẩn bị sắc lệnh cho tôi ký. Việc công bố sắc lệnh này đã gây nên một sự
náo động lớn trong giới báo chí và trong dân chúng. Một số người hiểu biết vấn
đề thì thán phục lòng can đảm và quyết tâm của tôi, gọi điện cho tôi để hoan
nghênh, nhưng những người có tên trong danh sách và những người đang chuẩn bị đi
những chuyến hành hương sắp tới để kiếm chác, liền tung tin ra là tôi ăn tiền
các hãng buôn bán xe hơi. Trong mấy ngày sau đó tôi hết sức ngao ngán cho quần
chúng và đất nước của tôi; và rất thất vọng về Kỳ. Đây là một trong những lý do
khiến tôi xin từ chức năm 1968. Nhưng không bao lâu sau đó, tôi lấy lại được
lòng hăng hái của mình và quyết tâm tiếp tục đi tới.
Đại Hàn là đồng minh của chúng
ta trong chiến tranh; chính phủ Seoul đã gởi một lực lượng viễn chinh hơn
100.000 người qua giúp Việt Nam. Nhưng đồng thời Đại Hàn cũng được hưởng những
lợi ích to lớn từ nền kinh tế chiến tranh của Việt Nam, khi họ phục vụ các lực
lượng Mỹ và Việt Nam trong các lãnh vực xây dựng, tiếp tế và dịch vụ đủ loại.
Trong khi dân Việt Nam đang bận chiến đấu thì những công dân Đại Hàn ồ ạt tới
đây, cạnh tranh với thương gia Trung Hoa và công dân các nước Thứ Ba trong lãnh
vực kinh doanh và dịch vụ, giành chỗ của người Việt. Việt Nam đã đóng góp rất
nhiều vào việc phát triển của Đại Hàn khi quốc gia này bắt đầu bước vào thế giới
hiện đại. Chính phủ Đại Hàn hỗ trợ cho công dân của họ hết mình và tìm cách tạo
cơ hội dễ dàng cho sự xâm nhập vào Việt Nam bằng cách thiết lập các ngân hàng
riêng và công ty kinh doanh riêng của họ. Kỳ đã tới viếng thăm Seoul và được
tiếp đãi bằng thảm đỏ cực kỳ long trọng. Sau khi đã được chiêu đãi hết sức thịnh
soạn, được giải khuây và tặng quà ngập đầu, Kỳ đã dễ dàng ký một thỏa ước cho
phép một ngân hàng thương mại và một công ty kinh doanh của Đại Hàn mở một chi
nhánh ở Việt Nam mà không hỏi ý kiến chính phủ ở nhà. Tôi được biết thỏa ước này
qua báo chí ngày hôm sau. Tôi hết sức tức giận. Tại sao Kỳ lại có thể tặng một
món quà ưu ái như vậy mà không tham khảo ý kiến chúng tôi, làm sao ông có thể
nhường một mảnh quyền tối thượng của quốc gia mà không đòi hỏi bên kia phải đền
đáp lại? Khi Kỳ vừa trở về, tôi đến gặp ông và bày tỏ ý kiến của mình. Tôi nói
với ông ta không một ngân hàng nào được phép mở tại Việt Nam mà không đi qua một
loạt thẩm tra pháp luật và không có giấy phép do Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
cấp; vả lại, cấp một giấy phép như vậy cho một ngân hàng Đại Hàn (mà lại là một
Ngân hàng Nhà nước) và không đòi một điều khoản nào đáp lại cho tương xứng thì
đó là một sai lầm lớn. Vốn là một người đàng hoàng ngay thẳng, Kỳ nhận ngay sai
lầm của mình và yêu cầu tôi giải quyết toàn bộ vấn đề với giới chức Đại Hàn. Khi
Ngân hàng Đại Hàn nộp đơn xin cấp giấy phép để mở một chi nhánh ở Sài Gòn, tôi
cho họ biết sẽ không có giấy phép nào được cấp nếu không có một văn kiện thành
văn của chính phủ và Ngân Hàng Quốc Gia Đại Hàn cam kết sẽ cấp giấy phép tương
tự khi có một ngân hàng Việt Nam đủ tư cách nạp đơn xin mở chi nhánh tại Đại
Hàn. Viên Thống đốc Ngân hàng Đại Hàn, một người bạn của tôi, đành phải tuân
theo, trước khi tôi ký giấy phép cho chi nhánh Sài Gòn của ngân hàng Đại Hàn.
Công ty kinh doanh Đại Hàn có
tên là Kotraco cũng phải được bộ Thương mại cấp giấy phép, và việc này cũng
không thể giải quyết mà không có một số khó khăn tuy ít hơn. Cũng giống như tất
cả công ty kinh doanh, dù trong nước hay nước ngoài, Kotraco cũng phải tuân theo
luật pháp Việt Nam và các điều lệ ngoại thương. Rõ ràng muốn lợi dụng việc họ
giúp đỡ cho Việt Nam, công ty này định dành một vị trí đặc biệt trên thị trường
của chúng ta ngay từ buổi đầu tiên. Phái đoàn Đại Hàn tới gặp tôi, nói rằng ông
Kỳ đã chấp nhận một danh sách nhập cảng dài ở Seoul. Tôi nói rằng chỉ có bộ
Thương mại mới có thể chấp thuận một danh sách các mặt hàng nhập cảng. Và tôi
gọt lại danh sách này chỉ còn một số tối thiểu rồi gởi xuống cho bộ Thương mại.
Sau này tôi nghe kể lại là chính quyền Đại Hàn rất tức giận về hành động của
tôi. Sau khi tôi đã rời các chức vụ trong nội các, tôi nhận thấy các nhà ngoại
giao Đại Hàn và các viên chức cao cấp trước đây từng cúi mình rất thấp khi gặp
tôi nay quay lưng đi và giả bộ không nhìn thấy tôi.
Trong những năm ấy, Việt Nam là
một cái bánh ga tô lớn và các nước
láng giềng như Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Phi Luật Tân, Indonesia, và Đại
Hàn đều muốn một phần miếng bánh mà nhân dân Việt Nam gánh việc trả tiền; một
vài người này tham lam hơn những người kia, nhưng Đại Hàn là kẻ tham lam nhất.
Công dân của những nước đồng minh với Mỹ trong chiến tranh như Đại Hàn, Phi Luật
Tân, Đài Loan và Thái Lan, vì có được quy chế ưu tiên dành cho người không cư
trú dài hạn, và nấp đằng sau cái khiên che của lực lượng quân đội Mỹ, đã như đàn
chim mồi sà xuống kiếm chác trên thị trường và nền kinh tế Việt Nam. Tôi đã phải
ngăn chận rất nhiều vụ mưu toan xâm nhập để lợi dụng và tôi đã phá hỏng nhiều
thủ đoạn tham lam của họ để bảo vệ nền kinh tế Việt Nam và cuộc sống bình an của
người dân. Đó không phải là một công việc dễ dàng bởi vì các đường dây ngoại
giao, các cơ sở quân sự và sự đồng lõa vì tham lam của một số người Việt Nam cấu
kết với đám thương gia Chợ Lớn đã mở ra một lô đường dây buôn bán và tôi đã phải
tìm mọi cách để chận lại.
Không may cho tôi, là không có
được bao nhiêu đồng nghiệp và quan chức chính phủ sẵn lòng chọn thái độ ấy và
đứng lên chống lại những việc xấu như vậy, vì thiếu sáng kiến, thiếu can đảm,
thiếu trung thực, vì lười biếng và thái độ làm việc xính xái cho qua. Rất thường
khi chỉ có một mình tôi trong trận đánh, và tôi bị bỏ rơi giữa đàn sói mà không
có được bao nhiêu hỗ trợ. Chiến đấu đơn độc như vậy, tôi bắt buộc phải mạnh tay;
thế nên tôi đã dẫm lên chân rất nhiều bạn bè cũng như kẻ thù. Điều này không làm
cho tôi chiếm được nhiều cảm tình trong các giới người Việt và người ngoại quốc.
Chỉ có một vài người tận tụy có lòng, mới ủng hộ và tán thưởng hành động của
tôi. Và bởi vì quá bận rộn với bao nhiêu công việc đòi hỏi, tôi đã phạm cái sai
lầm là không giải thích trước công chúng, biện minh cho việc làm của mình; tôi
không chú ý đủ mức đến khía cạnh cần thiết của quan hệ “ngoại giao”. Giờ đây
nhìn lại, tôi mong sao hồi đó tôi có được nhiều thời gian và nhiều can đảm hơn
để trình bày trước công chúng những vấn đề, những mối lo toan và hành động của
tôi. Có lẽ đó là lý do mà tôi được người ta biết tới ở nước ngoài nhiều hơn là ở
trong nước.
Ở Pháp tôi thường xuyên tiếp
xúc với Thủ tướng Antoine Pinay, người rất thân với tôi suốt một thời gian dài,
ngay cả sau khi ông và tôi cả hai cùng về hưu. Tôi đã có những cuộc thảo luận
thường xuyên với Thống đốc Baumgartner và Thống đốc Calvet của Ngân Hàng Quốc
Gia Pháp và các vị Tổng giám đốc của tất cả các ngân hàng nhà nước khác. Ở Mỹ
tôi thường gặp và làm việc với Tổng thống Lyndon Johnson, Bộ trưởng
Mc Namara, tướng Westmoreland, tướng Abrams; và tôi cũng có tiếp xúc với
Phó Tổng thống Hubert Humphrey. Ở Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển, tôi
quen biết tất cả các vị Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia. Ở Vương quốc Anh, Tây Đức,
Ý và Thụy Sĩ, tôi quen biết hầu hết các nhân vật trong các Ngân Hàng Trung Ương
và trong các ngân hàng thương mại lớn nhất của họ, vì Ngân Hàng Quốc Gia Việt
Nam và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín vẫn thường giao dịch với họ. Ở châu Á,
đương nhiên là tôi quen một số còn đông hơn nữa các nhân vật trong chính phủ và
trong các Ngân Hàng Trung Ương, nhà nước cũng như tư nhân.
Hình 12. Hội
nghị Thống đốc Ngân hàng Trung ương
Hai quốc gia tôi thích hơn cả và nơi tôi gặp nhiều nhân vật quan trọng hơn cả là
Nhật Bản và Đài Loan. Trong những năm tôi giữ chức Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam, Tổng giám đốc Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, và Tổng uỷ viên Kinh tế
Tài chánh, với vị trí dẫn đầu các phái đoàn
thương thuyết Việt Nam, tôi nhiều lần gặp gỡ bộ Ngoại giao Nhật (tiếng Nhật là
Gaimucho), bộ Kinh tế và Thương mại (Miti), gặp gỡ Thống đốc Ngân Hàng Nhật Bản
và các vị Tổng giám đốc của 5 ngân hàng thương mại lớn nhất Nhật Bản; vị Chủ
tịch của Liên hiệp Công đoàn Kaidanren hùng mạnh (tổng liên đoàn thương mại kỹ
nghệ toàn nước Nhật, tổ chức tài trợ cho tất cả các cuộc bầu cử), ông Uemura;
Tổng thư ký của họ, ông Sengha; ông Kubota, Chủ tịch xí nghiệp Nippon Koei, Xí
nghiệp Tư vấn kỹ nghệ lớn nhất của Nhật và một trong những xí nghiệp lớn nhất
thế giới, và quen biết với nhiều vị Chủ tịch của Quỹ Phát Triển Hải Ngoại Nhật
Bản ODA. Sau khi tôi trở về Việt Nam với tư cách Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia và
Tổng uỷ viên Kinh tế Tài chánh, tôi thường dẫn đầu nhiều phái đoàn qua Nhật dự
các buổi hội thảo kinh tế thường niên khối Đông Nam Á mà chủ tọa là Bộ trưởng bộ
Kinh tế và Thương mại.
Tôi cũng có những cuộc tiếp xúc cá nhân với các Bộ trưởng của Nhật Bản như Miki,
Fukuda và Okita. Ở Đài Loan tôi quan hệ thân thiết với ông K.T.Li, một thành
viên thường trực của chính phủ Trung Hoa và là Bộ trưởng
Kinh tế Tài chánh trong hơn 25 năm, ông P.I. Tsu, Thống đốc Ngân hàng
Trung ương và ông Kuo Hwa Yu, cũng là Thống đốc Ngân hàng Trung ương và sau này
là Thủ tướng Đài Loan, người luôn luôn tiếp đãải tôi nồng hậu, sau khi tôi đã về
hưu, mỗi khi tôi tới thăm Đài Bắc suốt một thời gian dài cho tới khi ông qua
đời; Tiến sĩ I.S.Sun, nguyên Bí thư của Tổng thống Tưởng Giới Thạch, vốn là phó
Thống đốc Ngân hàng Trung ương lúc ấy, và sau này lần lượt làm Chủ tịch Ngân
hàng Giao thông Vận tải, Ngân hàng Đài Loan, Ngân hàng Trung Hoa và Ngân hàng Exim. Ở Thái Lan, tôi
rất thân với Thống đốc Puey và sau đó với Thống đốc Bishudi của Ngân Hàng Trung
Ương Thái Lan. Ở Phi Luật Tân, Mã Lai, Singapore và Indonesia, tôi đều gặp và
quen biết nhiều vị Thống đốc của các Ngân Hàng Trung Ương như Likaros, Michel
Wong cùng nhiều Bộ trưởng Tài chánh khác.
Hình 13. Hội
nghị Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương 3 nước Đại Hàn,
Tôi không bao giờ xin các văn phòng tiếp tân của các Tổng thống, Thủ tướng, như
Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson, Tổng Thống Đại Hàn Pak Chung Hy, Thủ Tướng
Pháp Antoine Pinay, hay các lãnh đạo ngọai quốc khác, cho tôi gặp riêng. Khi dẫn
phái đòan Viêt Nam đến viếng thăm những lãnh đạo nước ngòai theo lễ nghi, không
bao giờ tôi đòi gặp riêng họ, nếu không có trách nhiệm thương thuyết công việc
bí mật cuả đất nước. Tôi cũng không bao giờ xin họ chụp hình. Chẳng hạn, như một
Tổng trửơng Kinh tế Viêt Nam đã nhờ Đại Sứ Viêt nam ở Tokyo xin gặp Nhật Hòang,
riêng một mình, không cho phái đoàn đi theo, hay nhờ Đại Sứ Viêt Nam ở
Washington tổ chức cho phái đoàn Viêt Nam gặp T.T. Johnson với đầy đủ tư cách lễ
nghi, tuy không có một công việc gì để bàn cải, cốt ý là để có một bức ảnh ông
ta ngồi bên cạnh T.T. Johnson. Trong khi đó, tôi đã thương thuyết rất nhiều lần,
một mình, không có phái đòan, không có Đại sứ Viêt Nam, với Tổng Trưởng Tài
Chánh, và sau này là Thủ Tướng Pháp
Antoine Pinay, với Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson -- cùng với đại diện cuả ông
ở Việt Nam là ông Robert Komer -- , nhưng không hề xin Văn phòng Tiếp tân của họ
chụp một bức hình nào để khoe!… Cho nên khi viết sách này, tôi đã không có một
tấm hình nào chụp riêng tôi với họ để cho vào sách.
Hình 14.
Hội nghị Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương
Hình 15. Hội nghị Thống
đốc Ngân hàng Trung Ương
Hình 16. Hội nghị Thống
đốc Ngân hàng Trung Ương
VII. SỰ NGHIỆP QUỐC TẾ LẦN THỨ 2
Sau khi rời khỏi chính phủ và Ngân Hàng Trung Ương cùng Ngân Hàng Thương Tín,
tôi được đề nghị hai việc làm: William Diamond, cấp trên của tôi tại Ngân Hàng
Thế Giới và đang là Giám đốc Cơ quan Phát triển Tài chánh IFC, World Bank, rất
vui khi biết tôi đã quyết định trở về Washington để làm việc. Ông gởi lời nhắn
là tôi sẽ được hoan nghênh trong bộ phận của ông với chức vụ Chánh sự vụ Bắc Phi
và các nước nói tiếng Pháp (việc trước đây của tôi năm 1965). Tôi cũng được mời
nhận chức vụ Quản trị viên Dự khuyết trong Hội đồng Quản trị Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
IMF, phụ trách các nước Trung Hoa (tức Đài Loan), Đại Hàn, Việt Nam. Chính phủ
Việt Nam đề nghị tôi chấp nhận công việc thứ hai vì nó sẽ cho phép tôi tiếp tục
phục vụ đất nước và về thăm Sài Gòn bốn hoặc năm lần một năm để giúp cho Ngân
Hàng Trung Ương và chính phủ – vị trí Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương vẫn còn để
trống suốt gần hai năm. Và T.T. Thiệu muốn tôi tiếp tục làm Cố vấn Kinh tế Tài
chánh cho chính phủ.
