NGƯỜI VIỆT
Từ Ukraine nhìn về Đông Á, đâu là cuộc khủng hoảng kế tiếp?
Hiếu Chân
Cuộc chiến tranh xâm lược của ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, tại
Ukraine làm cho dư luận quốc tế phải nghĩ tới một hành động tương tự của
ông Tập Cận Bình, chủ tịch Trung Quốc, ở Đông Á. Nhưng trong hai khu vực
bị Trung Quốc nhắm tới – đảo quốc Đài Loan và các nước Đông Nam Á có
tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh ở Biển Đông như Philippines và Việt Nam
– giới phân tích ngày càng nghiêng về khả năng Việt Nam chứ không phải
Đài Loan mới là nơi xảy ra cuộc xung đột kế tiếp của thế giới.
Trung Quốc và Nga – bộ đôi bất hảo
Xét về nhiều mặt, Trung Quốc và Nga có nhiều chỗ tương đồng. Cả Bắc Kinh
và Moscow đều quyết chống lại vai trò lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ và
cái trật tự quốc tế mà Washington duy trì từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Cả
Trung Quốc và Nga đều nằm dưới sự cai trị của chế độ độc tài toàn trị,
trong đó hai ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin đều muốn làm “hoàng đế”
trọn đời và đều nuôi tham vọng khôi phục sự vĩ đại của các đế chế Trung
Hoa và Nga xưa cũ, thâu tóm những quốc gia mà họ coi là thuộc về các đế
quốc của các triều đại phong kiến Trung Hoa và Nga Sa Hoàng.
“Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” – chính mối thâm thù với Hoa Kỳ và tham vọng
bành trướng lãnh thổ đã thúc đẩy Moscow và Bắc Kinh đến gần nhau, hình
thành một mối liên minh không chính thức, một “tình bạn không có giới
hạn” như tuyên bố chung mới đây của hai ông Tập và Putin, để cùng hợp
sức chống lại các quốc gia dân chủ.
Sự tương đồng này đã thúc đẩy ông Tập ngấm ngầm tán thành cuộc xâm lược
của ông Putin, lên án một cách sai lầm rằng chính Hoa Kỳ và phương Tây
gây ra vụ khủng hoảng Ukraine. Cả hai ông này đều cho rằng sự mở rộng về
phía Đông của Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) là nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới xung đột. Nếu ông Tập phát động chiến tranh xâm chiếm lãnh
thổ ở Đông Á, ông ta chắc chắn cũng được ông Putin ủng hộ như vậy. Nếu
ông Putin thành công trong việc bẻ gãy sự kháng cự của người Ukraine và
sáp nhập được vào nước Nga toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ Ukraine, điều
đó sẽ kích thích ông Tập Cận Bình nhanh chóng ra tay ở phía Đông, tận
dụng thời cơ Hoa Kỳ và phương Tây đang bận tập trung lực lượng vào chiến
trường Châu Âu. Nhưng thực tế, sự sa lầy trầm trọng của quân đội Nga ở
Ukraine đang khiến Trung Quốc phải tính toán lại mưu đồ của họ.
Những ngày này, Bắc Kinh theo dõi sát các biến cố ở Kiev, đặc biệt là
phản ứng của Hoa Kỳ và phương Tây đối với tội ác chiến tranh của ông
Putin để lường trước những thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt một khi
ông Tập Cận Bình có hành động tương tự. Một mặt, Trung Quốc phản đối
chiến tranh (chung chung), kêu gọi ủng hộ cuộc đàm phán nhằm hạ nhiệt
căng thẳng giữa Nga và Ukraine nhưng mặt khác Trung Quốc từ chối lên án
cuộc xâm lược của ông Putin và tuyên truyền cho dân chúng của mình rằng
quan hệ với Nga là hết sức thiết yếu cho sự phát triển của Trung Quốc.
