Time
Magazine
9 tháng 7, 2008
Bài
viết nhân ngày Nelson Mandela 90 tuổi
Mandela: 8 Nguyên Tắc Lãnh Đạo[*]
Nelson Mandela là một người dễ gần với trẻ con; nói theo nhiều cách
khác nhau, sự mất mát lớn nhất đối với ông trong 27 năm tù đày chính
là cảm giác không nghe được tiếng trẻ con khóc hay nắm được bàn tay
của một đứa trẻ. Tháng vừa rồi, khi tôi viếng thăm Mandela - một
Mandela yếu hơn, ít hoạt bát hơn một Mandela mà tôi đã từng biết - ở
Johannesburg , phản ứng đầu tiên của ông là giang rộng cánh tay đối
với hai người con trai của tôi. Trong khoảnh khắt, tụi nó ôm lấy
người đàn ông già dễ tính, người đã hỏi chúng nó thích chơi môn thể
thao nào và đã ăn sáng chưa. Trong khi chúng tôi nói chuyện với
nhau, ông ôm đứa con trai Gabriel của tôi; thằng bé có một cái tên
giữa hơi khó đọc là Rolihlahla - đó là cái tên họ thật của Nelson
Mandela. Ông kể cho Gabriel về câu chuyện liên quan đến cái tên đó,
và theo tiếng Xhosa nó có nghĩa là "kéo cái nhánh cây xuống", nhưng
nghĩa thực sự của nó là "kẻ phá rối".
Trong khi ông sắp kỉ niệm sinh nhật
lần thứ 90 của ông vào tuần tới, Nelson Mandela đã "phá rối" đủ
trong suốt quãng đời của ông. Ông đã giải phóng một đất nước khỏi hệ
thống phân biệt chủng tộc trầm trọng và giúp hòa hợp giữa người da
trắng và người da đen, người đàn áp và người bị đàn áp, theo một
cách mà chưa ai làm bao giờ. Trong những năm 1990, tôi đã làm việc
cùng với Mandela gần hai năm để cho ra cuốn tự truyện " Long Walk to
Freedom (Chuyến hành trình dài dẫn tới Tự Do)". Sau khoảng thời gian
gắn bó cùng ông đó, tôi có một cảm giác rất hụt hẫng khi mà quyển
sách đã hoàn thành; nó giống như là một mặt trời đã đi qua cuộc đời
của một ai đó. Chúng tôi đã gặp nhau thỉnh thoảng theo thời gian,
nhưng cái mà tôi đã muốn đó là một chuyến viếng thăm có thể là lần
cuối với ông và để hai đứa con trai tôi có dịp gặp ông thêm một lần
nữa.
Tôi cũng muốn chuyện trò với ông về
khả năng lãnh đạo. Mandela là một hình ảnh gần gũi nhất mà thế giới
này có về một ông thánh sống, nhưng ông chắc sẽ là người đầu tiên
công nhận rằng ông bình thường hơn nhiều: chỉ là một chính trị gia.
Ông đã lật đổ chế độ phân biệt chủng tộc (apartheid) và tạo nên một
nước dân chủ phi chủng tộc Nam Phi bằng cách biết chính xác khi nào
và như thế nào để thay đổi giữa những vai trò của ông ấy: một chiến
binh, một kẻ tử đạo, một nhà ngoại giao, và một lãnh đạo quốc gia.
Không thích những khái niệm triết thuyết trừu tượng, ông thường nói
với tôi một vấn đề không phải là một câu hỏi mang tính nguyên tắc
(principle) mà là một câu hỏi về chiến lược (tactics). Ông ta là một
nhà chiến lược xuất sắc.
Mandela không còn thích những câu
hỏi hay đặc ân. Ông sợ ông có thể không thể đưa ra những kiến giải
mà mọi người mong đợi khi họ viếng thăm một vị thánh sống. Nhưng thế
giới đã chưa bao giờ cần những món quà từ Mandela - một nhà chiến
lược gia, một nhà hoạt động, một chính trị gia - và hơn thế nữa, như
ông đã chứng tỏ một lần nữa ở London vào ngày 25 tháng 6, khi ông
lên án hành động tàn bạo của tổng thống Robert Mugabe của Zimbabwe.
