Mặc dù 'Xã hội dân sự' đang là cụm từ thời thượng tại Việt Nam, khái niệm này thường không được hiểu chính xác.
Việc chuyển ngữ trực tiếp từ tiếng Anh 'civil society' thành xã hội dân sự' tuy có vẻ chuẩn xác về mặt ngôn ngữ, nhưng lại là nguyên nhân cơ bản đầu tiên gây nhầm lẫn, ngộ nhận, thậm chí đánh đồng các tổ chức và hội đoàn mang đặc trưng của những quan hệ dân sự - vốn chỉ là những thành tố trong một xã hội - với một xã hội dân sự.
Về ngữ nghĩa, danh từ 'society', như 'civil society' trong tiếng Anh hay 'société' trong tiếng Pháp ngoài nghĩa thông thường là 'xã hội', còn có nghĩa là 'hội' hay 'hiệp hội', thậm chí là công ty, như 'société anonyme' (công ty cổ phần) hay 'société à responsabilité limitée' (công ty trách nhiệm hữu hạn).
Dưới góc độ xã hội học và chính trị học, khi nói đến xã hội dân sự, không phải trong ý nghĩa của khái niệm 'civil society', tức là nói đến định hướng phát triển tất yếu của một xã hội có đặc trưng luôn dân sự hóa và dân chủ hóa.
Dân chủ đại diện
Nói cách khác, xã hội dân sự là một bước phát triển mới tiếp theo của nền Dân chủ Đại diện.
Trong quá trình phát triển như vậy, các tổ chức và hội đoàn dân sự ngày càng mất đi tính đối trọng và đối lập với các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, để có thể đảm nhiệm các nhiệm vụ vốn dĩ của nhà nước, trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành các quyết định về chính sách, và cùng với cơ quan công quyền sử dụng quyền lực nhà nước một cách hiệu quả nhất.
Từ năm 1989 về trước, xã hội dân sự đặc biệt được nói đến nhiều tại những quốc gia theo chính thể độc tài ở Mỹ-La tinh và Đông Âu như một hình mẫu xã hội, một khái niệm về lý luận, một đòi hỏi đối lập với xã hội Xã hội chủ nghĩa và chế độ chuyên chính vô sản.
Trong ý nghĩa đó, xã hội dân sự được đặt ngang với các hình thái xã hội theo lý luận của Karl Marx, bao gồm: xã hội Nguyên thủy, xã hội Quân chủ, Phong kiến, xã hội Tư bản và xã hội Cộng sản mà giai đoạn tiền thân là xã hội Xã hội chủ nghĩa.
Trong cùng thời gian đó, ở các quốc gia pháp trị dân chủ Tây phương, người ta cũng bàn nhiều về xã hội dân sự, nhưng chú trọng vào những đòi hỏi dân chủ nhiều hơn nữa nhằm xây dựng thành công một xã hội dân sự hoàn hảo.
Song, tiêu chí nào cần hội đủ để có thể xác định xã hội dân sự đã hiện hữu ở một quốc gia vẫn tiếp tục là đề tài tranh luận trên các diễn đàn chính trị.
Hiện nay, xã hội tại các nước công nghiệp phát triển Âu-Mỹ chính là những xã hội dân sự thực thụ, dù ở nhiều cấp độ “dân sự hóa” khác nhau. Xã hội dân sự được xem như thành công với mức độ dân sự hóa cao nhất hiện nay là xã hội của Thụy Sĩ.
Lịch sử xuất hiện và sử dụng cụm từ 'civil society', trái lại, đã gây ra ngộ nhận tai hại.
Cụm từ này hình thành từ khái niệm “Societas civilis” trong tiếng La Tinh, vốn có nguồn gốc từ 'politike - koinonia' của Hy Lạp, là thuật ngữ chỉ một cộng đồng mở, và đôi khi cũng dùng để chỉ những cộng đồng có chung ý chí chính trị.
Triết gia Aristotle từng dùng nó để diễn tả một cộng đồng của những công dân muốn thực hiện những điều tốt lành về đạo lý.
Người đầu tiên sử dụng danh từ 'civil society' có nguồn gốc như thế cho một cộng đồng mở là Adam Ferguson, nhà xã hội học người Anh.
'Civil society' theo ý nghĩa xã hội học và chính trị học hiện đại được hiểu là Cộng đồng dân sự thuần túy.
Trong ý nghĩa tổng quát, Cộng đồng dân sự là một khu vực, một bộ phận của xã hội, không nằm trong khu vực nhà nước, lĩnh vực kinh tế hay đời sống cá nhân.