Từ mở rộng NATO đến chiến lược Thái Bình Dương
Nhìn về phương Đông, ông Tập Cận Bình cho rằng chiến lược Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương mà chính phủ Hoa Kỳ mới công bố gần đây cũng nguy
hiểm cho an ninh của Trung Quốc như kế hoạch mở rộng NATO đối với an
ninh của Nga. Quan điểm của ông Tập được ông Lạc Ngọc Thành (Le
Yucheng), thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, trình bày tại Diễn Đàn
Quốc Tế Về An Ninh và Chiến Lược lần thứ tư vừa được tổ chức ở Thượng
Hải, Trung Quốc, hôm cuối tuần. “Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
[của Hoa Kỳ] cũng nguy hiểm như chiến lược mở rộng về phía Đông của NATO
ở Châu Âu. Nếu cứ để xảy ra tình trạng không được kiểm soát, nó sẽ mang
lại những hậu quả không thể tưởng tượng được, và cuối cùng đẩy Châu
Á-Thái Bình Dương vào một hố sâu rực lửa,” ông Lạc phát biểu, theo
Bloomberg.
Việc đánh đồng hai chiến lược của NATO và Hoa Kỳ tạo thành cái cớ biện
minh cho hành động quân sự mà Trung Quốc có thể thực hiện trong tương
lai, giống như nó biện minh cho cuộc xâm lược Ukraine hiện thời của ông
Putin. Khi đánh đồng như vậy, rõ ràng giới lãnh đạo Trung Quốc đang
chuẩn bị dư luận cho hành động quân sự cưỡng chiếm Đài Loan hoặc các
lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông.
Thêm vào đó, đáng chú ý là Trung Quốc thường xuyên phản bác các nhận
định về sự tương đồng trong số phận của Ukraine và Đài Loan – cả hai là
những nước nhỏ nằm bên cạnh các nước lớn theo chế độ độc tài và có tham
vọng bành trướng lãnh thổ bằng sức mạnh quân sự.
Luận điểm chính của Trung Quốc về sự khác nhau là ở chỗ Ukraine là một
nước độc lập, có chủ quyền trong khi Đài Loan chỉ là một phần lãnh thổ
của Trung Quốc “ly khai” mà Bắc Kinh quyết “thu hồi” bằng được, kể cả
bằng sức mạnh quân sự. Nếu “chiến dịch quân sự đặc biệt” của ông Putin
vào lãnh thổ một quốc gia có chủ quyền còn biện minh được thì không có
lý do gì để ông Tập không ra tay giành lại các vùng lãnh thổ vốn thuộc
về Trung Quốc.
Những yếu tố trên cho thấy, kế hoạch xâm lược Đài Loan và Biển Đông đã
ăn sâu trong đầu óc giới lãnh đạo Trung Quốc, chỉ còn vấn đề thời gian
và chờ xem kết quả vụ xâm lược Ukraine của ông Putin như thế nào.
Đài Loan không dễ xơi
Nhưng cuộc bành trướng tương lai của Trung Quốc sẽ nhắm vào đâu? Đâu sẽ
là điểm bùng phát cuộc khủng hoảng kế tiếp của thế giới sau Ukraine?
Tất nhiên Trung Quốc sẽ nhắm tới các khu vực mà Bắc Kinh coi là lãnh thổ
của họ. Đài Loan là một khu vực như vậy. Và Biển Đông và các quần đảo
trong “đường lưỡi bò chín đoạn” do Trung Quốc vẽ ra cũng bị Bắc Kinh cho
là lãnh thổ của họ.
Những bước đi của Trung Quốc hiển nhiên là xâm chiếm lãnh thổ của các
nước khác để bành trướng thế lực quân sự; và nhìn theo quan điểm của Bắc
Kinh, hiện Việt Nam và Philippines đang chiếm đóng “bất hợp pháp” lãnh
thổ của Trung Quốc ở Biển Đông mà Bắc Kinh có thể sử dụng sức mạnh quân
sự để đòi lại.
Chính vì thế, không chỉ Đài Loan mà cả quần đảo Trường Sa, thậm chí Việt
Nam và Philippines cũng có thể là nơi Trung Quốc thực hiện “chiến dịch
quân sự đặc biệt” theo kiểu Putin để chiếm lại.