Khi mà chúng ta chứng kiến một chiến dịch tranh cử tống thống lịch
sử đang diễn ra ở Mỹ, có nhiều thứ mà ông có thể chỉ bảo cho hai ứng
cử viên. Tôi đã hình dung ra những qui luật của Madiba (tên gọi thân
thiện mà các người xung quang hay gọi) mà tôi sẽ giới thiệu bạn. Các
qui luật này được để ý từ những cuộc đàm thoại và từ cách quan sát
ông ấy từ xa, hay ở gần. Nó rất thực tế. Nhiều trong chúng nó xuất
phát từ chính kinh nghiệm bản thân của ông. Tất cả những qui luật đó
được định dạng để tạo nên một cách "phá rối" tốt nhất: cách mà khiến
chúng ta tự hỏi rằng làm sao chúng ta có thể làm cho thế giới tốt
hơn.
Nguyên tắc thứ 1.
Sự dũng cảm không có nghĩa là
không có sợ sệt - nó chỉ là cách truyền cảm hứng để những người khác
tiến về phía trước (Courage is not the absence of fear -it's
inspiring others to move beyond it).
Trong năm 1994, trong suốt chiến
dịch vận động tranh cử tổng thống, Mandela ngồi trên một máy bay
cánh quạt nhỏ bay xuống những cánh đống giết chóc ở Natal và diễn
thuyết cho những người ủng họ tộc Zulu. Tôi đã hẹn gặp ông tại sân
bay, nơi mà chúng tôi sẽ tiếp tục công việc sau bài diễn văn của ông
ta. Khi mà chiếc máy bay chỉ còn 20 phút nữa là hạ cánh, một động cơ
của máy bay bị hỏng. Vài hành khách bắt đầu hoảng sợ. Điều duy nhất
khiến họ bình tĩnh là nhìn Mandela. Ông đang im lặng đọc báo như thể
ông là một hành khách đang trên chuyến xe lửa buổi sáng đến văn
phòng. Sân bay đã chuẩn bị phương án hạ cánh khẩn cấp và viên phi
công cuối cùng cũng hạ cánh an toàn. Khi Mandela và tôi đã an tọa
trên băng ghế sau của chiếc xe BMW chống đạn đến dự cuộc mittinh,
ông quay sang tôi và nói, " êh mạy, tao thấy lúc nãy kinh khủng
quá".
Mandela thường sợ trong suốt khoảng
thời gian ông hoạt động ngầm, trong suốt phiên tòa Rivonia, mà kết
cục đưa ông vào tù, trong suốt thời gian ở đảo Robben. "Dĩ nhiên,
tôi sợ", mãi sau ông mới nói với tôi. "Tôi không thể giả vờ rằng tôi
dũng cảm và tôi có thể đánh bại toàn bộ thế giới này". Nhưng với vị
trí của một lãnh đạo, bạn không thể để mọi người biết. "Bạn phải
tiến lên trước".
Và đó chính là cái ông đã học được:
giả vờ và, thông qua hành động không sợ hãi, truyền cảm hứng cho
những người khác. Mandela đã đóng vai một diễn viên kich câm hoàn
hảo trên đảo Robben, một nơi đầy sợ hãi. Những người ở tù chung với
ông ấy nói nhìn Mandela bước ra sân đứng thẳng và tự hào đã đủ để họ
chịu đựng được ngày qua ngày. Ông đã biết ông là người làm gương cho
những người khác và điều đó cho ông sức mạnh để chiến thằng nỗi sợ
hãi của chính ông.
Nguyên tắc thứ 2.
Đi trước để lãnh đạo, nhưng đừng bỏ mất hậu thuẫn (Lead from
the front but don't leave your base behind)
Mandela là người kín đáo.