Tháng 8/1968, tôi rời Sài Gòn bay sang Pháp để đem gia đình đi Washington nhận
công việc mới. Chúng tôi mua một căn nhà xinh xắn ở vùng Tây Bắc Washington và
đám con tôi bắt đầu đi học ở các trường học ở Mỹ. Công việc của tôi rất thú vị
bởi vì cấp trên của tôi, ông Bue Tan, một vị con cưng của Tổng thống Tưởng Giới
Thạch, không thích công việc của mình vì không được đào tạo trong ngành kinh tế
tài chánh, nên tôi được hoàn toàn tự do tổ chức văn phòng và công việc với Hội
đồng Quản trị. Thế giới phương Tây lúc ấy đang trải qua một giai đoạn khủng
hoảng tiền tệ, và cơ quan IMF được giao trách nhiệm rà soát lại hệ thống tổ chức
của Bretton Woods (địa điểm đã thấy World Bank và IMF ra đời) và cải cách lại hệ
thống tiền tệ thế giới. Sau thế chiến thứ II, Hội nghị Bretton Woods đã sáng lập
hai tổ chức, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và cơ quan chị em của nó là IBRD (International
Bank for Reconstruction and Development – Ngân Hàng Quốc Tế Tái thiết và Phát
triển, thường được gọi là Ngân Hàng Thế Giới). Những cuộc thảo luận ở trong Hội
đồng Quản trị giữa các nước châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Hoa … hết sức là thú vị và
tôi học được rất nhiều, vừa cho bản thân tôi vừa cho lợi ích của đất nước tôi.
Vì đã từng tham gia vào việc phát triển hệ thống tiền tệ thế giới với tư cách là
Thống đốc của một Ngân Hàng Trung Ương và Tổng giám đốc của một Ngân hàng Thương
tín lớn trong nhiều năm trời, tôi muốn dùng kinh nghiệm thực tiễn của mình trong
lãnh vực ngân hàng quốc tế để giúp IMF định hình cho hệ thống tiền tệ thế giới
mới, nhưng tôi đã sớm nhận ra rằng ngay cả tổ chức quốc tế thanh thế nhất này
cũng có điểm yếu của nó, đơn giản chỉ vì các vị chuyên môn trong ban điều hành,
gồm toàn những người học rộng và tinh tế, đôi khi cũng sai lầm bởi vì thiếu kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn. Họ đều là những nhà lý thuyết sáng chói, đôi khi rất
nổi tiếng, nhưng quá kiêu hãnh nên không chịu nhận những lời khuyên ích lợi từ
kinh nghiệm thực tiễn của người có sự đào tạo khác họ.
Bắt đầu các năm 70, thế giới đã lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài hết
sức nghiêm trọng, làm rung chuyển cả nền tảng của hệ thống tiền tệ thế giới, với
những hậu quả tai hại trong sự thất thoát tài sản giữa các nước đã phát triển và
các nước đang phát triển, điều này đến lượt nó lại gây một ảnh hưởng tai hại
trên nền kinh tế và sự ổn định của các nước kém phát triển. Cuối năm 1982 tổng
số tiền nợ nước ngoài của các nước đang phát triển lên tới con số kinh hoàng là
1.703 tỉ đô-la, hoàn toàn bất cân xứng với tổng sản lượng quốc gia của họ. Các
nước ở vùng Nam sa mạc Sahara chẳng hạn đã nợ tới mức 183,5 tỉ đô-la so với
168,5 tỉ tổng lợi tức quốc dân (!) với những hậu quả tai hại về việc sút giảm
nhập cảng và chi tiêu công cộng. Tính trung bình thì số lượng nhập cảng bị giảm
15%, xuất cảng giảm 4,2%, đầu tư giảm 20%, lợi tức đầu người giảm trên 2%.
Vào năm 1969, dĩ nhiên là tôi không thể tiên đoán được tai họa này, nhưng những
kinh nghiệm trước năm 1968 của tôi về việc phát triển ồ ạt số lượng cho vay của
các ngân hàng thương mại đã cho tôi cái cảm giác rằng một tai họa đang dần dần
hình thành cho hệ thống tiền tệ thế giới. Khi tôi ngồi ở văn phòng tôi ở Sài Gòn
với tư cách là Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương và chủ tịch Tổng giám đốc Ngân
Hàng Việt Nam Thương Tín, tôi đã nhìn thấy từng đoàn đại diện các Ngân hàng
Thương mại của Mỹ, theo sau là các đoàn đại diện ngân hàng châu Âu đi qua đi lại
cánh cửa quay của văn phòng tôi để đề nghị đủ các món cho vay, điều mà may mắn
thay, tôi luôn luôn từ chối, vì muốn tránh những khó khăn tiền tệ cho đất nước
trong tương lai.
Năm 1969 tôi tới gặp viên phó Giám đốc Sở Châu Á của IMF để tả cho ông nghe việc
các Ngân hàng Thương mại quốc tế đổ xô đi mời mọc các quốc gia đang phát triển
vay mượn, và nói với ông rằng vì có trách nhiệm đối với sự vững mạnh của hệ
thống tiền tệ thế giới, IMF phải chấm dứt ngay chiều hướng này hay ít nhất cũng
kềm bớt nó lại. Vị Phó Giám đốc, một người quốc tịch Canada với một lô bằng Ph.D
kinh tế, bảo tôi đó không phải là việc của IMF! Thiệt là thiển cận! Tôi đã thử
nói thêm với một vài nhân viên cao cấp khác của IMF nhưng chẳng đi tới đâu. Vì
vậy tôi rất nản lòng và không đề cập tới chuyện này nữa. Không bao lâu sau, nợ
nước ngoài của các nước đang phát triển rơi vào một vòng xoáy chóng mặt và cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng trong hệ thống tiền tệ thế giới bùng nổ làm cho IMF
phải rà xét lại và cải tổ lại hệ thống tiền tệ thế giới.
Vấn đề các lý thuyết gia xuất sắc, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, thiếu kinh
nghiệm thực tiễn, là một điều rõ ràng rất dễ thấy, nhưng các nhà lãnh đạo không
bao giờ thấy, vì thiển cận và thiếu nhìn xa trông rộng. Tôi hy vọng rằng các
chính phủ quốc gia và các tổ chức quốc tế sẽ đưa thêm những người chuyên môn có
kinh nghiệm thực tiễn thêm vào số các lý thuyết gia sách vở có rất nhiều bằng
cấp nhưng không có kinh nghiệm và tầm nhìn. Và tôi hy vọng các chính phủ và các
tổ chức ấy khuyên nhủ họ nên khiêm tốn hơn và bớt hách dịch.
Nhưng không bao lâu tôi trải qua một cơn khủng hoảng nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu
xa tới sức khỏe thể chất và tinh thần của tôi, suýt chút nữa lấy đi cả sinh mạng
tôi. Vào một ngày đầu năm 1969, tôi được một người bạn cho biết là có một ông
Ernest Lederer nào đó đã viết một cuốn sách về chiến tranh Việt Nam với tựa đề
“Những kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta”. Ernest Lederer là một người theo đảng
Dân chủ Mỹ nhưng lại chống chính sách Việt Nam của Tổng thống Johnson. Anh ta là
một cây bút không tên tuổi, nhưng anh ta quyết định viết một cuốn sách về các
sai lầm của chánh quyền T.T. Johnson ở Việt Nam. Cuốn sách chỉ là một mớ những
câu chuyện về tham nhũng, một vài chuyện được xây dựng trên những sự kiện có
thật, nhưng hầu hết là trên các lời đồn đại và “nghe nói” góp nhặt trong một
chuyến viếng thăm ngắn ngủi Việt Nam, không hề có một cuộc nghiên cứu hay điều
tra nào cả. Theo một vài nguồn tin thì cuốn sách này nhằm làm mất uy tín của
T.T. Johnson và chính sách Việt Nam của ông ta, nhưng nó không bán chạy và cũng
không gây được một ảnh hưởng thật sự nào đối với chính sách của T.T. Johnson.
Trong một đoạn ngắn anh ta buộc tội tôi ăn hoa hồng trên một số tiền ký thác ở
các ngân hàng Mỹ và một số tiền “lại quả” từ các hãng in tiền. Đây là một cú sốc
khủng khiếp cho tôi bởi vì tôi luôn luôn coi lòng trung thực và liêm khiết nghề
nghiệp là những nguyên tắc chính trong đời. Cú sốc này đã làm tôi xuất huyết nội
và tôi phải vào bệnh viện để giải phẫu. May mắn thay sức khỏe của tôi rất tốt,
và các bác sĩ bảo rằng sở dĩ tôi không chết là do sức khỏe tuyệt vời của tôi.
Tôi hồi phục nhanh chóng và rời bệnh viện 5 ngày sau đó.
Sau này tôi được biết là trong chuyến ghé thăm Sài Gòn Lederer đã gặp Nguyễn
Xuân Oánh, cựu Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương, người đã bị Nguyễn Cao Kỳ sa thải
và bị Hội đồng Tướng lãnh gạt ra khỏi chính phủ. Khi Kỳ mời tôi về thay thế anh
ta, anh ta đã tưởng rằng tôi vận động để đuổi anh ta. Oánh đã làm Phó Thủ tướng
trong vài tháng và Quyền Thủ tướng trong vài ngày nhờ các cuộc tranh chấp
nội bộ giữa các thành viên Hội đồng Tướng lãnh. Kỳ đã sa thải Oánh không hề nể
nang, vì ông ta không ưa Oánh và coi Oánh vừa thiếu năng lực chuyên môn vừa có
quá nhiều tham vọng chính trị.
Sau khi tôi trở về Ngân hàng, Oánh một lần nữa lại thù ghét tôi vì đã đóng cửa
Văn phòng Paris mà anh ta vừa mới thành lập khá tốn kém trước khi ra đi, và vì
tôi đã sa thải người bạn thân của anh phụ trách Văn phòng ấy. Việc làm này của
tôi là do những nguyên nhân kinh tế tài chánh và phù hợp với phương thức hoạt
động của Ngân Hàng Trung Ương; có lẽ nó đã làm hỏng một kế hoạch thầm kín nào đó
của họ.
Khi Lederer gặp Lê Phát Đạt, vị Nghị sĩ Quốc hội mới và Giám đốc sở Ngoại vụ cũ
của tôi, Đạt rất là sung sướng để đóng góp phần mình vào câu chuyện dựng đứng ấy
với ý đồ cho tôi một đòn đích đáng để trả thù việc tôi đã không thăng chức cho
anh ta vì anh ta không ở trong nghề ngân hàng và không xứng đáng tí nào với chức
tổng giám đốc -- Lê Phát Đạt không hề học ngành ngân hàng, và được nhận vào Ngân
Hàng Quốc Gia dưới thời chánh phủ Diệm chỉ vì anh ta theo đạo Thiên Chúa, được
các ông Cha Thiên Chúa Giáo ủng hộ -- và trả thù việc tôi từ chối không cho anh
ta hưởng các quyền lợi mà anh ta không có quyền hưởng nữa vì đã xin từ chức ở
Ngân Hàng Quốc Gia.. Còn Lederer thì dĩ nhiên là sung sướng có thêm một lời cáo
buộc mới vào trong cuốn sách của mình, nhưng anh ta lại cẩu thả không chịu kiểm
tra lại các sự việc với các ngân hàng Mỹ và các ngân hàng quốc tế đang giữ số
tiền ký thác của Ngân Hàng Quốc Gia và với các công ty in tiền ngân hàng Anh
Quốc và Mỹ Quốc. Nếu anh ta kiểm tra lại rõ rang trước khi đưa các tin ấy lên
sách, thì anh ta đã biết được sự thật, tránh được những lời cáo buộc không đúng,
hoàn toàn sai lầm, và tránh được cái nạn bị kiện ra tòa về tội vu khống và nhục
mạ.
Sự
khôi hài của câu chuyện này là số tiền ký thác ở các ngân hàng thương mại ngoại
quốc là do chính Lê Phát Đạt, Giám Đốc sở Ngoại vụ, đề nghị lên sau khi nhận và
xét thơ của các ngân hàng ngọai quốc đề nghị lãi suất và điều kiện ký thác. Và
sự chọn lựa các hợp đồng in tiền là do một hội đồng sáu thành viên kỳ cựu của
Ngân Hàng Quốc Gia, gồm có Giám Đốc sở Hành Chánh, Giám Đốc Sở “Két” Trung Ương,
hai đại diện Sở Kiểm Tra ở hai Sở trên, Ông Tổng Giám Đốc và do Ông Tổng Kiểm
Soát chủ tọa! Sau khi họ chọn xong công ty ngọai quôc
theo các tiêu chuẩn giá cả, hình vẽ, chất lượng giấy…thì Hội đồng trình lên cho
tôi để tôi kiểm điểm lại trước khi viết thư báo tin cho công ty được chọn lưạ
hay. Tôi
liên lạc với các ngân hàng thương mại và các công ty in tiền và thông báo với họ
là tôi sẽ kiện Lederer và nhà xuất bản của anh ta về tội vu khống, cáo buộc gian
và nhục mạ. Họ đều đồng ý sẽ ra tòa làm chứng cho tôi, và tôi thuê một luật sư ở
Washington có liên hệ với một công ty luật ở New York vì Lederer và nhà xuất bản
của anh ta là những công dân New York. Tại Việt Nam, Ngân Hàng Trung Ương ủng hộ
việc làm của tôi và hứa sẽ chịu những phí tổn hợp pháp theo đúng các điều lệ
được ghi trong luật của ngân hàng. Ngay sau khi các thủ tục tố tụng bắt đầu,
Lederer đã tiếp xúc với luật sư của tôi, họ gặp nhau nhiều lần ở New York,
Lederer vẫn giữ lập trường là anh ta nghe câu chuyện này từ các nguồn tin cao
cấp ở Sài Gòn, nhưng thừa nhận rằng anh ta đã không kiểm tra lại với ngân hàng
và công ty in tiền. Quả thật không may cho tôi là anh ta đã gặp hai con người
này: ai lại không tin một cựu Thống đốc Ngân hàng và một Nghị sĩ Quốc hội, cựu
nhân viên của ngân hàng.
Lần gặp mặt thứ tư, luật sư của Lederer đưa ra một thỏa hiệp: Lederer sẽ viết và nhà xuất bản sẽ in một lời đính chính đưa vào trong tất cả các cuốn sách đã phát hành và các ấn bản trong tương lai, nhấn mạnh rằng anh ta chưa kiểm tra các lời cáo buộc với các ngân hàng thương mại và các công ty in tiền. Tôi từ chối, đòi phải cải chính một trăm phần trăm sự vu cáo. Tuy nhiên sau một số lần thương lượng nữa, luật sư của tôi đề nghị tôi nên chấp nhận thỏa hiệp: vào thời gian đó, Tòa án Mỹ vì cuộc chiến tranh đầy mâu thuẫn ở Việt Nam không muốn đề cập tới chuyện vu khống các nhân viên chính quyền Việt Nam và họ quan niệm rằng khi nhận một trách nhiệm lớn trong chính phủ thì người ta phải chấp nhận việc bị phê bình dù đúng hay sai; sự phát triển của các phong trào chống chiến tranh đã tạo nên một không khí thiếu thiện cảm đối với bất cứ gì hay bất cứ ai dính líu tới Nam Việt Nam, và vị quan tòa xử vụ này có thể là có cảm tình với phong trào chống chiến tranh. Xét những điều bất trắc ấy và số tiền phí tổn đã lên tới một con số khá lớn, tôi quyết định chấp nhận thỏa hiệp sau khi đã suy nghĩ và tự vấn rất nhiều. Lời đính chính được in và gởi tới tất cả các thư viện, các tiệm sách và những ai có sách. Tôi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này với một tâm trạng đầy ngao ngán, mất lòng tin, và một cái nhìn ảm đạm đối với chính trị và công luận.