Nhìn bề ngoài, Đài Loan có vẻ như là một mục tiêu dễ chiếm đoạt: một hòn
đảo nhỏ chơ vơ giữa biển khơi với 24 triệu dân và lực lượng quân đội chỉ
bằng một phần mười so với Trung Quốc. Nhưng thực tế, Đài Loan là một mục
tiêu khó nhằn, không chỉ vì eo biển Đài Loan rộng 100 dặm là chướng ngại
khó vượt qua cho những cuộc tấn công đổ bộ của Trung Quốc mà còn do
nhiều yếu tố khác.
Cũng như Ukraine, Đài Loan là một quốc gia dân chủ, chính phủ được người
dân bầu lên một cách tự do và minh bạch. Đại bộ phận người dân Đài Loan,
hơn 75%, tự coi mình là người Đài Loan (Taiwanese), không phải là người
Trung Quốc (Chinese) nên cuộc xâm lược của Trung Quốc khó mà biện minh
được về mặt dân tộc và văn hóa.
Kinh tế Đài Loan có sự gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ và phương Tây, đặc
biệt hòn đảo này cung cấp tới hai phần ba số vi mạch bán dẫn tân tiến
cho các nền kinh tế lớn, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu.
Đài Loan không chỉ là đối tác kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ mà Hoa Kỳ
luôn cam kết bảo vệ Đài Loan theo những hiệp định đã ký kết giữa đôi
bên, đặc biệt là theo Luật Quan Hệ Đài Loan (Taiwan Relation Act – TRA)
mà Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành năm 1979, trong đó trao quyền cho tổng thống
Hoa Kỳ quyết định bảo vệ Đài Loan, cả bằng quân sự, một khi hòn đảo này
bị xâm lược và được Quốc Hội cho phép.
Tháng Mười 2021, Tổng Thống Mỹ Joe Biden đã hai lần tuyên bố sẽ bảo vệ
Đài Loan nếu bị Hoa Lục tấn công bằng quân sự. Mỹ đã cung cấp cho Đài
Loan rất nhiều loại vũ khí tối tân. Chính sách “mơ hồ chiến lược” của
Hoa Kỳ với Đài Loan làm cho Trung Quốc không thể nào xác định được Hoa
Kỳ sẽ làm gì nếu Bắc Kinh nổ súng xâm lược hòn đảo dân chủ này. Gần đây
Nhật và Úc cũng đã công khai lên tiếng bảo vệ Đài Loan trước âm mưu thôn
tính của Trung Quốc. Đây là những thứ mà Ukraine không có trước khi nổ
ra cuộc xâm lăng của ông Putin.
Tính toán của ông Tập Cận Bình rằng ông ta có thể chiếm Đài Loan trong
một cuộc tấn công chớp nhoáng và do sự ràng buộc về kinh tế với Hoa Lục,
phương Tây cần Trung Quốc hơn Đài Loan nên sẽ không phản ứng mạnh với
hành động quân sự của Bắc Kinh đang càng lúc càng tỏ ra không thực tế
sau những diễn biến gần đây ở Ukraine. Nga đã không nhanh chóng chiếm
được Ukraine dù có lợi thế lớn hơn nhiều về quân sự và phương Tây đã
nhanh chóng đoàn kết thành một khối trừng phạt Nga với những biện pháp
cấm vận kinh tế nghiệt ngã mà Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng.
Tất cả những yếu tố đó buộc ông Tập phải tính toán lại kế hoạch tấn công
Đài Loan.
Việt Nam mới đáng lo
Philippines có hiệp định an ninh hỗ tương với Hoa Kỳ từ năm 1951, theo
đó Washington sẽ ra tay bảo vệ Manila nếu đảo quốc này bị tấn công. Cho
dù chính quyền hiện thời của Tổng Thống Rodrigo Duterte thường xuyên có
những phát biểu phản đối người Mỹ, ngả về Trung Quốc nhưng khi chiến sự
nổ ra, Philippines dứt khoát phải dựa vào Mỹ để tồn tại và người Mỹ cũng
có nghĩa vụ cùng người Phi chống xâm lược.