Năm 1985, ông phẫu thuật vì bị giãn tuyến tiền liệt. Khi ông được
đưa trở lại tù, ông bị cách ly khỏi những người bạn tù và những đồng
chí lần đầu tiên trong suốt 21 năm. Họ biểu tình. Nhưng người bạn
lâu năm của ông, Ahmed Kathrada nhớ lại, ông nói với họ " Đợi một
lúc đã tụi bây. Có thể gặp điều tốt lành sau đó đó".
Điều tốt lành sau đó là việc Mandela
đã một thân một mình đưa ra những thương thuyết với chính quyền phân
biệt sắc tộc apartheid. Đây là một việc bị lên án bởi ANC (African
National Congress - Đại Hội Quốc Gia Châu Phi). Sau hàng thập niên
với quan điểm "những người tù không thể đàm phán", và sau khi chủ
trương một cuộc đấu tranh vũ trang để hạ gục chính quyền, ông đã
quyết định đây là thời điểm đúng đắn để bắt đầu những cuộc thương
thuyết với những kẻ đàn áp.
Khi ông bắt đầu những cuộc thương
thuyết với chính quyền vào năm 1985, có rất nhiều người nghĩ rằng
ông đã thất bại. "Chúng tôi nghĩ ông đang phản bội", Cyril
Ramaphosa, sau này là một lãnh đạo quyền lực và nóng nảy của
National Union of Mineworkers, nhớ lại. "Tôi đến gặp ông ta và hỏi,
ông đang làm cái gì vậy ? Nó thật là một sáng kiến không thể tin
nổi. Ông ấy đã đi một bước với nhiều rủi ro".
Mandela phát động một chiến dịch để
thuyết phục ANC rằng ông đang thực hiện một chiến lược đứng đắn. Uy
tín của ông bắt đầu đi lên. Ông đến gặp từng đồng chí trong tù và
giải thích cái ông đang làm, Kathrada nhớ lại. Chậm và cân nhắc, ông
đã tạo được niềm tin nơi họ. " Bạn cần phải giữ sự hậu thuẫn bên
cạnh", Ramaphosa - người đã từng là tổng thư kí của ANC và bây giờ
là một thương gia có thế lực - nói. "Một khi bạn đã đạt được mục
tiêu, sau đó bạn nên cho phép những người đi theo tiến lên trước.
Ông ấy không phải là một người lãnh đạo vắt chanh bỏ vỏ.
Đối với Mandela, từ chối thương thảo
chỉ là một chiến thuật, không phải là một nguyên tắc. Trong suốt
cuộc đời ông, ông đã luôn làm nên điều độc đáo đó. Nguyên tắc bất di
bất dịch của ông - vứt bỏ chế độ phân biệt chủng tộc và giành được
sự bình đẳng giữa những con người với nhau - là không thể thay đổi,
nhưng bất cứ điều gì giúp ông đạt được mục tiêu đó luôn được ông coi
là một chiến thuật. Ông là một người thực dụng.
"Ông là một nhân vật lịch sử",
Ramaphosa nói. "Ông đã nghĩ ra đường đi trước chúng tôi. Ông đã có ý
nghĩ về thế hệ kế tiếp: họ sẽ nghĩ gì về những cái mà chúng tôi đã
làm." Nhà tù đã cho ông khả năng có được một tầm nhìn xa; không thể
có một cái nhìn khác. Những ý nghĩ của ông không giới hạn ở ngày hay
tháng mà theo thập niên. Ông biết rằng lịch sử đứng về phía ông, và
rằng kết quả đó là không thể đảo ngược; nó chỉ là một câu hỏi của
thời gian - bao lâu và như thế nào để đạt được. "Về lâu dài, nó sẽ
tốt đẹp hơn", thỉnh thoảng ông đã nói. Ông đã luôn hoạt động với một
tầm nhìn xa.
Nguyên tắc thứ 3.