Trong khi làm nhiệm vụ Quản trị viên Dự
khuyết trong Hội đồng Quản trị IMF tôi đảm nhiệm vai trò liên lạc giữa IMF,
World Bank và chính phủ Việt Nam; tôi cũng tiếp tục làm Cố vấn Kinh tế Tài chánh
không chính thức cho chính phủ Việt Nam. Tôi vẫn tiếp tục được hỏi ý kiến về các
vấn đề kinh tế tài chánh quan trọng, hỗ trợ việc cải cách các vấn đề tiền tệ và
các chương trình phát triển kinh tế. Vì vậy tôi dính líu nhiều và cũng góp phần
vào tất cả các chương trình kinh tế tài chánh thực hiện trong thời gian
1969-1974. Báo chí vẫn tiếp tục viết về những toa thuốc đắng tôi kê để chữa các
khó khăn kinh tế tài chánh của đất nước và vẫn gọi tôi bằng cái tên “Vua phá
giá”. Nhưng càng ngày tôi càng thu được sự kính trọng và cảm tình của các nhà
báo khi họ hiểu tôi rõ hơn. Rất ít người chỉ trích tôi mà không có một lời nói
tình cảm, và rất nhiều người, đặc biệt là trong các tờ báo đối lập (Đại Dân Tộc
chẳng hạn…) thường khen tôi vì khả năng chuyên môn và tính thẳng thắn của tôi.
Tôi đặc biệt có quan hệ thân hữu với Võ Long
Triều, gương mặt chính đối lập với chính phủ Thiệu, người đứng đầu tờ báo có số
in lớn nhất lúc đó là tờ Đại Dân Tộc. Triều có rất nhiều chuyện rắc rối với T.T.
Thiệu nhưng chưa bao giờ bị bỏ tù. Anh ta chỉ vào tù dưới chế độ mới và ở một
thời gian trong khám Chí Hòa. Tôi đã nhờ Thủ tướng Antoine Pinay can thiệp với
chính phủ Hà Nội cho anh ta đi Pháp. Hình như ông Pinay cũng không thu được kết
quả và Triều phải đợi một thời gian lâu trước khi được thả. Ở Paris anh ta đã cố
vực dậy tờ báo cũ của anh nhưng anh ta lại bị lôi cuốn vào một trò chơi tai hại
và mất tất cả mọi thứ, kể cả sự ủng hộ của các bạn bè cũ người Pháp và người
Việt. Tôi mất dấu anh ta từ đó.
Từ năm 1969 tới 1975 Triều và viên chủ bút
của anh đã viết nhiều bài viết quan trọng về tôi trong đó có cả “tiểu sử” của
tôi trong một số báo đặc biệt chứa đựng nhiều sai lầm rất mắc cười (ví dụ người
vợ đầu của tôi là con gái của một nhà ngoại giao danh tiếng người Pháp!). Cứ mỗi
lần tôi về Sài Gòn anh ta lại phỏng vấn tôi về tình hình kinh tế Việt Nam. Anh
ta thường dùng những câu trả lời thành thật không che dấu của tôi cũng như tư
cách chuyên viên quốc tế của tôi để chỉ trích chánh phủ Thiệu. Đồng thời đài
Phát thanh Giải Phóng của Việt Cộng trong chiến khu cũng đã trích nhiều lời
tuyên bố của tôi về kinh tế Nam Việt Nam để phát, nhằm công kích chính phủ Sài
Gòn. Đó là lời của Ông Trần Dương, Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam năm
1978, kể tôi nghe khi ông ta tới thăm tôi ở Washington. Triều ca ngợi tài năng
của tôi để làm cho người đọc thấy rõ thêm sự yếu kém và bất lực của chính phủ.
Anh ta ủng hộ tôi nhưng cũng dùng tôi cho mục đích riêng của anh ta. Tôi ủng hộ
anh ta và tôi cũng dùng anh ta cùng tờ báo anh ta để trình bày những ý kiến
thẳng thắn của mình tới quần chúng.
Tháng 8/1973 tiếp theo sau cuộc hội đàm Paris
nhằm giải quyết vấn đề hòa bình, Hà Xuân Trừng lúc ấy là Bộ trưởng Tài chánh
Việt Nam, tổ chức một khóa hội thảo về phát triển Việt Nam sau chiến tranh. Các
nhà kinh tế và các giáo sư nổi tiếng ở Đông Nam Á, Mỹ, Úc và Pháp được mời tham
dự, và tôi là một trong bốn người phát biểu chính, tôi sẽ lên diễn đàn phát biểu
trong phiên họp cuối cùng. Ngày tôi lên đọc diễn văn thì hội trường đầy ắp người
và điều làm cho cử tọa ngạc nhiên nhất là có một số lớn phụ nữ ở cả giới kinh
doanh và không kinh doanh đến dự. Nhìn xuống dưới cử tọa tôi thấy rất nhiều
gương mặt phụ nữ xinh đẹp với những chiếc áo dài đủ màu lộng lẫy, và một số
khuôn mặt quen thuộc. Tôi nghe nói rằng trong những phiên họp trước đó không hề
có phụ nữ. Lần này là lần đầu tiên phiên họp được bao nhiêu là phụ nữ đến dự.
Bài diễn văn của tôi là về vấn đề tài trợ cho việc phát triển Việt Nam thời hậu
chiến. Tôi đã bỏ nhiều tháng để nghiên cứu và phân tích các sai lầm của các nước
thuộc thế giới thứ ba, cứ chộp lấy tất cả các loại viện trợ tài chánh và chấp
nhận tất cả các khoản vay, mà không xem xét tới giá phải trả ngày mai và ảnh
hưởng của hai vấn đề đó trên vấn đề nợ nước ngoài trong tương lai. Vì đã chứng
kiến việc cho vay hỗn độn của các ngân hàng thương mại quốc tế trong thời gian
đứng đầu Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và Ngân Hàng Việt Nam Thương tín, tôi
nhận ra những dấu hiệu cho thấy tình thế khó khăn nghiêm trọng của các nước đang
phát triển, trên khoản nợ nước ngoài. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu kỹ lưỡng, tôi
đưa bài diễn văn cho vài người đồng nghiệp quan trọng ở IMF, cơ quan có trách
nhiệm về sự vững mạnh của hệ thống tiền tệ thế giới. Tôi quan niệm IMF phải kiểm
soát gắt gao hơn việc vay mượn của các nước thành viên, phải yêu cầu các ngân
hàng thương mại thận trọng hơn trong việc cho vay; và nhất là đặc biệt chú ý
đến tình cảnh nợ rối ren của thế giới thứ ba. Những người đồng nghiệp của tôi,
vì thiếu kinh nghiệm thực hành ngân hàng và vì không hiểu sự thiển cận của các
ngân hàng thương mại quốc tế, đã nói với tôi rằng việc các ngân hàng thương mại
cho các quốc gia thành viên vay “không phải là công việc của chúng ta ở Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế” và tôi không nên lo lắng về việc đó – tôi cũng tò mò muốn biết họ sẽ
nghĩ thế nào, khi sau đó, số các ngân hàng thương mại cho những nước thành viên
vay đã lên mức quá cao và đã bùng nổ, tạo nên một cơn khủng hoảng rất nghiêm
trọng cho hệ thống tiền tệ thế giới trong các năm 1970 và 80!. Rất thất vọng vì
thái độ vô trách nhiệm của chính cơ quan mình đang làm việc, tôi càng quyết tâm
hơn bao giờ hết bảo vệ đất nước Việt Nam của tôi khỏi những sai lầm này. Trong
bài diễn văn, tôi nhấn mạnh đến hậu quả của việc vay mượn quá nhiều đối với vấn
đề trả nợ trong tương lai, tôi phân tích hoàn cảnh thê lương của một số nước vay
mượn hoặc nhận viện trợ không đáng, quá nhiều, và khuyến cáo Việt Nam hãy chọn
lựa thật cẩn thận những khoản vay và những khoản tài trợ cho việc phát triển hậu
chiến để tránh những khó khăn mà nhiều nước hiện nay đang mắc phải. Để kết luận,
tôi đã đọc một lời kêu gọi đầy xúc động tới chính phủ và nhân dân Việt Nam, nói
rằng viện trợ nước ngoài và hỗ trợ tài chánh là những viên thuốc đắng bọc đường,
và có lẽ đắng nhiều hơn ngọt … và tôi khuyến cáo Việt Nam nên sử dụng viện trợ
nước ngoài một cách hữu hiệu hơn để có kết quả tối đa nhằm mau chóng thoát khỏi
giai đoạn ngửa tay xin viện trợ nước ngoài và dành lại sự độc lập cho mình. Cử
tọa vỗ tay cuồng nhiệt và phiên họp cuối cùng được đặc biệt đánh giá cao. Ngày
hôm sau tất cả các tờ báo ở thủ đô Sài Gòn đã trích dẫn bài diễn văn của tôi
ngay trên trang đầu với một loạt lời khen ngợi và tờ Đại Dân Tộc thì đăng toàn
bộ bài diễn văn. Báo chí đối lập đã dùng lời kết thúc của tôi để công kích chính
sách của chính phủ. Trong buổi tiếp tân sau đó, rất nhiều nhà kinh tế Việt Nam
và nước ngoài đã đến nói với tôi rằng đó là bài diễn văn hay nhất và bài nghiên
cứu sâu sắc nhất trong suốt một tuần lễ của khóa hội thảo. Trong bài diễn văn,
khi nói về những khoản vay quá “mắc”, với lãi suất mà Việt Nam không thể nào trả
nổi, tôi có ám chỉ đến khoản vay đang được thương lượng với Pháp về việc phát
triển nhà máy xi-măng Hà Tiên. Vài ngày sau tôi được một quan chức cao cấp trong
bộ Tài chánh Pháp là ông Fieve đến thăm. Fieve phản đối lời khẳng định của tôi
cho rằng khoản cho vay của Pháp không thể chấp nhận được đối với Việt Nam vì lãi
suất cao quá. Fieve là một Thanh tra tài chánh Pháp và là một người bạn cũ của
tôi, tôi rất trọng các quan điểm của ông nhưng tôi vẫn giữ vững ý kiến của mình.
Trong khi làm việc với tư cách là Uỷ viên dự
khuyết của Hội đồng Quản trị IMF, tôi cũng đảm nhận trách nhiệm liên lạc giữa
hai cơ quan chị em song sinh của Bretton Woods là IMF và World Bank với chính
phủ Việt Nam. Tôi tham dự tất cả các buổi tham khảo giữa IMF và Việt Nam và tất
cả các cuộc thảo luận giữa Việt Nam với World Bank. Lần lần tôi hết ảo tưởng với
hai tổ chức này. Cả hai đều mang tính chất chính trị nhiều hơn là chuyên môn và
cả hai đều mang một thái độ mập mờ và sai lệch đối với Việt Nam; trong lúc theo
lời tôi khuyến cáo, Việt Nam lại luôn luôn hoàn thành trách nhiệm thành viên của
mình và thi hành đúng những sự đòi hỏi của IMF và World Bank. Mặc dù những lời
hứa được lập đi lập lại, Việt Nam chưa bao giờ nhận được một khoản viện trợ nào
từ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế hay từ Ngân Hàng Thế Giới. Mc Namara, Chủ tịch Ngân Hàng
Thế Giới, người trước đây là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống Johnson
nên có liên quan chặt chẽ với cuộc chiến tranh Việt Nam: ông ta luôn luôn sợ các
nhóm chống chiến tranh lên án là thân Việt Nam. Trong Hội đồng Quản trị Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế (IMF), những người đại diện cho các quốc gia trung lập luôn luôn có
cảm tình với miền Bắc Việt Nam và do đó có khuynh hướng ác cảm với miền Nam Việt
Nam. Những phái đoàn IMF và World Bank thăm viếng Việt Nam luôn luôn được đón
tiếp bằng thảm đỏ ở Sài Gòn và các thành viên của họ luôn luôn được Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam chiêu đãi thịnh soạn. Một vài người trong phái đoàn đã lợi
dụng lòng hiếu khách của chúng tôi và đã xài một lượng lớn khác thường các loại
rượu ngon luôn luôn đầy đủ cho họ thưởng thức. Vì những lý do an ninh, chúng tôi
mời họ về ở trong những căn hộ lộng lẫy phía trên Ngân Hàng Quốc Gia, mỗi căn
rộng hơn 500 mét vuông, và chúng tôi mời họ mỗi ngày ba bữa cơm thịnh soạn, họ
không phải tốn một xu trong khi vẫn được cơ quan của họ trả lương và phụ cấp
công cán đầy đủ. Thế nhưng tôi rất ngao ngán vì thái độ của hầu hết bọn họ năm
1975 sau khi Nam Việt Nam thất thủ; họ đã trở bộ quay qua tán tỉnh Hà Nội, làm
tất cả mọi điều có thể được để vui lòng Hà Nội. Ngay sau khi miền Nam sụp đổ, họ
đã đổ xô về Hà Nội để hỗ trợ tài chánh mặc dù, theo như lời họ nói, Hà Nội luôn
luôn từ chối thực hiện những nghĩa vụ của một thành viên và không chịu thông báo
các số liệu thống kê mà họ yêu cầu. Các nhân viên của các tổ chức Bretton Woods
là những nhân viên dân sự quốc tế, được coi là không mang tính chính trị trong
thái độ đối với các nước thành viên, nhưng hầu hết bọn họ không cưỡng lại được
sự cám dỗ thiên về xu hướng chính trị riêng tư của mình, và xu hướng này thường
bị tác động bởi chính phủ của họ ở quê nhà.
Sự kính trọng của tôi đối với Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế, IMF đã bị xói mòn nghiêm trọng sau khi tôi tham dự những cuộc thảo luận
giữa các phái đoàn IMF và các quốc gia thành viên. Nhân viên IMF chỉ được đào
tạo lý thuyết trường ốc và thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong các lãnh vực liên
quan, họ giỏi về lý thuyết nhưng bất lực trong thực hành, và lúc nào cũng hách
dịch. Sống trong cảnh giàu sang của quốc gia phát triển nhất thế giới là Mỹ, và
được trả một loại lương cao hàng đầu thế giới, làm việc trong những trung tâm
hiện đại nhất và tiện nghi nhất, tắm trong ánh hào quang và uy tín của những tổ
chức quốc tế, họ hoàn toàn không biết đến cuộc sống khó nhọc ở các nước thế giới
thứ ba. Ngay cả những nhà kinh tế trẻ tuổi đến từ các nước đang phát triển cũng
thường bị uốn nắn theo khuôn khổ này bởi họ thường xuất thân từ những gia đình
giàu có, rời quê hương ra đi rất sớm để học tại châu Âu hay Mỹ; họ chưa bao giờ
bị phơi ra thực tế khắc nghiệt của quê hương họ. Các nhân viên IMF có nhiều
quyền lực bởi vì các nước thành viên luôn luôn sợ bị họ trừng phạt; họ thường có
những yêu cầu rất lý thuyết mà không hề đếm xỉa gì đến ảnh hưởng của viên thuốc
đắng ấy đối với đời sống chính trị xã hội trong đất nước mà họ thăm viếng; họ
liệt kê những điều kiện của họ rồi bỏ về Washington, đôi khi để lại đằng sau
mình những cuộc nổi loạn hay phản kháng ở tầm mức quốc gia gây nên bởi những
chuyến công tác của họ; có nhiều chính phủ đã sụp đổ, hoặc rơi vào cảnh khó khăn
nghiêm trọng với dân chúng sau một chuyến viếng thăm của một phái đoàn IMF.
Ở Phi Luật Tân năm 1971, trong khi những bất
ổn xã hội và những rối loạn chính trị đang hoành hành đất nước, và ngay giữa
lòng một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, trong khi thu nhập bình quân của
tầng lớp thấp tại thủ đô Manila chỉ có 50 xu (tiền Mỹ) một ngày, trong khi đất
nước đang bị phá sản và số dự trữ ngoại tệ đã gần như hoàn toàn biến mất, thì
phái đoàn IMF lại nằng nặc đòi chính quyền hạ giá đồng bạc và xóa bỏ mọi hạn chế
về kinh doanh để cho phép nhập cảng các loại xe hơi đắt tiền và các món hàng xa
xỉ phẩm nhân danh tự do kinh doanh. Về mặt chính trị và xã hội thì đây là một
điều cực kỳ phi lý, nhưng chính phủ Phi Luật Tân phải nghe theo vì sợ bị từ chối
viện trợ tài chánh. Tương tự như vậy tại nhiều thời điểm khác nhau ở Chi-lê, ở
Pê-ru, ở Tanzania, ở Srilanka, Colombia, Nigeria và các nước thành viên khác,
các chính phủ đều cảm thấy cay đắng trước thói hách dịch, sự thiếu quan tâm đối
với con người và hoàn cảnh chính trị của các nhân viên IMF, khi họ áp đặt những
biện pháp cải cách.