Chỉ có Việt Nam, với thể chế Cộng Sản độc tài giống Trung Quốc, với
đường lối quốc phòng “bốn không,” với một chính phủ và quân đội yếu kém,
tham nhũng tràn lan và lòng dân ly tán, mới là miếng mồi ngon cho tham
vọng bành trướng của ông Tập Cận Bình. Vì Hà Nội không liên minh quân sự
với nước nào, cũng không nằm trong một liên minh quân sự nào, nên nếu
Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, Bắc Kinh không sợ bị nước nào chen vào
can thiệp hoặc cung cấp vũ khí tân tiến như thế giới đang làm với
Ukraine.
Quân đội Việt Nam – vẫn thường vỗ ngực tự hào đã đánh thắng các “đế
quốc” to – hiện là một ổ tham nhũng và bất lực. Cư dân mạng những ngày
này thường chế giễu quân Nga mất sáu tướng trên chiến trường Ukraine,
còn quân đội Việt Nam chưa vào cuộc chiến tranh đã có hàng chục tướng
lĩnh phải vào tù vì tham nhũng! Nếu chiến tranh với một đội quân Trung
Quốc không chỉ đông hơn gấp nhiều lần mà còn có kho tàng hỏa tiễn hành
trình, hỏa tiễn đạn đạo, oanh tạc cơ, chiến đấu cơ, tàu ngầm, tàu chiến
và đủ thứ vũ khí tân tiến khác, quân đội Việt Nam chắc chắn sẽ thảm bại
nhanh chóng.
Sau nhiều thập niên bị đàn áp tàn bạo dưới chính thể Cộng Sản – mà ngay
cả hành động thể hiện lòng yêu nước cũng bị coi là tội hình sự, bị bắt
giam, bị đánh đập và tù tội – có thể người dân Việt bây giờ không còn
hào hứng với lý tưởng cầm súng bảo vệ tổ quốc khi đất nước bị xâm lăng.
Người ta không thấy ý nghĩa nào trong việc bảo vệ một chế độ Cộng Sản
cực quyền, đi ngược những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền mà cả nhân
loại theo đuổi – nhất là khi chế độ đó tỏ ra ngày càng khom lưng uốn gối
trước kẻ thù chỉ để duy trì quyền cai trị trên đầu trên cổ người dân.
Không nên kỳ vọng người dân thường Việt Nam sẽ cầm súng ra trận, đổ máu
để ngăn chặn quân xâm lược như người dân Ukraine đang làm và được cả thế
giới cảm phục hiện nay.
Nguy cơ đụng độ từ nhỏ đến lớn
Hiện nay Trung Quốc ngày càng lấn lướt trên Biển Đông, trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam và không loại trừ khả năng những va chạm trên
biển có thể dẫn tới những xung đột lớn hơn, thậm chí chiến tranh, cả
trên quần đảo Trường Sa lẫn trên đường biên giới dài gần 1,300 cây số
giữa hai nước. Nếu chiến tranh Trung-Việt nổ ra một lần nữa, Việt Nam sẽ
không có sức kháng cự, và cũng không được quốc tế ủng hộ, tiếp sức như
trường hợp Đài Loan hay Ukraine hiện nay cho dù thế giới có phản đối
hành động của Bắc Kinh đi nữa.
Tất cả những yếu tố trên chắc chắn đang được ông Tập Cận Bình và đội ngũ
tham mưu của ông ta tính toán, cân nhắc, tìm điểm yếu để ra tay, nhất là
khi cuộc chiến Ukraine kết thúc mà nước Nga của ông Putin giành được một
số sự nhượng bộ nào đó từ Ukraine. Nhìn từ hướng nào đều thấy số phận
nước Việt Nam đều rất bi thảm dưới sự cai trị của tập đoàn Cộng Sản Hà
Nội và trước tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. [qd] |