Đứng sau để lãnh đạo - và để
những người khác tin rằng họ đang đi đầu (Lead from the back -
and let others believe they are in front)
Mandela thích nhớ lại thưở thiếu
niên của ông với những buổi chiều chăn gia súc. "Bạn biết đó", ông
nói, "bạn chỉ có thể hướng dẫn chúng nó từ phía sau". Ông ta nhướng
mày sau đó để chắc chắn rằng tôi hiểu ý ông muốn nói.
Khi còn là một cậu bé, Mandela bị
ảnh hưởng nhiều bởi Jongintaba, vị tù trưởng bộ lạc, người đã nuôi
ông. Khi Jongintaba có những buổi họp trong sân nhà của ông, những
người đàn ông tụ tập theo một vòng tròn, và chỉ sau khi tất cả đã
nói hết thì vị tù trưởng mới bắt đầu lên tiếng. Nhiệm vụ của một
người lãnh đạo, Mandela nói, không phải là nói cho mọi người nên làm
cái gì, mà là để hình thành một đồng thuận (consensus). "Đừng chen
vào một cuộc tranh luận quá sớm", ông đã từng nói như vậy.
Trong suốt thời gian tôi làm việc
với Mandela, ông thường tổ chức những cuộc họp trong nhà của ông ở
Houghton, một khu ngoại ô cũ đáng yêu của Johannesburg. Ông sẽ tụ
tập khoảng nửa tá thành viên, Ramaphosa, Thabo Mbeki (người mà hiện
nay là tổng thống Nam Phi) và những người khác xung quanh một bàn ăn
tối hay thỉnh thoảng theo một vòng tròn chổ đường lái xe vào nhà của
ông (driveway). Một vài đông nghiệp của ông có thể đã hét lên, rằng
tiến lên nhanh lên, cứn rắng hơn, và Mandela chỉ lắng nghe. Cuối
cùng, khi ông nói tại những buổi họp như vậy, ông chậm rãi và cẩn
thận tóm lược các ý chính các phát biểu của mỗi người, và sau đó đưa
ra các phát biểu của chính ông; một cách tinh tế hướng dẫn quyết
định chung theo hướng mà ông muốn, làm vậy ông tránh được sự áp đặt
- điều mà ông không muốn. Bí quyết của khả năng lãnh đạo là cho phép
chính bạn cũng bị lãnh đạo. "Điều khôn ngoan là thuyết phục mọi
người làm những việc và khiến họ nghĩ rằng những việc làm đó xuất
phát từ những ý kiến của riêng họ", ông nói.
Nguyên tắc thứ 4.
Hiểu kẻ thù của bạn - và học môn
thể thao mà hắn thích. (Know your enemy - and learn about his
favorite sport)
Khoảng những năm 1960, Mandela bắt
đầu học tiếng Afrikaans (tiếng Hà Lan ở Nam Phi), ngôn ngữ của những
người da trắng Nam Phi, những người đã tạo ra chế độ phân biệt chủng
tộc apartheid. Những đồng chí trong ANC trêu chọc ông về điều này,
nhưng lúc đó ông muốn hiểu thế giới quan của những người Afrikaner
(Afrikaner là những người châu Âu da trắng đến Nam Phi định cư trong
giai đoạn đầu khai thác thuộc địa bắt nguồn từ sự khám phá ra mũi
Hảo Vọng của phương Tây, những người này tạo ra chế độ phân biệt
chủng tộc aparthied - chú thích của người dịch). Ông cũng đã biết
rằng một ngày nào đó ông sẽ chống lại họ hay thương thảo với họ,
bằng cách này hay cách khác, số phận của ông đã gắn chặt với số phận
của họ.
Điều này mang tính chiến lược ở hai
điểm: bằng cách nói bằng thứ ngôn ngữ của đối thủ, ông có thể hiểu
được sức mạnh và điểm yếu của họ để từ đó hình thành nên những chiến
thuật hợp lý. Nhưng điều đó cũng giúp cho ông chiếm được cảm tình
của kẻ thù. Bất cứ người nào, từ những người lính gác bình thường
đến P.W.Botha đã rất ấn tượng trước việc Mandela có thể nói tiếng
Afrikaans và kiến thức của ông về lịch sử của người Afrikaner. Ông
thậm chí cũng từng ôn lại kiến thức của ông về môn bóng bầu dục, một
môn thể thao yêu thích của những người Afrikaner, vì thế ông có thể
so sánh những điểm mạnh yếu về những đội bóng và các cầu thủ.