Khi tôi còn là một thành viên của Hội đồng
Quản trị IMF, tôi được nghe một số quan chức trong chính phủ của vài quốc gia
thành viên kể về những chuyện tham nhũng và mất tư cách của một số nhân viên IMF
có địa vị cao khi đi công tác: một vị giám đốc một sở của IMF, mê gái nổi tiếng,
trong một chuyến công tác qua một nước Á Châu, sau một chầu ăn tối thịnh soạn,
đã bảo với nhân viên liên lạc là ông ta muốn được cấp một chiếc xe Cadillac để
đi chơi và chiếc xe đó phải có người xinh đẹp “ngồi ở trong”. Một thành viên
khác trong một chuyến quá cảnh ngang qua Singapore, phiền lòng vì không có ai
đại diện chính phủ ra đón tiếp anh ta tại phi trường, đã có một lời “phiền trách
chính thức” đối với chính quyền sở tại. Tôi được nghe các quan chức của một quốc
gia kể lại là một vị phó Giám đốc sở của IMF, vốn là một tay nghiện rượu, trong
một chuyến viếng thăm đã đòi hỏi phòng anh ta ở phải chất đầy rượu Johnny Walker
Black Label, và chỉ nhãn hiệu Black Label mới chịu. Sau này chính mắt tôi thấy
nhiều nhân viên cao cấp tổ chức những chuyến công tác riêng cho mình để có thể
ghé thăm quê nhà thường xuyên hoặc để các chính quyền sở tại chiêu đãi, ngoài ra
không có mục đích thật sự, không có lý do chính đáng. Nhìn lại thời kỳ mà Nam Việt Nam là thành viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), bây giờ tôi nhận ra là việc nghiêm chỉnh thi hành điều lệ, những cuộc chiêu đãi ngoại giao thịnh soạn, mồ hôi và sự quan tâm của chúng tôi đối với các phái đoàn IMF viếng thăm chỉ là một sự phí phạm vô ích; điều duy nhất mà IMF đem lại cho nền kinh tế và cải cách tiền tệ Việt Nam chỉ là cái danh của IMF, để làm cho dân chúng Việt Nam bớt một phần cay đắng. Đó là tất cả những gì chúng tôi đã thu được từ IMF. Giờ đây tôi cảm thấy mình có trách nhiệm về tất cả các việc này vì từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng Việt Nam gia nhập IMF (1955-1975) tôi luôn luôn đòi hỏi phía mình giữ đúng điều lệ và trải thảm đỏ đón tiếp các phái đoàn khảo sát của IMF. Việc tuân thủ các quy định của nước thành viên là một cuộc thực tập có ích cho nhân viên Ngân Hàng Quốc Gia và nhân viên bộ Tài chánh, những cuộc thảo luận quanh vấn đề khảo sát cũng giúp hiểu biết thêm nền kinh tế và tiền tệ Việt Nam; nhưng việc trải thảm đỏ và những vụ tiếp tân thịnh soạn chỉ là điều hoàn toàn phí phạm; một vài nhân viên của IMF đã lợi dụng lòng hiếu khách rộng rãi của chúng tôi và sự đón tiếp nồng hậu của chúng tôi nhưng để đền đáp lại, họ không hề tỏ một chút quan tâm nào đối với các khó khăn kinh tế do chiến tranh gây ra hay một chút cảm tình nào đối với các khó khăn chính trị và xã hội do những toa thuốc của họ kê ra ngay giữa lòng cuộc chiến. Cuối tháng 11/1974, tôi quyết định về Sài Gòn để quan sát tình hình, thu thập các sự kiện và thông tin để quyết định. Tôi gặp ông Thiệu, một lần nữa ông ta yêu cầu tôi trở về giúp cho chính phủ. Tôi nói với Thiệu rằng tình hình kinh tế cũng như chính trị rất là nghiêm trọng và theo tôi, chính phủ cần có tất cả sự ủng hộ của dân chúng mới có thể tiếp tục chiến đấu được, và chánh phủ cần phải quét sạch mọi tham nhũng và bất lực ra khỏi chính quyền, để cho dân chúng có một niềm tin và hy vọng; bước cụ thể đầu tiên là loại bỏ tất cả những con người tham nhũng trong đám cận thần của ông ta, đặc biệt là viên tướng tham nhũng nổi tiếng nhất, cánh tay phải của ông ta - một bước đi sẽ làm cho đa số quần chúng hoan nghênh. Thiệu không nói một lời về đề tài này, và như vậy đã làm tôi tin rằng chính ông ta cũng dính sâu hay ít nhất cũng có trách nhiệm trong các hoạt động bất chính này. Cuối buổi họp, Thiệu thử thách lòng yêu nước của tôi và yêu cầu tôi hãy chứng tỏ là tôi sẵn sàng phục vụ đất nước nếu các “điều kiện” thích hợp. Ông ta yêu cầu tôi hãy quay về nước trước đã, rồi sẽ bàn với ông ta các điều kiện làm việc mà tôi yêu cầu. Tôi quay về Washington với quyết tâm làm gì đó cho đất nước vào giờ phút nguy kịch này. Tôi dự định quay trở lại Sài Gòn với một số vật dụng gia đình để tỏ cho ông Thiệu thấy là tôi sẵn sàng về nước phục vụ nếu các điều kiện mà tôi yêu cầu được đáp ứng. Trong lúc đó Bắc Việt bắt đầu thăm dò sức chống cự của miền Nam để mở một cuộc tấn công tổng lực; họ được khuyến khích bởi thái độ thay đổi của quốc hội Mỹ và áp lực khổng lồ đè lên chính quyền Nixon do các phong trào chống chiến tranh càng ngày càng lan rộng tạo ra. Sau một sai lầm vụng về trong việc dùng binh của T.T. Thiệu và các Tướng lãnh của ông ta, Bắc Việt tiến quân vào miền Nam và mau chóng gia tăng thế lực nhằm tấn công xuống phía Nam. Tôi đáp máy bay xuống Sài Gòn đầu tháng Ba 1975 và gặp T.T. Thiệu nhưng ông đang lo lắng về cuộc tấn công của miền Bắc và sự sống còn của bản thân hơn là cải thiện hình ảnh chính phủ của ông. Tuy nhiên ông ta vẫn nói tôi tham gia chính phủ để phục vụ; nhưng tôi tin rằng việc tham gia chính quyền Thiệu vào giờ phút trễ tràng này là một điều hết sức vô ích, khi chính bản thân ông ta từ chối những biện pháp quyết liệt để được lòng dân chúng. Có lẽ trong những trường hợp tuyệt vọng như thế này, cơ hội duy nhất để tránh một thảm họa cho miền Nam là cố gắng vào giây phút chót thương thuyết với Hà Nội. Giờ đây khi tôi đã về lại Sài Gòn và không còn được “bao nhiêu ánh sáng ở cuối đường hầm”, có lẽ tôi nên cố thử làm một điều gì đó trước khi buông xuôi tất cả. Tôi nói với T.T.Thiệu rằng đối diện với quyết tâm của Hà Nội muốn mở một cuộc tổng tấn công cuối cùng, cách duy nhất mà tôi có thể giúp là chấp nhận vị trí Bộ trưởng Ngoại giao với một mục tiêu đặc biệt: thương thuyết với Hà Nội và cố gắng đi đến một sự thông cảm để tránh chiến tranh và đau khổ cho dân Việt Nam trước khi quá trễ. Ông ta hỏi tôi làm sao tôi có thể thành công khi mà Kissinger đã thất bại; tôi trả lời Thiệu là dù Kissinger có giỏi bao nhiêu đi nữa nhưng ông ta cũng không phải là người Việt Nam; hơn nữa tôi luôn luôn có cảm giác ngay từ lúc đầu là ông Kissinger chỉ lo đến quyền lợi của Hoa Kỳ, và trong lòng ông, không bao giờ ông thật lòng đếm xiả đến số phận của miền Nam Việt Nam. Tôi tin rằng ngay từ lúc đầu, khi bắt đầu thương thuyết với Bắc Việt, ông đã có trong lòng ý nghĩ riêng tư, chỉ lo việc chánh là rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam, với bất kỳ với một giá nào, kể cả việc hy sinh miền Nam Việt Nam.
Vào giờ phút
cuối cùng này, chỉ còn một hy vọng rất mong manh làngười Việt Nam ngồi nói chuyện với nhau, có thể đồng ý được về một sự dàn xếp
nào đó mà một người Mỹ nói chuyện với người Việt Nam không thể làm được.
T.T.Thiệu nói ông ta không muốn thương thuyết mà chỉ muốn chiến đấu cho đến
người cuối cùng. Sau này mỗi lần tôi nhớ đến câu nói này
của ông ta, tôi không khỏi nghĩ đến sự sai lầm quá trầm trọng cho đất nước khi
ông cho lệnh quân đội rút khỏi Kontum, Pleiku – buồn cười thay, so với ý chí
chiến đấu đến cùng – để cho quân đội và hàng trăm ngàn thường dân bị địch quân
tiêu diệt trên đường rút lui. Khi nghe câu đó của ông, tôi không khỏi nghĩ ngay
là, dĩ nhiên ông ta nói vậy để rồi chạy trốn. Nhưng nhìn lại cuộc thảm hại kinh
hoàng chiến tranh đã để lại, về cả mặt chính trị lẫn xã hội, khi Sài Gòn thất
thủ, người ta có thể nghĩ rằng nếu Thiệu ráng thử ý kiến thương thuyết trước khi
quá trễ, thì ông ta có thể tránh được biết bao nhiêu tổn thất và đau khổ
cho toàn dân Việt Nam, miền Nam cũng như miền Bắc.
Tôi quyết
định từ bỏ cái ý tưởng tham gia chính quyền, khi chứng kiến những nỗi cực khổ
khủng khiếp của làn sóng người khổng lồ chạy trốn chiến tranh từ Huế và Đà Nẵng.
Thay vì ra đi, tôi quyết định ở lại để giúp tổ chức có trật tự hơn các làn sóng
người tị nạn, nhằm giảm bớt sự đau khổ của dân chúng bỏ nhà bỏ cửa mà ra đi, sau
khi nghe T.T.Thiệu cho lệnh rút quân. Tôi bàn với Yves Prunier, một người bạn
trong ngành vận tải đường biển; và chúng tôi đã nhận được lời hứa của một tay
trùm ngành vận tải đường biển ở Hồng Kông cho chúng tôi mượn hai chiếc tàu chở
khách, mỗi chiếc có thể chở 70.000 người tị nạn.
Tôi móc nối
với phó Thủ tướng
Phan Quang Đán đang phụ trách vấn đề tị nạn nhưng Đán lề mề suốt 10 ngày
mặc dù tôi gọi điện thúc giục liên tiếp, và cuối cùng thì Đán lịch sự từ chối.
Tôi được những người phụ tá của Thiệu và Đán cho biết sự thật, chính phủ không
muốn đưa biển người chạy nạn vào Nam vì sợ họ sẽ gây nên những khó khăn rất lớn
cho chính phủ. Lẽ ra họ phải nói cho tôi biết trước để tôi khỏi phí thời gian
quý báu và để cho tôi có thể tổ chức một cuộc giúp đỡ khác để phụ giúp những
người tị nạn quá khốn khổ. Dù sao đi nữa thì quân đội Bắc Việt cũng tiến quá
nhanh và việc di tản hàng triệu con người tị nạn là một công việc không thể thực
hiện được.
Thế rồi tôi
nảy ra cái ý nghĩ là làm sao cho thế giới bên ngoài biết nỗi khổ của người tị
nạn Việt Nam để có thể được tài trợ tiền bạc hay vật dụng giúp họ. Với sự giúp
đỡ của một vài người bạn khá giả, tôi gởi một toán ca-mê-ra vào vùng chiến sự để
quay phim cảnh đoàn người chạy trốn cùng tất cả nỗi khổ của họ. Tôi gởi một cuốn
phim như vậy qua Hồng Kông, trên đường tới nước Mỹ nhưng cuốn phim không bao giờ
tới được đích vì quân đội Bắc Việt tiến quá nhanh và sự hoảng loạn trong dân
chúng làm cho tất cả dịch vụ công cộng đều bị rối beng. Cảm thấy rằng không còn
gì nữa để giúp xứ sở và dân chúng, tôi quyết định ra đi trước khi quá trễ. Tôi
thu xếp để đưa được một vài người bạn ra khỏi Việt Nam cùng với các chuyến di
tản của cộng đồng người Mỹ.
Tôi gọi điện
cho Võ Long Triều và khuyên anh ta nên rời đất nước; tôi sẽ giúp anh bằng mọi
cách vì tôi biết anh ta không có đủ liên hệ cần thiết với người Mỹ để đưa cả gia
đình ra đi. Tôi không nghĩ rằng Triều sẽ nhảy xổ tới chộp lời đề nghị của tôi,
nhưng anh ta cũng không chống đối ý kiến này. Vì là một gương mặt đối lập chính
với chế độ Thiệu, đương nhiên là anh ta tin rằng chế độ mới ít nhất cũng để yên
cho anh. Rất nhiều người lãnh đạo phe đối lập cũng tin rằng vì họ đã từng chống
đối mạnh mẽ chế độ của ông Thiệu, họ sẽ được chế độ mới hoan nghênh hay ít nhất
cũng coi họ là “trung lập” và cuối cùng họ có thể thu xếp để sống yên bình. Có
nhiều người trong bọn họ tin rằng miền Bắc sẽ nhớ ơn họ vì đã chống T.T. Diệm và
T.T.Thiệu và gây nên những rối loạn ở Sài Gòn. Rõ ràng họ không biết rằng những
nhà lãnh đạo mới có ý kiến riêng của họ. Võ Long Triều có lẽ cũng nghĩ như những
người kia, nhưng anh ta cũng đủ thông minh để gởi một người phụ tá tên là Nam
Đình, một người có khuynh hướng thiên tả và là một cán bộ nằm vùng – sau này
chúng tôi mới biết – vào rừng để dò hỏi những người chỉ huy Việt Cộng xem anh ta
có được chế độ mới đối xử tử tế hay không. Phía Việt Cộng trả lời rằng họ đánh
giá cao thái độ can đảm của anh trong những năm sau này, tuy nhiên họ cần phải
xem xét trường hợp của anh sau khi họ nắm chính quyền. Triều cũng đủ thông minh
để nhận ra rằng anh ta không phải là một thần tượng của họ. Anh ta gởi lời nhắn
tôi là anh ta chấp nhận lời đề nghị của tôi để đưa anh và gia đình anh di tản.
Không may thay, anh bị T.T.Thiệu đặt vào chế độ quản thúc tại gia và bị canh giữ
đêm ngày bởi một lực lượng cảnh sát 12 người.
Anh không thể
gọi điện cho tôi, và tôi rời khỏi Sài Gòn ngày 7 tháng 4 trên một trong những
chuyến bay thương mại cuối cùng ra khỏi Việt Nam. Sau khi chế độ mới lên cầm
quyền, anh được thoát khỏi chế độ quản thúc nhưng không lâu sau đó lại bị bắt
giam ở khám Chí Hòa. Sức khoẻ của anh xuống dốc nhanh chóng vì các điều kiện
giam cầm. Tôi đã nhờ Thủ tướng Antoine Pinay can thiệp giúp anh, nhưng Hà Nội
làm ngơ lời yêu cầu của chính quyền Pháp.
Trước khi rời
Việt Nam tới Hồng Kông, tôi tới tòa Lãnh sự Mỹ để xin cấp visa vào Mỹ mặc dù tôi
đã có một giấy thông hành ngọai giao của Liên Hiệp Quốc – một hành động thận
trọng của IMF – để tôi tạm sử dụng cho đến khi tôi quyết định dứt khoát trở về
IMF hay rời khỏi cơ quan này; đó là một biện pháp tạm thời để bảo vệ tôi trong
chuyến về thăm Việt Nam. Tôi sẽ luôn luôn nhớ thái độ hống hách của viên Phó
Lãnh sự Oh, một người Mỹ gốc Đại Hàn trả lời rằng anh ta (tức là tòa Lãnh sự Mỹ)
không biết tôi! Câu trả lời quả là kỳ dị đối với một người đã từng làm việc
nhiều với tòa Bạch Ốc và tất cả các viên Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn suốt 20 năm qua.
Đại sứ Ellsworth Bunker, người mà tôi quen rất nhiều đã rời Sài Gòn, còn tôi thì
chưa tiếp xúc với viên Đại sứ mới, ông Martin.