Cộng đồng dân sự là một khu vực mở, trong đó có các tác nhân hoạt động với mức độ tổ chức khác nhau từ cá nhân, nhóm, hội đoàn, tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, phong trào xã hội, đến các tổ chức phụ thuộc ở mức độ khác nhau vào nhà nước.
Trong ý nghĩa ấy, chuyển ngữ cụm từ 'civil society' thành 'xã hội dân sự' vừa không chính xác, vừa khiến chính quyền hiện tại phải lo ngại và đề phòng không cần thiết.
Hội đoàn dân sự
Những tác nhân hoạt động trong Cộng đồng dân sự, để tránh hiểu lầm và lo ngại, không nên gọi là tổ chức xã hội dân sự, mà chỉ giản dị là tổ chức hay hội đoàn dân sự (trong bài này xin gọi tắt là hội dân sự).
Hội dân sự có những đặc trưng cơ bản giống nhau như sau:
1) hình thành không cần thông qua hoạt động quản lý trực tiếp nào của nhà nước, mà do đòi hỏi của thực tiễn, qua liên kết, hợp tác tự nguyện giữa các cá nhân, các nhóm;
2) mục đích không nhằm đối lập, cạnh tranh hay thách thức quyền lực nhà nước, mà tự mình chủ động bày tỏ những mối quan tâm, bảo vệ lợi ích và đáp ứng nhu cầu của các thành viên;
3) phản hồi hay tham gia theo dõi, kiểm tra hoạt động của cơ quan công quyền không phải là mục đích tự thân, lý do thành lập hay mục tiêu hoạt động, mà chỉ giản dị là hệ quả phải có để có thể tự bảo vệ lợi ích và đáp ứng nhu cầu của các thành viên, và
4) với tất cả những đặc trưng đó, chúng độc lập với nhà nước.
Các hội dân sự tự động thành hình trong những thể chế dân chủ pháp trị nơi mà quyền và lợi ích của các cá nhân không ngừng được nâng cao và cần thỏa mãn kịp thời.
Ngay cả trong những chế độ độc tài và chuyên chính vô sản, các hội dân sự cũng hiện hữu rộng khắp, hoặc do nhà nước hỗ trợ thành lập, hoặc như một nhu cầu tự nhiên vì lợi ích của cá nhân trong xã hội không được quan tâm và bảo vệ.
Tại Việt Nam, trước tiên, những tổ chức có tính chất xã hội được nhà nước trực tiếp thành lập và chi phối trong phạm vi Mặt trận Tổ quốc.
Sau đó, khi bầu không khí chính trị-xã hội dần thông thoáng, các nhóm dân sự nhỏ hình thành để bảo vệ lợi ích chung và giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong những vấn đề mà họ không được chính quyền giúp đỡ; kế đến là sự hình thành các tổ chức dân sự có tính chất từ thiện, giúp đỡ những người có cuộc sống kém may mắn; tất nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế đã xuất hiện các nhóm dân sự cùng chia sẻ sở thích, chia sẻ quan tâm giống nhau về nhân sinh quan, thế giới quan, nghề nghiệp, hay giúp người khác rèn luyện kỹ năng sống...
Đó là hiện tượng tự nhiên đã hiện hữu trên thực tế, dù chính quyền muốn hay không và cho phép hay không, mà chắc chắn vẫn đang và sẽ diễn ra ngày càng mạnh và rộng hơn.
Các hội dân sự như vậy không đối trọng với quyền lực nhà nước, do vậy không nên sử dụng hoặc nhìn chúng như những công cụ đối kháng với nhà nước.
Ngược lại, chúng chính là những 'van' xả áp lực, giúp xoa dịu sự bất bình của người dân đối với nhà nước và chế độ.
Thực tế đã chỉ rõ, các nước XHCN Đông Âu trước đây không sụp đổ vì hoạt động của các tổ chức và hội đoàn dân sự, mà trái lại là do không có phương tiện giúp giảm bớt sự bức bối và phẫn nộ của người dân đối với các chính sách bất công và bất hợp lý của chính quyền.
Như mọi tập hợp và tổ chức hình thành một cách tự nguyện và có tính ngẫu nhiên theo tình hình thực tiễn khác nhau, các hội dân sự rất dễ bị tấn công, phá hủy hoặc bị lợi dụng. Để tránh điều đó, nhà nước nên nhanh chóng ban hành luật về hoạt động của hội dân sự.
Bởi lẽ bảo vệ sự tồn tại và bảo đảm hoạt động minh bạch của hội dân sự bằng một hành lang pháp lý cụ thể trước hết chính là vì lợi ích của nhà nước trong việc điều hành xã hội và tạo dựng lòng tin của người dân vào chế độ.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của luật sư Lê Công Định, một nhà hoạt động, cựu tù nhân chính trị ở Việt Nam.