Về
Washington, tôi ngồi xem trên truyền hình những ngày cuối cùng của miền Nam Việt
Nam, khi những cảnh tan rã của đất nước mở ra lần lần trước mắt tôi trên màn
ảnh, tôi cảm thấy một nỗi buồn sâu đậm và một cảm giác tức giận và xấu hổ. Làm
sao chúng tôi có thể để mất một mảnh đất đẹp đẽ như vậy, một đất nước đáng
thương yêu như vậy? Tin tức về việc các Tướng lãnh và các vị lãnh đạo chính trị
tới các trại tị nạn với những túi xách và vali đầy tiền làm tôi tức giận hơn
nữa. Truyền hình và báo chí tường thuật rằng khi tướng Kỳ được bà Ford phỏng vấn
ở trại tị nạn, Kỳ đã nói với bà là ông ta chỉ có 30 đồng trong túi! Làm sao ông
ta có thể mua được một căn nhà và hai chiếc xe hơi ở bang Virginia không lâu sau
đó và làm sao ông ta có thể mua được một cái tiệm rượu, và bà vợ của ông ta có
thể cúng biết bao nhiêu là tiền trong các sòng bạc, như báo chí đã đưa tin?
Một vài tháng sau tôi nhận được nhiều cú gọi liên tiếp của một Nghị sĩ quốc hội
Canada và một Giáo sư đại học ở Montreal nói cho tôi biết là họ đang cố trục
xuất hai vị lãnh đạo Việt Nam nổi tiếng tham nhũng, bởi vì một nhân viên di trú
Canada đã sai lầm khi cho phép họ nhập cư, trong khi không có một quốc gia nào
chịu nhận hai người này. Họ nói với tôi rằng họ muốn tống cổ ra khỏi Canada một
viên tướng hết sức tham nhũng vốn là cánh tay phải của ông Thiệu và là một tay
kinh doanh mà ai cũng biết đã từng phỗng tay trên một ngân hàng ở Sài Gòn bằng
những biện pháp bất chánh. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy viên Nghị sĩ Canada có
thông tin hết sức chính xác về hai người này, nhưng ông ta cũng muốn thêm thông
tin từ một viên Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương để lập thành một cáo trạng đúng
luật chống họ. Tôi không cho một thông tin nào thêm cả, nhưng vị Nghị sĩ và vị
Giáo sư nói với tôi là họ sẽ trình một đạo luật lên quốc hội Canada để tống cổ
hai người kia ra khỏi nước họ. Không may thay cho vị Nghị sĩ Canada, không một
nước nào muốn nhận hai người đó cả và vì vậy theo luật pháp của Canada, chính
quyền không thể đuổi họ.
VIII. SỰ NGHIỆP
QUỐC TẾ LẦN THỨ 3
Khi tôi trở lại Washington vào tháng 4/1975, tôi vẫn phân vân lưỡng lự giữa hai
khả năng: hoặc quay lại World Bank làm việc với Bill Diamond, hoặc về IMF với
Ian Mladeck, người đã đề nghị tôi gia nhập Sở Ngân Hàng Trung Ương (CBS) làm
việc với ông, sau khi tôi rời chức vụ trong Hội đồng Quản trị. Tôi chọn công
việc thứ hai; tôi được mời giữ chức vụ Cố vấn, thích hợp với kiến thức chuyên
môn và nguyện vọng của tôi hơn. Tôi bắt đầu vào CBS tháng 5/1975; công việc của
tôi là hỗ trợ kỹ thuật cho những quốc gia đang phát triển trong lãnh vực ngân
hàng thương mại và ngân hàng trung
ương; công việc rất thú vị và tôi rất thích việc mình đang làm. Công việc làm
của tôi co hai loại:
-
Một là xem xét nghiên cứu lại những chương trình viện trợ kỹ thuật của CBS đã
làm trong mấy năm qua và nghiên cứu lại những văn kiện đã viết ra và lưu lại sau
khi thi hành các chương trình viện trợ; - Hai là đi công cán ở các xứ đang phát triển cần sự giúp đỡ kỹ thuật của CBS về vấn đề ngân hàng trung ương và ngân hàng thưong mại.
Tùy theo lịch trình công cán viện trợ kỹ thuật, tôi dùng thi giờ còn lại để tìm
hiểu những gì đã thực hiện được trong những chuyến đi công cán của nhân viên
CBS, và nhất là những luật pháp ngân hàng trung ương hay ngân hàng thương mại,
CBS đã đề nghị cho các nước hội viên. Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một đoạn
sau, vì ngay từ lúc đầu, tôi đã thấy rõ công việc nầy rất rộng lớn và phải tốn
nhiều thì giờ. Ở
Sở CBS, Ban giám đốc gồm có những vị từ các ngân hàng trung ương đến, nhưng phần
nhiều là những người của các sở hành chánh ngân hàng, hay những người do cơ quan
cũ cuả họ cho ”lưu đày” vì có lầm lỗi hay làm mất lòng “sếp”. Cho nên khi đề
nghị những chuyến công cán, họ không đủ hiểu biết về chuyên môn, không chọn đúng
người đúng việc. Đó là những gì đã xảy ra trong những chuyên đi công cán đầu
tiên của tôi.
Sau khi Comores được Pháp giao trả dộc lập, thì đất nườc bé nhỏ này --lúc ấy chỉ
có vào khoảng 100 000 dân--, ngày trước dính vào thuộc địa Madagascar của Pháp,
nhưng khi được tách rời ra dể thành một nước độc lập cỏn con, thì các ngành hành
chánh, tiền tệ, chính trị cũng còn “dính” với Pháp rất nhiều. Comores xin Quĩ
Tiền Tệ Quốc Tế viện trợ kỹ thuật để tổ chức lại Ngân hàng truong ương họ mới
thành lập. Tôi được phái đi, cùng với một người do Sở Châu Phi cử đi theo, để
giúp chánh phủ Comores lập thống kê và lập ra những phương thức thi hành nghĩa
vụ làm hội viên Quỉ Tiền Tệ Quốc Tế
(IMF). Nhưng Sở CBS, cũng như Sở địa dư Châu Phi, không chỉ định rõ ràng công
việc và trách nhiệm của mỗi ngừơi và không chỉ định ai làm trưởng phái đoàn, mặc
dầu chức vụ của tôi cao hơn nhân viên kia, một ngừơi kinh tế học trẻ tuổi hơn
tôi, và không có sự hiểu biết, thực hành hay kinh nghiệm trong ngành ngân hàng
tí nào. Vì vậy mà công việc làm rất lúng túng.
Nhân viên thứ hai này là một ngừơi Ai Cập, kỳ thị và khinh bỉ dân Comores là dân
da đen. Là ngừơi gốc Ả Rập, da anh ta ít đen hơn dân Comores, và anh ta đối xử
với dân Comores như là ngừơi da trắng đối xử với ngừơi dân bản xứ da đen thời kỳ
thuộc địa; theo kiểu thầy với tớ, lớn tiếng la lối công chức
Comorien như ngừơi giúp việc của mình. Tôi rất bất bình, nhưng trong trường hợp
tổ chức phái đòan như vậy, tôi không dám nói gì hết.
Khi tôi được IMF cho vào hàng ngũ nhân viên của Quĩ, đổi chức vụ của tôi từ
“consultant” qua chức “adviser”, thì ông Phó Giám Đốc người Miến Điện cùng với
ông “sếp” ngừơi Mỹ của tôi đã chống việc thay đổi chức vụ này. Ông Phó Giám Đốc
người Miến Điện thì bệ vệ quan lại như mấy ông quan của mình ngày xưa; ông sếp
Mỹ cùng với nhân viên Sở Hành Chánh, khi nghe tôi đã từng đuôỉ một Giám đốc Sở
Viện Trợ Mỹ và một cố vấn kinh tế Mỹ, và trục xuất bao nhiêu dân chợ đen chợ đỏ
Mỹ, thì không bằng lòng ra mặt, và từ đó có thái độ rất khó chịu đối với tôi.
Chánh phủ Comores cũng hiểu rõ IMF và mặc dầu sợ oai của nó, họ vẫn tỏ vẻ bất
bình. Trái lại đối với tôi họ rất nể nang trọng vọng vì họ biết sự am hiểu
chuyên môn của tôi. Ông Tổng Trưởng Tài Chánh, biết tôi đã đứng ra
thương thuyết với chính phủ Pháp, thường hay mới tôi lại Bộ của ông, một mình.
Ngòai việc nhờ tôi giúp viết luật lệ ngân hàng, ông còn hỏi han tôi về các vấn
đề thương thuyết với Pháp, và nhờ tôi thảo cho ông rất nhiều công văn cho chánh
phủ Pháp. Việc này không có trong sứ mệnh hay nhiệm vụ cuả tôi, nhưng tôi cũng
vẫn giúp ông sau khi tôi đã làm tròn công việc của IMF.
Đối với ông việc thương thuyết với Pháp quan trọng hơn việc tôi giúp cho ông
trong khuôn khổ viện trợ kỹ thuật. Ông thừơng hay mời riêng tôi về tư thất thết
đải, nhưng tôi phải nói, tôi rất ngại, vì thức ăn của ngừơi Comorien, rất lạ
lùng và rất khó ăn đối với tôi. Họ dùng một thứ trái cây làm ra “cơm”, và các
món ăn của họ thật là khó nuốt, nhưng họ lại có một thứ trái cây rất ngon, là
trái “fruit de la passion” với chất nước trong ruột rất thơm, rất ngon, làm ra
thức uống thật là tuyệt vời. Chánh phủ Comores rất kính nể tôi và thường nói họ
rất biết ơn tôi đã giúp họ thương lượng với Pháp ngòai công việc của Quĩ. Về
sau, nhiều lần chánh phủ Comores xin IMF gởi tôi qua giúp họ, nhưng Quĩ từ
chối, một phần vì biết rằng Comores sẽ nhờ tôi giúp về việc thương thuyết với
Pháp nhiều hơn là giúp về vấn đề viện trợ kỹ thuật, và một phần có lẽ vì nhân
viến thứ hai trong phái đòan không khỏi trình lại với IMF việc tôi đã giúp
chánh phủ Comores, không những trong phạm vi viện trợ kỹ thuật ngân hàng, mà còn trong phạm vi thương thuyết tiền tệ và tài
chánh với Pháp. Nhưng đó là môt lối nhìn quá thiển cận về vai trò viện trợ kỹ
thuật cho các nước nhược tiểu mới thành lập.
Lần thứ hai, tôi dược chỉ định làm hội viên một phái đoàn viện trợ kỹ thuật cho
Đài Loan về vấn đề luật ngân hàng. Trưởng phái đòan là viên phó giám đốc Sở CBS,
người Miến Điến, một nước gọi là trung lập, nhưng lại nghiêng về chánh phủ
Hanoi, và thiếu thiện cảm với Nam Viêt Nam. Tôi nghe nói ông là một cựu Thống
đốc Ngân hàng trung ương Miến Điện, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp thấy tài năng
của ông về ngành ngân hàng.
Khi phái đòan chúng tôi đến viếng thăm Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương Đài Loan,
Kuo Hwa Yu, tôi đi sau lưng ông Phó Giám Đốc CBS, và khi vào văn phòng Thống
đốc, ông Kuo Hwa Yu, bước ra để đón chào phái đòan, ông nhìn thấy
tôi, mỉm cừơi rồi bước thẳng đến tôi, bắt tay và vui vẻ hỏi thăm, vì tôi quen
ông từ lâu. Sau khi bắt tay tôi, ông mới quay trở lại và bắt tay cả phái đòan
của Quĩ. Tôi thấy ngay vẻ mặt khó chịu của ông Trưởng phái đòan chúng tôi. Sau
đó, trong những buổi hội họp giữa hai phái đoàn, các nhân viên khác của Đài Loan
cũng thừơng hay đến bắt tay và nói chuyện vui vẻ với tôi, vì tôi cũng quen biết
họ; điều này càng làm cho ông Trưởng phái đòan không một chút thiện cảm với tôi.
Tôi phải trình vấn đề lên ông Tổng Giám Đốc cuả Quĩ mới được nhận chức vụ mới.
Sau một thời gian làm việc ở Sở CBS, tôi mới biết cả hai ông đều từ bên hành
chánh qua, nên không có đủ hiểu biết và kinh nghiệm thực hành ngân hàng. Nói tóm
lại, mặc dầu là nhân viên của hai tổ chức quốc tế Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân
Hàng Thế Giới, và theo qui chế, cần phải giữ thái độ trung lập về mặt chính trị,
nhưng họ thường hay có hành động và thái độ rất kỳ thị do đường lối chính trị
cuả nước họ, và trong trừơng hợp cuả tôi, còn do sự đố kỵ với
kinh nghiệm thực hành ngân hàng cuả tôi. Họ thấy tôi “không phải là thành viên
Ban giám đốc” của họ.
Lần thứ ba, tôi làm Trưởng phái đoàn đi Lesotho, là một nứơc nằm trong vùng ảnh
hưởng của Nam Phi. Chúng tôi phải bay từ Paris qua Johanesburg ở Nam Phi, rồi
mới bay qua Lesotho được. Lesotho
cũng là một nước rất nhỏ, cần caỉ thiện lại ngành ngân hàng mới thành lập. Phái
đòan đựơc Sở Tư Pháp của Quĩ gởi theo một nhân viên trẻ, có bằng tiến sĩ Luật.
Trong việc bàn cãi hai bản dự thảo luật ngân hàng, anh ta đã nhấn mạnh một cách
quá đáng vào vấn đề nhân quyền, làm cho phái đoàn Lesotho rất bất bình, nên việc
dự thảo luật đâm ra thành một vấn đề chính trị giữa hai phái đoàn IMF và
Lesotho. Đối với một nước vừa mới được độc lập một phần nào thôi, nêu ra khiá
cạnh nhân quyền mạnh mẽ như vậy trong luật ngân hàng, quả là khôi hài, nhất là
khi Lesotho rất kém phát triển và vẫn còn các bộ lạc và một ông vua với một
chính thể phôi thai…Nhưng anh chàng Sở Tư Pháp này, tuổi còn trẻ, rất háo thắng,
nên không chiụ nghe lời khuyên cuả tôi nhằm giải quyết vấn đề nhẹ nhàng êm thấm
hơn.
Tuy nhiên vì cách tổ chức cuả phái đoàn kém rõ ràng, sự liên lạc giữa Sở Tư Pháp và Sở CBS
không được minh bạch, và sự cộng tác giữa hai Sở không bao giờ được êm đẹp, nên
tôi cũng không dám can thiệp vào vấn đề một cách mạnh dạn hơn. Đó là cũng một
yếu điểm của Sở CBS và IMF.
Rồi không bao lâu tôi khám phá ra là IMF còn thiên về chính trị nhiều hơn cả
World Bank, và chính trị đóng một vai trò rất lớn trong các quyết định của họ.
Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng kinh nghiệm chuyên môn và sự thạo nghề không
phải là những khía cạnh quan trọng nhất của một sự nghiệp đối với các nhân viên
IMF; rằng người ta cần phải chú ý tới những chuyện chính trị, những trò tranh
dành quyền lực, những mưu mô và những mối liên hệ quốc gia hay “bộ tộc”, hơn là
thông hiểu kỹ thuật và sở trường trong nghề nghiệp. Những nhân viên trong Ban
điều hành sở tôi đều có những bằng cấp cao, danh giá lớn, gây ấn tượng rất lớn
đối với các chính phủ hội viên, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn hoặc kiến
thức về ngân hàng tại các nước đang phát triển. Chỉ có hai người trong họ là
xuất thân từ các lãnh vực thực hành và nghiệp vụ ngành Ngân hàng Trung ương, nơi
họ làm việc trước khi gia nhập vào Sở Ngân Hàng Trung Ương ở IMF. Phần lớn những
người khác chỉ có kinh nghiệm hành chánh hay chính trị trong những cơ quan cũ
của họ trước kia. Và không có một ai được đào tạo về ngân hàng thương mại, ngân
hàng trung ương, và ngân hàng khuếch trương kỹ nghệ. Vì vậy mà công việc trợ
giúp kỹ thuật thật sự phải dựa vào các “chuyên viên” mà họ tuyển mộ và gởi tới
các nước đang phát triển cần giúp đỡ kỹ thuật; trong lúc đó các nhân viên cao
cấp thì ở lại trung ương để lo về phương diện hành chánh của chương trình như
tuyển mộ chuyên viên, thương thuyết về thời hạn và điều kiện bổ nhiệm, liên lạc
với chính quyền các nước nhận viện trợ, tổ chức phái đoàn thăm viếng v.v… Vì vậy
bất cứ khi nào họ nhận được một công tác hỗ trợ kỹ thuật hay nghiên cứu một vấn
đề kỹ thuật ngân hàng theo lời yêu cầu của một nước thành viên, họ rất lo lắng,
nhất là những người chỉ có kinh nghiệm hành chánh.
Hình 17. Tác giả dẫn
Phái đoàn Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế
Những
văn kiện họ viết cho chính phủ các nước thành viên phần nhiều chỉ đề cập các
khía cạnh lý thuyết và ít khi nói tới khía cạnh kỹ thuật và thực hành của vấn
đề. Cơ quan CBS có một phòng nghiên cứu đầy kinh tế gia; những tài liệu họ đưa
ra đều có chất lượng rất tốt nhưng lại không có ích lợi bao nhiêu cho các nước
đang phát triển vì các tài liệu này hầu hết đều mang tính lý thuyết và chỉ đề
cập tới những vấn đề ngân hàng của các nước đã phát triển hơn là của các nước
đang phát triển. Vì vậy mà các nước thành viên IMF cần sự hỗ trợ kỹ thuật, không
được giúp đỡ một cách cụ thể bao nhiêu. Việc thiếu kinh nghiệm thực hành và sự
kém hiểu biết những vấn đề ở các nước đang phát triển, đôi khi đã làm cho những
nhân viên cao cấp phạm những sự sai lầm buồn cười. Những lời đề nghị hoặc khuyến
cáo của họ dĩ nhiên là rất tinh tế, rất lý thuyết, nhưng hoàn toàn không áp dụng
được trong các điều kiện của những quốc gia họ muốn giúp đỡ. Ví dụ như một viên
nhân viên cao cấp xuất thân từ Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ (Federal Reserve), có
kinh nghiệm chủ yếu về ngành hành chánh, đã có một lần đề nghị một hệ thống máy
vi tính để “xác định” người đến đổi tiền cũ ra tiền mới, trong một chương trình
thay đổi tiền tệ của một Ngân Hàng Trung Ương (để tránh khách hàng đổi tiền
nhiều lần) cho một
nước vừa mới thoát khỏi cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài và bị tàn phá
nặng nề - Uganda -, với mọi tiện ích công cộng cũng như phương tiện giao thông
đều bị phá huỷ. Đó là chưa nói tới việc không có nhân viên có tay nghề và các
chuyên viên kỹ thuật được đào tạo hẳn hoi để vận hành và bảo quản những trang
thiết bị tinh tế như vậy. Một vị cố vấn khác đã dựa trên hệ thống kiểm tiền tốc
độ cao của Mỹ (với nhân viên kiểm ngân dùng máy đếm tiền tốc độ rất cao) để dùng
tổ chức một chương trình hoán đổi tiền tệ cho một Ngân Hàng Trung Ương, nơi mà
các kiểm ngân viên đều chỉ dùng tay để đếm. Một vị cố vấn thứ ba khi được giao
nhiệm vụ tổ chức lại hệ thống kế toán dự trữ ngoại tệ đã đưa ra những lời khuyến
cáo về thị trường hối đoái rất hay, nhưng lại không hề quan tâm đến việc kết hợp
sổ sách ngân hàng với các trương mục ngoại tệ ở nước ngoài; kết quả là trong
nhiều năm, ngay cả vị Thống đốc của Ngân Hàng Trung Ương và vị Nguyên thủ quốc
gia cũng không bao giờ dám chắc chắn rằng những tấm ngân phiếu tính bằng đô-la
của họ viết ra có được các ngân hàng liên quan ở nước ngoài thanh toán hay
không.
Không bao lâu tôi lại khám phá ra trong các hồ sơ của CBS có một tài liệu nghiên
cứu về các điều luật Ngân Hàng Trung Ương được IMF soạn thảo cho một số nước
thành viên, có chứa một sự lầm lẫn rất lớn; những nhân viên Ban điều hành soạn
thảo các điều luật này, đã đề nghị một cơ cấu hết sức phức tạp trong việc tái
định giá dự trữ ngoại tệ bằng một công thức sai lầm; vừa mới nhìn qua tôi đã cảm
thấy có một điều gì đó sai trong công thức này và khi tôi áp dụng nó vào những
trường hợp cụ thể được căn cứ trên các con số thống kê do IMF đã chánh tức thu
thập ở nước đó, thì không những công thức này không thể dùng được, mà nó còn dẫn
đến cái tình trạng mà chính công thức này được lập ra để tránh. Chín trong hai
mươi mốt điều luật Ngân Hàng Trung Ương IMF đã soạn thảo cho các nước thành viên
nằm trong chương trình hỗ trợ kỹ thuật đều có chứa công thức sai lầm này. Các
điều luật này đã được quốc hội các nước thành viên bỏ phiếu thông qua. Tôi viết
một bản phân tích được minh họa bằng những trường hợp cụ thể có liên quan tới
vấn đề, căn cứ trên số liệu thống kê của các nước thành viên mà IMF đã xuất bản,
nhấn mạnh sự sai lầm của công thức ấy. Tôi đề nghị IMF tìm cách để sửa chữa sai
lầm. Cấp trên của tôi và nhiều nhân viên cao cấp trong Ban điều hành đã sững sờ
khi nhìn thấy những sự cố này. Trong suốt hai năm họ cứ yêu cầu tôi viết đi viết
lại nhiều lần tờ trình phân tích của tôi, để bắt tôi trình bày vấn đề một cách
tổng quát hơn, làm cho loãng bớt sự sai lầm của công thức; nhưng họ tuyệt nhiên
từ chối không chịu sửa đổi. Đối với họ, cơ quan IMF và nhân viên Ban điều hành
CBS không thể thú nhận rằng mình đã sai lầm,
nhất là khi sai lầm này nằm trong các điều luật mà chính IMF đã đề nghị và đã
được các nước thành viên bỏ phiếu thông qua. Vấn đề sĩ diện mà! Và theo như tôi
biết, chín điều luật của chín quốc gia thành viên này từ đó đến nay vẫn chưa hề
được sửa đổi. Cơ
quan CBS thường được yêu cầu nghiên cứu toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc
gia và cung cấp các đề nghị để tái tổ chức hay hiện đại hoá hệ thống này. Vì các
nhân viên trong Ban điều hành, ngoài tôi ra, không hề có kiến thức căn bản về
ngân hàng thương mại, nên họ thường thuê những tay cố vấn ở bên ngoài giúp đỡ
công việc, nhưng thường khi người đứng đầu các phái đoàn công tác lại thiếu kiến
thức tối thiểu cần thiết để thảo luận nên họ thường chấp nhận lời đề nghị của
các chuyên viên thuê bên ngoài mà không tranh luận bao nhiêu. Có một lần theo
lời yêu cầu của một nước châu Mỹ La Tinh (Chi-lê) tôi đã viết một tiểu luận về
những điều thuận lợi và bất lợi của hệ thống ngân hàng universal banking
(ngân hàng nghiệp vụ tổng quát) trong Thế giới Thứ ba, với căn bản dựa trên đặc
điểm và điều kiện đặc thù của quốc gia này (universal banking là ngân
hàng làm tất cả các nghiệp vụ, không trừ một thứ nào, khác hẳn với các ngân hàng
đầu tư, canh nông, khuyếch trương, thương mại, vv...). Bản luận văn này rất dễ
hiểu và rất thực tế; những quan chức chính phủ của nước này khi được đưa coi bản
thảo một cách không chính thức, đã công nhận nó rất hợp lý và rất hữu ích; nhưng
người cấp trên của tôi, cũng chính là con người chưa bao giờ có kinh nghiệm ngân
hàng thương mại, người đã xuất thân từ một chức vụ hành chánh trong Ngân Hàng
Trung Ương, thì lại không thích nó, bởi vì một số hoàn cảnh thực tiễn và vài vấn
đề thảo luận trong bản luận văn rất mới mẻ đối với ông ta – đó là nói ít nhất.
Ông ta viết một bản luận văn khác hoàn toàn lý thuyết và triết học, không hề đề
cập tới những vấn đề cụ thể được chính phủ nước sở tại nêu lên, ví dụ như sự
thuận tiện và bất tiện của ngành ngân hàng nghiệp vụ tổng quát trong một nước
đang phát triển. Đó là một bản luận văn kém chất lượng, nhưng vì ông ta đã tuyên
bố không chấp nhận bản luận văn của tôi, ông ta đưa bản luận văn của ông cho
chính phủ nước kia, và những người này lặng lẽ, tìm đến tôi để xin lại bản luận
văn của tôi.
Thời gian trôi qua, càng lúc tôi càng khám phá thêm nhiều sai lầm nữa, và tôi
càng cảm thấy thất vọng và buồn giận bởi vì không những tôi không được phép sửa
chữa những sai lầm này mà tôi còn bị buộc vào cái tội là không phải “một thành
phần của Ban”, “thành phần” có nghĩa là phải chấp nhận tất cả mọi điều được Sở
CBS gợi ý hay đề nghị, không cần biết đúng hay sai. Lần lần tôi mất dần ảo tưởng
với Sở và với cả IMF bởi vì chất lượng kém cỏi của Sở cũng phản ảnh lại trên uy
tín của IMF. Ví dụ như có một đại diện IMF ở một nước Trung Mỹ được giao cho
nhiệm vụ đầy quyền thế là kiểm soát tình trạng rối ren của hệ thống tiền tệ, đã
không bao giờ nhận ra được rằng đồng tiền quốc gia ở đó có chứa đựng một điều
khoản quan trọng in trên mỗi tờ giấy bạc là đồng tiền này được hoán đổi qua đồng
đô-la Mỹ theo một tỷ suất cố định. Đây là một điều kiện rất nguy hiểm và đầy bất
trắc bởi vì đồng bạc ấy đã sụt giá nhiều rồi, đã trở nên rất quá yếu và có thể
bị phá giá bất cứ lúc nào; trong trường hợp đó dân chúng có quyền đòi hỏi, một
cách hợp pháp, chính quyền đổi tiền của họ ra tiền đô-la Mỹ với tỷ giá hối đoái
cố định cũ. Khi tôi vạch rõ sự nguy hiểm này cho chính phủ sở tại, họ đều bị
chấn động; thể theo lời yêu cầu của họ, tôi đề nghị xóa điều khoản ấy một cách
kín đáo và huỷ bỏ điều cam kết; bằng cách lặng lẽ in các đồng bạc mới nhưng
không có điều khoản nguy hiểm trên và thay dần cho những đồng tiền cũ. Nhưng vị
đại diện IMF rất không bằng lòng với sự khám phá của tôi về điều khoản nguy hiểm
này trên tờ giấy bạc Haiti, vì ông không bao giờ để ý đến điều đó – và sau này
đã tạo đủ thứ khó khăn cho tôi ở Sở CBS và cơ quan IMF. Trong những lần thảo
luận với các cấp chính quyền nước sở tại, tôi đã phát hiện ra thêm nhiều điểm
thiếu sót và yếu kém trong hệ thống tiền tệ và tất cả các Bộ trưởng đều đi tới kết luận là các vị đại diện
IMF lâu nay đóng đô trong nước họ không phải là những người có năng lực nhất thế
giới như họ đã tưởng lầm. Tôi không đề cập tới chuyện này trong báo cáo gởi về
cho CBS vì đó không phải là nhiệm vụ của tôi; nếu nhắc tới nó, chắc chắn là tôi
phải rơi xuống địa ngục! Đó là trách nhiệm của Sở phụ trách vùng Nam Mỹ và họ
không tha thứ đâu. Về chuyện tôi đề nghị chính quyền Haiti lặng lẽ xoá bỏ điều
khoản cam kết trên tờ giấy bạc cũng vậy. Tôi không biết chắc từ ấy đến nay đề
nghị của tôi đã được thực hiện hay chưa. Nếu độc giả nào tình cờ đi qua Haiti,
thì xin nhìn coi đồng bạc hiện nay có còn mang điều khoản ấy nữa hay không.
Việc thiếu một nền tảng đào tạo thích hợp và kinh nghiệm thực hành nghiệp vụ đã
dẫn tới nhiều trường hợp lúng túng và thường gây ra những vấn đề nội bộ nghiêm
trọng cho IMF. Bị thúc đẩy bởi cách đối xử khác biệt trong các ban ngành và các
sở khác nhau và với ý muốn cho mọi nhân viên biết qua tất cả mọi khía cạnh hoạt
động của Quỹ, Ban Giám đốc đòi hỏi một sự cơ động rất lớn, cho phép chuyển từ sở
này qua sở khác, hai hay ba năm một lần, mà không hề chú ý đến các hoạt động đặc
thù của mỗi sở. Làm sao mà một nhà kinh tế không hề được đào tạo ngành ngân hàng
có thể đặt vào sở Ngân hàng Trung ương và nhận nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật cho các
nước thành viên trong lãnh vực ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại
được. Mặt khác, làm sao một tay ngân hàng chỉ được đào tạo và có kinh nghiệm về
ngân hàng thôi có thể làm việc như một nhà kinh tế ở một Sở Khu vực (geographic
department) được. Sự cơ động này thường gây ra những trường hợp khôi hài và đã
mở đường cho rất nhiều trò lạm dụng; khi tôi rời khỏi IMF thì vị Phó Tổng giám
đốc của Sở Ngân Hàng Trung Ương lại là một nhà kinh tế không hề có kiến thức
ngân hàng. Vào thời gian ấy toàn bộ Sở Ngân Hàng Trung Ương của IMF chỉ có một
hoặc hai thành viên là có kiến thức thật sự về nghiệp vụ hoạt động ngân hàng;
vậy làm sao IMF có thể hỗ trợ kỹ thuật một cách cụ thể và đích thực trong lãnh
vực Ngân Hàng Trung Ương và ngân hàng thương mại cho các nước đang phát triển?
Vì
thất vọng với sự kiện này, tôi quyết định xin về hưu sớm năm 1981. Trong thời
gian đó mối liên hệ giữa tôi và đất nước Việt Nam được nối lại, và điều hết sức
ngạc nhiên lại là từ phía bên kia. Sau khi Nam Việt Nam thất thủ, tôi gột sạch
khỏi đầu mình tất cả mọi ý nghĩ trở về quê nhà hay làm việc ở đất nước. Bất ngờ
vào một ngày cuối năm 1975 tôi nhận được một lá thư từ ban giám đốc Ngân Hàng
Trung Ương Việt Nam, với cái tên mới là Ngân Hàng Nhà Nước, do La Văn Liếm, một
nhân viên cũ của Ngân Hàng Đông Dương và là Đội trưởng một đội ám sát của khu
Sài Gòn – Chợ Lớn. Bằng một giọng thân hữu anh ta nhờ tôi tìm cho anh một viên
chức cũ của Ngân Hàng Trung Ương thời trước mà anh ta muốn giúp đỡ; anh cũng đề
nghị tôi cứ giữ liên lạc với Ban Giám đốc mới của Ngân hàng, vì họ có thể cần
tới sự giúp đỡ của tôi. Tôi đi tìm người viên chức kia cho anh ta, và trả lời là
tôi rất vui lòng giữ liên lạc với họ và giúp đỡ họ. Năm 1976 Hội nghị thường
niên IMF-IBRD được tổ chức tại Manila, Phi Luật Tân; những người đồng nghiệp của
tôi tham dự hội nghị, kể lại với tôi là người Trưởng phái đoàn Việt Nam hỏi thăm
tôi, tưởng rằng tôi cũng tới dự hội nghị. Năm 1977 tại Hội nghị thường niên ở
Washington thì ông Trần Dương, Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, Bộ trưởng Ngân hàng
và Ủy viên Bộ chính trị, tìm tôi và sau đó gặp tôi nhiều lần. Lần đầu tiên gặp
tôi ông nói: “Có lẽ anh không biết tôi nhưng tôi biết anh, vì hồi ở trong rừng
chúng tôi thường trích dẫn anh trên đài phát thanh Giải Phóng.” Lúc tôi còn ở
Việt Nam trước năm 1975 có nhiều người bạn nói với tôi là đài phát thanh Việt
Cộng thường trích dẫn tôi trong những nhận định về tình hình kinh tế miền Nam,
họ dùng nó để công kích ông Thiệu và chính sách của ông ta. Ông Trần Dương đề
nghị tôi giúp đỡ ông trong việc thảo luận với Quỹ và Ngân Hàng.
Dĩ
nhiên là tôi không xuất hiện trong hội nghị, nhưng ông tham khảo ý kiến của tôi
về tất cả mọi đề tài thảo luận với hai tổ chức trên. Ông không hề được đào tạo
về tài chánh ngân hàng, vì đã chiến đấu suốt 30 năm trong rừng từ 1945 tới 1975,
nhưng ông rất muốn học hỏi. Tôi rất ấn tượng về những quan điểm thẳng thắn của
ông và ngạc nhiên bởi sự chân thật của ông trong khi chúng tôi thảo luận với
nhau. Ông ta nói với tôi rằng trong hệ thống tư bản ở miền Nam thì quy hoạch
trung ương chả ra gì, nhưng việc quản lý kinh doanh thì tốt, trong khi ở hệ
thống xã hội chủ nghĩa của miền Bắc, thì quy hoạch trung ương tốt hơn nhưng việc
quản lý kinh doanh không giỏi. Ông nhờ tôi mua một số sách về quản lý trong kinh
doanh để dạy ông và giúp đỡ chính phủ ở quê nhà cải thiện việc điều hành. Ông
mời tôi về thăm Việt Nam một chuyến để xem những gì chính phủ đã làm được trong
lãnh vực y tế và giáo dục công cộng mà ông rất đỗi tự hào. Ông tặng tôi một chai
rượu nếp do hãng rượu Nam Điển Hà Nội sản xuất như một món quà của chính phủ.
Một ngày kia khi cả phái đoàn chen chúc vào trong chiếc xe của tôi để về nhà
dùng bữa cơm tối tôi chiêu đãi, tôi mở một băng nhạc gồm các bài ca ở miền Nam
và xin lỗi vì chỉ có loại nhạc “vàng” chớ không còn gì khác. Thật là ngạc nhiên,
Ông Trần Dương nói với tôi rằng bọn họ cũng thích “nhạc vàng” miền Nam nhưng họ
đã đổi lời hát. Ông cho tôi hay là ban nhạc của Ngân Hàng Nhà Nước cũng thường
chơi những bài nhạc này và ông sẽ gởi cho tôi một vài cuộn băng ghi những bài
này với lời ca mới do ban nhạc của ngân hàng thực hiện.
Năm 1981 tôi xin về hưu sớm khỏi cơ quan IMF và hợp tác với Dennis Baron thành
lập một công ty riêng của tôi để kinh doanh dầu hỏa trên thị trường dầu hỏa thế
giới. Chúng tôi đã thành công khi ký một hợp đồng với một số tiền hoa hồng khá
lớn nhưng lại bị một tay con buôn người Pháp ở Dubai đoạt mất. Vì việc kiện tụng
rất tốn tiền, rất mất thời gian và cũng không chắc có kết quả tốt cho mình, nên
chúng tôi quyết định không thưa kiện. Khi thị trường dầu hoả bắt đầu lắng xuống
và ổn định trở lại, chúng tôi quyết định đóng cửa văn phòng ở New Jersey, thay
đổi kế hoạch hoạt động. Cùng với William Taylor, một cựu kỹ sư thuộc Kỹ Sư Đoàn
danh tiếng của Mỹ và một người bạn nữa tên là Charles Welbert, một nhân viên
ngoại giao của bộ Ngoại giao Mỹ về hưu đang ở Casablanca, Ma-rốc, chúng tôi
thành lập một công ty tư vấn để giúp những công ty xây dựng Mỹ trong việc liên
doanh với các công ty lớn ở nước ngoài. Chúng tôi đã làm việc với
các công ty Bechtel, Raymon International, Morisson, Knussen…, đã thuê công ty
xây dựng lớn nhất của Ma-rốc làm một số việc trong các phi trường ở Bắc Phi. Sau
khi những cuộc thương lượng đầu tiên hoàn tất, xí nghiệp Ma-rốc thông báo cho
chúng tôi hay là Cơ quan kiểm soát ngoại hối không cho phép họ chuyển tiền thù
lao cho chúng tôi; họ nhận rằng họ nợ chúng tôi số tiền ấy nhưng không có cách
nào khác để trả. Trong thời gian ấy thì Charles Welbert qua đời, William Taylor
và tôi quyết định đóng cửa công ty tư vấn.
Việc này kết thúc các hoạt động kinh doanh tư nhân của tôi. Đó là số phận của
tôi, nếu quả có một số phận mà tôi có thể tin được. Tôi có thể làm ra tiền cho
chính phủ hoặc cho ngân hàng nhưng tôi không thể làm ra tiền cho chính bản thân
tôi. Tôi có thể phục vụ công chúng và tôi có thể phục vụ đất nước, nhưng tôi
không thể lo toan cho chính mình được. Nếu như tôi làm ra được một đồng nào
trong các hoạt động kinh doanh riêng tư của mình, thì luôn luôn sẽ có một tên
trộm hay một tên lừa đảo nào đó cuỗm mất của tôi.
Vào thời gian đó tôi nhận được nhiều lời đề nghị tư vấn. Liên Hiệp Quốc dự định
gởi một phái đoàn tới Việt Nam để hỗ trợ kỹ thuật nhằm tổ chức lại hệ thống ngân
hàng. Họ mời tôi tham dự phái đoàn này. Một người bạn của tôi trước đây là Giám
đốc của một văn phòng địa phương của Ngân Hàng Thế Giới ở Châu Phi, cũng được
World Bank chỉ định dẫn một phái đoàn đi Việt Nam với một công tác như vậy. Anh
ta không hề có một kinh nghiệm nào về Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Thương
mại. Biết rằng tôi đã đóng vai chánh trong việc thiết lập toàn bộ hệ thống ngân
hàng cho Nam Việt Nam từ Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Thương mại lớn nhất
nước, tới Ngân hàng Khuếch trương, anh ta muốn tôi tham gia vào phái đoàn của
anh. Nhưng tôi đã từng có kinh nghiệm với các phái đoàn hỗ trợ kỹ thuật của IMF
và World Bank, trong đó có vài phái đoàn tôi tham gia và vài phái đoàn tôi dẫn
đầu. Tôi hiểu rõ tinh thần và tâm lý của những phái đoàn công tác này. Tôi có
thể chấp nhận làm việc với họ nếu công tác thuộc về những đất nước khác, còn đối
với đất nước tôi thì tôi không thể làm việc cho các phái đoàn ấy được, bởi vì
tôi có những ý kiến riêng của mình về hệ thống ngân hàng của đất nước tôi; tôi
đã lập ra ba ngân hàng và với danh nghĩa Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương, tôi đã
hoạt động với tất cả các ngân hàng từ những ngày đầu tiên. Vì vậy tôi từ chối cả
hai phái đoàn mặc dù tôi biết mình sẽ được IMF và World Bank trả một số tiền
đáng kể, hàng chục ngàn Mỹ kim; trong lúc tôi cũng sẽ làm công việc ấy bằng túi
tiền của mình nếu tôi chấp nhận giúp đỡ đất nước – một điều mà sau này tôi sẽ
làm. Khi tôi đang ở Sài Gòn năm 1991 và giúp đỡ chính quyền theo lời yêu cầu của
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, thì văn phòng Liên Hiệp Quốc ở Hà Nội, gọi điện vào cho
tôi, cố thuyết phục tôi ra tham gia phái đoàn của họ ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn từ
chối.
Trước đó một công ty tư vấn ở New York làm việc với USAID cũng đã gọi điện cho
tôi mời tôi làm việc ở châu Phi với tư cách là Cố vấn ngân hàng địa phương cho
một số quốc gia ở Tây Phi, với một số lương rất lớn và một lô bổng lộc. Vì đã
từng công tác nhiều lần cho IMF ở Châu Phi, nơi tôi đã trải qua những kinh
nghiệm không tốt cho sức khỏe của mình nên tôi cũng từ chối mặc dù công việc và
tiền lương rất hấp dẫn. Tôi không phải là người bị tiền cám dỗ. Đó cũng là số
phận của tôi!
Năm 1991, một người bạn là Phan Khắc Từ, một linh mục Thiên Chúa giáo và là một
Đại biểu Quốc hội, đã gởi cho tôi một bản fax cho biết Thủ tướng Võ Văn Kiệt
muốn mời tôi viếng thăm Việt Nam để xem xét tình hình kinh tế khó khăn của đất
nước và đề nghị phương thuốc cứu chữa. Cùng lúc đó tôi nhận được thư của bạn
tôi, Lâm Võ Hoàng, người từng làm việc với tôi ở Việt Nam Thương Tín, xác nhận
lời mời của Thủ tướng Kiệt. Tôi hơi do dự bởi vì tôi vẫn còn
ngại đường lối cứng rắn của chính phủ đối với những người có liên hệ với chính
quyền Sài Gòn, nhưng cha Phan Khắc Từ và Lâm Võ Hoàng cứ nài nỉ mãi.
Tháng 11/1991 tôi bay về Sài Gòn và gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt đúng vào ngày cuối cùng trước khi ông đi Singapore và tôi
quay trở về Mỹ.
Tôi trình bày những khó khăn kinh tế tài chánh của đất nước cho ông rất lâu,
trong lúc hai phụ tá của ông Kiệt ngồi ghi chép. Ông nói với tôi là ông rất có
ấn tượng về những gì tôi trình bày, và ông ngồi nghe rất chăm chú. Khi đến lúc
ông phải đi, tôi chào từ giã nhưng ra tới cửa, ông nắm tay tôi thật chặt không
muốn để tôi đi. Ông khẩn khoản yêu cầu tôi trở về lại để giúp đỡ, rõ ràng là ông
rất quan tâm tới điều tôi trình bày và những giải pháp tôi đề nghị. Tôi nói với
ông là tôi không thể quay về nhiều lần để giúp, bởi vì có một số cái đầu nóng
chống Cộng bên Mỹ chắc chắn sẽ không chịu hiểu lòng mong muốn giúp đỡ nhân dân
của tôi, và chắc chắn sẽ làm hại tôi. Ông bèn đề nghị là nếu tôi không về Việt
Nam để giúp ông, thì ông mong rằng bất cứ khi nào ông ra nước ngoài, ông sẽ báo
tôi biết và tôi tới gặp ông để thảo luận những vấn đề cùng ông và những người
phụ tá. Tôi nói rằng như vậy thì dễ bị người ta nhìn thấy quá nên tôi chỉ muốn
là có dịp thỉnh thoảng về nước để nghiên cứu các vấn đề kinh tế tài chánh của
đất nước và vạch chương trình phát triển kinh tế, nhằm giúp đỡ nhân dân Việt Nam
vốn đã chịu quá nhiều đau khổ cơ cực. Với tiền túi cuả tôi.
Nhưng khi tôi trở về lần thứ hai vào tháng 4/1992 tôi nhận thấy vị Thủ tướng,
thái độ hoàn toàn thay đổi. Tôi chán nản, nên tôi nói với linh mục Phan Khắc Từ
là tôi sẽ không trở về nữa. Tôi hiểu rằng trong thời gian vừa qua, khi Thủ tướng
Kiệt trao đổi về chuyến viếng thăm của tôi với Nguyễn Xuân Oánh, thì Oánh đã làm
cho ông Thủ tướng mất lòng tin nơi tôi. Vì ganh ghét với những chức vụ tôi ở
World Bank và IMF cao hơn nhiều chức vụ cuả Oánh ở IMF, và với sự nghiệp ở Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam lâu dài và thành công của tôi, so với sự nghiệp ngắn ngủi
và thất bại của anh ta, sự dính líu của anh ta trong vụ tôi đưa Lederer ra toà
v.v…, Oánh đã chôn vùi tên tuổi tôi với Thủ tướng
Kiệt. Nếu Thủ tướng Võ Văn Kiệt thẩm tra lại những lời cáo buộc này và biết được
sự thật thì tôi đã có thể làm được rất nhiều để giúp đất nước và nhân dân, nhiều
hơn những gì tôi đã làm giữa các năm 91 tới 94. Và tất cả những điều này bằng
chi phí của chính tôi, không chút cầu mong đền bù từ phía chính phủ hay một cơ
quan quốc tế nào: tôi chỉ muốn phục vụ Tổ Quốc và Nhân Dân tôi. Thế thôi, không
còn một lý do gì khác.
Nhưng linh mục Từ cứ thuyết phục tôi về nghĩa vụ đối với đất nước và khẩn khoản
yêu cầu tôi trở lại Sài Gòn, và tôi đã về thêm hai lần nữa trong năm 93 và 94.
Từ năm 91 tới năm 94 tôi đã viết rất nhiều bài viết về các vấn đề kinh tế tài
chánh Việt Nam và những phương án giải quyết mà tôi xuất bản ở Paris và luôn
luôn gởi một bản sao cho Thủ tướng
Kiệt qua linh mục Từ. Trong chuyến đi cuối cùng năm 94, tôi trao cho Thủ tướng
Kiệt, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải,
các Bộ trưởng có liên quan và Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, một chương trình
phát triển đặc biệt cho Việt Nam, trong đó tôi gói gọn những chương trình đặc
điểm lúc đó đang giúp sự phát triển các quốc gia láng giềng, cũng như các nước
khác đang phát triển rất nhanh trên thế giới; tôi đã làm việc này sau hai chuyến
qua Paris và New York để nghiên cứu, tại đó tôi đã trao đổi rất nhiều với các
chuyên gia đã làm việc tại những quốc gia này và với các ngân hàng đã tài trợ
cho những biện pháp nói trên.
Nhưng tôi vẫn không thấy có phản ứng thuận lợi từ các nhà chức trách Hà Nội và tôi nhận thấy bầu không khí lúc đó ở nước nhà không thích hợp cho việc thực hiện chương trình phát triển của tôi. Tôi rất buồn khi thấy sự hy sinh và lòng cố gắng cuả tôi không đem lại đươc những kết quả tôi mong muốn cho dân tôi, nên tôi đành bỏ cuộc nữa đường, không muốn tiếp tục nữa.
Ngày nay
tôi vẫn không biết chính quyền đã sử dụng những điều tôi đề nghị được bao nhiêu,
và chương trình của tôi đã giúp đỡ được bao nhiêu cho nhân dân tôi, người dân
Việt.
IX. CHÁNH SÁCH
NGOẠI GIAO HOA KỲ
Đầu thập niên 50, khi tôi bắt đầu tiếp xúc với những ngân hàng lớn của nước Mỹ ở
New York, như ngân hàng America, ngân hàng City Bank, ngân hàng Chase Manhattan
Bank, ngân hàng Hanover Bank, tôi đã gặp khá nhiều nhân viên trẻ trong ban điều
hành, trước đây đã từng làm việc ở
các cơ quan OSS (Office of Security Service), tiền thân của CIA trước và
trong cuộc Thế Chiến thứ II; họ đã được gởi tới Trùng Khánh ở miền Nam Trung
Quốc và tới miền Bắc Việt Nam để quan sát tình hình quân sự và chính trị tại các
vùng này, cũng như mối quan hệ giữa lãnh tụ quốc gia Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ
Trung Cộng Mao Trạch Đông, phong trào Việt Minh. Chúng tôi thường nói chuyện với
nhau rất thân mật và rất lâu trong đêm khuya, trong ánh sáng mờ mờ của một căn
phòng ấm cúng tại một tiệm ăn ở New York, nơi đó những người như Mc Clelland,
Hank Sperry, John De Loin… kể tôi nghe về những ngày tháng họ sống trong rừng
giữa những người du kích… Chúng tôi rất sung sướng khi gặp nhau và nói chuyện
với nhau, bởi vì họ chưa hề gặp lại một người Việt Nam nào từ khi họ ra khỏi
những vùng rừng núi xa xôi ấy; và tôi cũng chưa hề gặp một người nào đã từng
trải qua những rối rắm khôn xiết về chính trị ở những vùng này trong cuộc chiến
tranh. Một vài người trong bọn họ đã kể tôi nghe mối quan hệ của họ với các du
kích quân Việt Nam của nhóm Cộng sản cũng như của nhóm Quốc gia, cuộc sống gian
khổ của người du kích, những nỗi thống khổ đắng cay của họ, những sự hy sinh to
lớn của họ cho đất nước. Những người Mỹ trẻ tuổi này đã thường thảo luận rất
nhiều với các cán bộ của quân du kích, về những lời yêu cầu được giúp đỡ thuốc
men và lương thực. Những cán bộ của quân du kích đã hỏi những người bạn Mỹ của
tôi tại sao chính phủ Mỹ không chịu giúp đỡ các nhà lãnh đạo của họ, chiến đấu
chống lại người Pháp, trong khi ai cũng biết dân Mỹ luôn luôn chống lại chế độ
thực dân và sự thống trị của nước ngoài. Những người bạn Mỹ của tôi cho tôi biết
là họ đã gởi rất nhiều báo cáo về Washington, ủng hộ việc đối thoại và giúp đỡ
các nhóm Việt Nam chống Pháp. Nhưng Tổng thống Eisenhower vẫn lo ngại Việt Nam
sẽ quá gần gũi với một nước Trung Hoa đang có nguy cơ trở thành cộng sản, hơn là
bận tâm tới chính sách chống thực dân của Hoa Kỳ. Vào lúc đó chánh phủ Mỹ đâu có
biết được sự kình địch sau này giữa Trung Quốc và Liên Xô và họ sợ nước Mỹ có
thể sẽ phải đương đầu với hai cường quốc nếu như Mỹ nhúng tay vào Việt Nam. Vì
đã từng nghe những sự hy sinh của các chiến sĩ du kích trong cuộc chiến đấu
chống lại quân đội thực dân Pháp và về sự nghiệp chống ách thống trị Pháp suốt
mấy chục năm của dân tộc Việt Nam, tôi không thể nào tránh khỏi cái cảm giác
rằng cả tôi nữa, lẽ ra cũng phải tham gia cuộc chiến đấu ấy như tôi đã làm trong
các năm 1945 – 1946 ở Việt Nam. Nhưng những người bạn ấy, những nhân viên ngân hàng đã từng sống trong rừng với các chiến sĩ du kích lúc ấy, lần lần biến mất bởi phong trào chống Cộng McCarthy ở nước Mỹ trong những năm 50, hoặc bởi họ đã thay đổi nghề nghiệp, chỉ trừ một người mà trong một khoảng thời gian sau đó vẫn luôn luôn giúp tôi gởi thư và tiền về Việt Nam cho những người bà con của tôi, nhanh hơn là cách gởi bình thường vốn phải mất tới 2 hoặc 3 tháng mới tới nơi.
Ông Foster Dulles, Bộ trưởng Ngọai giao Mỹ lúc đó, là người chống Cộng kịch
liệt, rất cứng rắn, không khoan nhượng. Ông ta không bao giờ chịu thỏa hiệp hay
nhân nhượng; đó cũng chính là đường lối ngoại giao của nước Mỹ, ngay từ lúc đó
và về sau. Người dân Mỹ vốn có lòng tốt và thẳng thắn, tính chất này cũng được
thể hiện trong quan niệm ngoại giao của Mỹ. Nhưng bởi vì người Mỹ rất thẳng
thắn, tánh tình rất cứng rắn, không hay thay đổi, nên chính sách ngoại giao của
Mỹ cũng vậy. Qua nhiều thập niên, nước Mỹ trở thành nước phát triển nhất, thịnh
vượng nhất thế giới, người dân Mỹ cũng trở nên tự hào và chính sách của nước Mỹ
cũng trở nên chính sách kiêu ngạo nhất thế giới. Khác với chính sách của châu
Âu, chính sách ngoại giao của Mỹ có một lý lịch và một lịch sử ngắn hơn nhiều.
Điều này cũng là một trở ngại cho sự mềm dẻo uyển chuyển. Lịch sử của nước Mỹ
không có những truyền thống lâu dài về ngoại giao như ở châu Âu với Metternich,
Richelieu, Bismarck … nếu không thì với một chút linh hoạt trong chính sách và
nền ngoại giao, nước Mỹ đã có thể dẫn Việt Nam tới hoàn cảnh như Nam Tư của
Tito, Ba Lan của Walessa và Tiệp Khắc của Haclv. Việt Nam bị kẹt cứng giữa hai
khối cường quốc và không ai trên sân khấu thế giới có đủ quyền lực và đủ quan
tâm để thay đổi tình thế cho Việt Nam, mở ra một con đường giải quyết mới có thể
đem lợi ích cho Việt Nam và cho nhiều quốc gia khác… Năm 1954 khi nước Pháp sắp
sửa bị đánh bại ở Điện Biên Phủ, Pháp đã yêu cầu Mỹ sử dụng bom nguyên tử để
đánh bạt quân đội Bắc Việt đang bao vây Điện Biên Phủ, nhưng Eisenhower từ chối,
vì sợ Pháp tái chiếm lại thuộc địa, nhiều hơn là quan tâm tới tính mạng con
người. Cho nên đôi khi một sự thay đổi nhỏ và một hành động tích cực hơn có thể
tạo ra một bản đồ chính trị mới có thể thay đổi vận mệnh của Việt Nam. Nhưng tôi
không thể biết chắc là lúc đó miền Nam Việt Nam có thể dàn xếp được với miền Bắc
một lối sống chung có thể tồn tại được lâu dài như Nam và Bắc Triều Tiên sau Bàn
Môn Điếm hay không. Từ
tháng 10/1965, khi Tổng thống Johnson quyết định dốc toàn lực cho cuộc chiến
tranh, thì chiến lược trên cả hai mặt trận ngoại giao và quốc phòng đều sanh ra
do dự, và việc chỉ đạo chiến tranh trở nên lúng túng, không lường trước được. Dù
không phải là một nhà chiến lược quân sự, tôi cũng có thể tưởng tượng được là
anh không thể chiến đấu với hai tay bị trói quặt sau lưng. Chính sách Việt Nam
của nước Mỹ không được thực hiện chỉ ở toà Bạch Ốc hay ở bộ Ngoại giao. Có rất
nhiều cơ quan tham dự vào việc định hình một chính sách và người ta có thể thấy
rằng nếu có một chính sách chủ yếu thì cũng có nhiều ý kiến khác chen chân vào
chánh sách đối xử với Việt Nam.
Bây giờ nếu ta nhìn khắp thế giới, có bao nhiêu quốc gia ưa thích chính sách
ngoại giao của Mỹ, và bao nhiêu người dân Mỹ được thế giới ưa thích. Và trong
chính quyền Mỹ có bao nhiêu nhà lãnh đạo, ngoài Clinton và Carter, được nổi
tiếng ở ngoài nước Mỹ? Trong Quốc Hội Mỹ thì có thể tỉ lệ này khá hơn nhưng
chắc cũng không bao nhiêu. Ở bên ngoài người ta biết người dân Mỹ chính thống
rộng rãi và dễ thương, nhưng “người Mỹ” được đại diện qua các nhà ngoại
giao ưa phô trương, khinh miệt người khác, không được thế giới bên ngòai thương
yêu. Một số chính phủ Mỹ hống hách ngạo mạn như chính phủ Bush chẳng hạn, chỉ có
thể thu được sự khinh miệt của thế giới bên ngoài, dù Mỹ là quốc gia hùng mạnh
nhất và là xã hội dân chủ nhất thế giới.
Một điểm đặc biệt nữa cũng cần phải chú ý: những nhà ngoại giao Mỹ gốc thế giới
thứ ba như Đại Hàn, Trung Quốc, Nhật Bản, Phi Châu…thường tự cao và hống hách
hơn cả người Mỹ chính thống, vì họ muốn tỏ ra họ “Mỹ” hơn cả người Mỹ. Điều này
không phải chỉ có ở ngành ngoại giao Mỹ, nó cũng đúng với những nhà ngoại giao
Pháp, với chính quyền thực dân Pháp hay những chính quyền thực dân Bỉ, Anh Quốc
hoặc Hà Lan. Tôi đã quan sát thấy tình trạng đó trong thời kỳ Việt Nam còn là
thuộc điạ của Pháp và sau này, ở Indonesia, ở vùng biển Ca-ri-bê, ở Phi Châu.
Khi một chánh phủ bố trí nhân viên ngọai giao có gốc gác từ các nước đang phát
triển, thì những các cơ quan ngoại giao Âu Mỹ nghĩ rằng dân chúng địa phương sẽ
thích họ. Nhưng đó là một quan niệm sai lầm. Chánh sách ngọai giao không thể nào
thành công khi chánh phủ gởi những nhân viên này ra nước ngoài để làm một công
việc đòi hỏi sự tiếp xúc nhiều với dân chúng địa phương, trừ phi các nhân viên
này đã được huấn luyện trước về mặt tâm lý và tinh thần liên quan đến thói mặc
cảm tự tôn của họ.
Cho nên bây giờ, mặc dầu Hoa Kỳ là nước phát triển nhất, mạnh nhất thế giới,
người Mỹ không thể mong nước họ được lòng người hay được yêu thương nhất trên
thế giới. Họ chỉ có thể mong rằng Hoa Kỳ được thế giới biết đến nhiều nhất vì
nước Mỹ hiện đại hơn những nước khác; văn hóa và lối sống Mỹ cũng có rất nhiều
ảnh hưởng ở nước ngoài; và thế giới bên
ngoài thường có khuynh hướng hay bắt chước những gì mang tính chất Mỹ (kẹo
sing-gôm, Coca Cola, hăm-bơ-gơ,
bánh rán…). Thế nhưng chính sách Mỹ ở Trung Đông và ở Iraq thì không được lòng
người bên ngoài nước Mỹ, đặc biệt là tại các nước Ả Rập, thế giới Hồi Giáo và
ngay cả ở Âu châu và Á châu. Luôn luôn đó là một điểm kẹt trong quan hệ của nước
Mỹ với thế giới bên ngoài. Mới đây theo một cuộc thăm dò dư luận thì ở các quốc
gia Ả Rập và ở thế giới Hồi giáo, 90% dân chúng ghét Mỹ. Ta đừng nên quên Hồi
giáo là khối tôn giáo lớn nhất trên thế giới và cũng là khối tôn giáo tăng nhanh
nhất. Đó là điều mà người Mỹ luôn luôn phải nhớ trong đầu, và tất cả mọi chính
quyền dù là Cộng hòa hay Dân chủ đừng bao giờ quên rằng đó có thể là hạt giống
hay mầm mống cho cuộc chiến thế giới thứ ba ngày mai.
Có
một điểm mà nhân dân, chính phủ và các nhà ngoại giao Mỹ phải luôn luôn ghi nhớ,
một sự thật muôn đời mà tất cả chúng ta không được phép quên: “không một dân tộc
nào trên thế giới, dù văn minh hay không văn minh, dù còn hoang dã tới đâu hay
hiện đại tới đâu, giàu nhất hay nghèo nhất, lại muốn đất nước mình bị xâm lược
và chiếm đóng, dù ý chí của kẻ đến chiếm đóng có tốt bao nhiêu đi nữa.”
Nếu chúng ta có thể tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý rộng khắp thế giới, chúng
ta sẽ thấy rằng 100% dân chúng sẽ chống lại việc xâm lược và chiếm đóng của một
dân tộc khác, đặc biệt là dân da trắng từ châu Âu và Mỹ. Nhật Bản đã học được
bài học này với những nước láng giềng ở châu Á, mặc dù họ đã chọn ngọn cờ “khối
Thịnh Vượng Chung Châu Á” trong những năm 40. Từ những thời đại xa xưa nhất, từ
thời nguyên thủy của loài người, không ai ưa bị xâm lược và chiếm đóng. Hãy nhìn
lại lịch sử nhân loại và ta sẽ thấy sự thật muôn đời này. Chủ nghĩa thực dân và
sự chiếm đóng của nước ngoài luôn luôn để lại một vị cay đắng trong miệng con
người, và một chất độc chết người ở trong đầu óc họ. Những dân tộc bị xâm lược
và chiếm đóng luôn luôn nghi ngờ rằng những kẻ chiếm đóng có ý định đen tối: tìm
kiếm tài sản báu vật, khai thác tài nguyên đất nước, tìm kiếm dầu và quặng mỏ là
nền tảng của chủ nghĩa thực dân…
Đừng nói chuyện tự do, đừng nói chuyện tự quyết, đừng nói chuyện truyền bá văn
minh. Đừng nói chuyện dân chủ. Không ai tin anh đâu. Họ biết rằng anh chỉ được
cái miệng.
Nước Mỹ luôn luôn rêu rao nó không hề có ý định thực dân, nhưng Mỹ luôn luôn
quên mất điều ấy, bởi vì nước Mỹ thường bị lãnh đạo bởi những chính trị gia tham
lam ngông cuồng hoặc các chánh phủ kiêu ngạo và hống hách. Người Mỹ phải tự hỏi
lấy chính mình: “Chúng ta có muốn bị xâm lược không? Chúng ta có muốn bị chiếm
đóng không? Nếu chúng ta không muốn, thì tại sao chúng ta lại xâm lược những đất
nước khác, chiếm đóng những quốc gia khác? Nếu chúng ta không muốn vậy tại sao
chúng ta lại chia trái đất ra làm hai, một cho chúng ta và một cho thế giới bên
ngoài?”.
Khi chánh phủ Bush đánh vào và chiếm đóng Irak, một mình hay gần như một mình,
mặc dầu các nước đồng minh Âu châu chống đối, và Liên Hiệp Quốc không đồng ý,
thì có phải đây là một chánh sách ngoại giao ngạo mạn, kiêu ngạo không? Rồi sau
khi đã mất vào chiến tranh hàng trăm tỷ Mỹ kim với hàng ngàn binh sĩ bị tử vong
và hàng trăm ngàn dân Irak bị giết, chánh phủ Bush phải kêu gọi cầu cứu Liên
Hiệp Quốc và đồng minh Âu châu vào giúp, thì Hoa Kỳ có mất mặt không? Các nhà
lãnh đạo Mỹ đã quên lịch sử và số phận của đòan quân viễn chinh đế quốc Anh Cát
Lợi hồi trước sao? Sau khi tiến vào và chiếm đóng Irak 15 năm, chịu mất hàng
ngàn binh sỉ bị tử vong, chánh phủ Anh phải rút quân về và Thủ tướng Winston
Churchill, năm 1945, phải thốt ra lời than thở: “Tôi rất hối hận đã cho quân vào
chiếm đóng Irak”. Với số binh sĩ tử vong hàng ngàn và dân chúng Irak bị tiêu
diệt hàng trăm ngàn, Hoa Kỳ đang đi theo số phận của Anh Cát Lợi trước đây. Và
chúng ta không nên quên một quy luật của thiên nhiên được thừa nhận và tôn trọng
bởi tất cả các tôn giáo trên thế giới: “Không có một vụ giết người nào là không
phải trả giá, không có một vụ ám sát nào được quyền làm, không có một vụ diệt
chủng nào mà khỏi chịu tội. Những ai làm những chuyện này đều sẽ phải trả, không
bằng cách này thì bằng cách khác; nếu họ chưa kịp trả thì con cái họ hay cháu
chắt họ phải trả; nếu thế hệ hiện tại chưa trả, thì thế hệ kế tiếp và những thế
hệ trong tương lai sẽ phải trả.” Nhưng trong chính trị, vấn đề nhức nhối là nếu ta xét một khoảng thời gian chừng một thế kỷ so với vĩnh cửu thì chỉ là khoảnh khắc của một sát na, thì thường thường kẻ tội phạm không trả nhưng những người vô tội nối tiếp về sau lại phải trả!
KẾT Sau 30 năm làm việc cho dân tộc và phụng sự đất nước, ngày nay, tôi không khỏỉ ngồi ngẫm nghĩ lại những gì tôi đã gặp trong khi thi hành phận sự ở trong và ngòaì nước.
Tôi đã
được nuôi dưỡng bằng những giá trị truyền thống kết tinh qua bao nhiêu thế kỷ
hào hùng và nhân hậu của tổ tiên, trên nền tảng của những tư tưởng vĩ đại của
phương Đông, và tình thương bao la của dân tộc.
Trong câu chuyện kể lại quãng đời đã trải qua, biết bao nhiêu lần tôi buồn rầu
trông thấy những giá trị ấy hầu như biến mất, không còn dấu vết ở một số người,
đặc biệt ở những con người được coi là thuộc tầng lớp thượng lưu, tinh hoa nhất
của xã hội, trong lúc tính trung hậu thủy chung lại chỉ còn được tìm thấy ở nơi
dân nghèo, chất phác ở thôn quê.
Trên trường quốc tế, tôi cũng chán nản, nhìn thấy bao nhiêu sự
tham lam tranh nhau quyền lợi cá nhân, riêng tư, ít khi nghĩ đến quyền lợi chung
của nhân lọai ở những địa vị cao cấp nhất, đại diện cho những xã hội ưu tú nhất
của thế giới.
Tất cả đạo giáo trên thế giới đều có mục đích cao xa, thay đổi
con người, đào tạo ra một con người có tình thương lớn hơn, có đức hạnh cao hơn.
Nhưng qua những năm 47, tôi vào đại học và chen chúc với xã hội Pháp, rồi đến
các năm 50, qua Mỹ để học hỏi “đời sống dân chúng Mỹ” – the American way of life
– và lăn lộn bao nhiêu năm với xã hội Mỹ, tôi thấy rõ ở xã hội Âu châu, Mỹ châu,
cũng như ở nước nhà, đã thay đổi nhiều từ đó và bây giờ tư cách con ngươi bất cứ
ở xã hội nào cũng kém thua ngày xưa nhiều, các giá trị nhân bản bị đẩy lùi trước
cơn sóng lớn của lòng tham hận.
Tôi không khỏi tự hỏi lòai người sẽ đi đến đâu?
[i] Ngân hàng Trung ương là tên chung cho một loại ngân hàng đặc biệt của tất cả các nước. Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam là tên riêng của ngân hàng trung ương Việt Nam, cũng như Banque de France là tên của Ngân hàng trung ương Pháp và Federal Reserve Bank là Ngân hàng trung ương Hoa Kỳ.
27-12-07 |