Mandela đã hiểu rằng người da đen và
người Afrikaner có những điểm chung mang tính nền tảng: những người
Afrikaner tin một cách sâu sắc rằng họ chính là những người châu phi
giống như những người da đen. Ông cũng biết rằng những người
Afrikaner chính họ cũng là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc:
chính phủ Anh và những người định cư người Anh hạ thấp và coi họ là
tầng lớp bên dưới. Những người Afrikaner chịu đựng một sự tự ti về
văn hóa giống như người da đen đã chịu đựng.
Mandela là một luật sư, và khi còn ở
trong tù ông đã giúp những giám tù những vấn đề về luật pháp. Họ kém
xa ông về giáo dục và kinh nghiệm, và đó là một điều bất thường rằng
một người da đen sẵn lòng và có thể giúp họ. Những người này là
"những nhân vật tàn ác và hung bạo nhất trong chế độ phân biệt chủng
tộc", Allister Sparks - sử gia nổi tiếng nhất Nam Phi - nói, và ông
ấy đã nhận ra rằng "có thể đàm phán với những người thô bạo và tệ
hại nhất".
Nguyên tắc thứ 5.
Giữ gìn sự gần gũi với những
người bạn - và gần hơn nữa với những đối thủ (Keep your friends
close - and your rivals even closer).
Nhiều người khách Mandela mời tới
ngôi nhà ông xây ở Qunu là những người, mà ông bí mật nói riêng với
tôi, là ông không hoàn toàn tin tưởng. Ông mời họ ăn tối; ông tư vấn
với họ; ông tâng bốc họ và tặng họ quà. Mandela là một con người có
sức hấp dẫn vô cùng - và thường ông đạt được những ảnh hưởng to lớn
với các đối thủ hơn là các đồng minh khi dùng sức hấp dẫn đó
Trên đảo Robben, Mandela luôn để
trong đầu những người ủy nhiệm (trust men), những người mà ông không
thích cũng không tin vào. Một người đã trở thành gần gũi với ông là
Chris Hani, thủ lãnh hung hăng của cánh quân sự của ANC. Có vài
người nghĩ rằng Hani đang âm mưu chống lại Mandela, nhưng ông đã hòa
đồng với Hani. "Không phải chỉ có Hani", Ramaphosa nói. "Nó còn là
những nhà tư bản công nghiệp lớn, những gia đình khai mỏ, và đối
lập". Ông có thể nhấc điện thoại và gọi họ để chúc mừng sinh nhật
của họ. Ông cũng sẽ dự đám tang của gia đình họ. Ông thấy rằng điều
đó chính là cơ hội". Khi Mandela ra khỏi nhà tù, ông đã trở nên nổi
tiếng khi đưa những người cai tù nằm trong danh sách những người bạn
của ông và đưa những người lãnh đạo - những người đã bỏ tù ông - vào
những vị trí trong nội các đầu tiên của ông. Tuy nhiên tôi biết rõ
rằng ông khinh thường vài trong số những người này.
Có những lúc ông phủi tay trách
nhiệm - và những lần khi mà giống như rất nhiều người khác vốn có
một sức hấp dẫn lớn, ông cho phép chính mình được hấp dẫn. Mandela
ban đầu phát triển một mối quan hệ nhanh chóng với tồng thống Nam
Phi F.W.De Klerk, điều mà tại sao sau này ông cảm thấy bị phản bội
khi De Klerk tấn công ông giữa công chúng.
Mandela tin rằng ôm lấy đối thủ là
một cách để điều khiển được họ: họ sẽ nguy hiểm hơn nếu họ là chính
họ hơn là trong vòng ảnh hưởng của ông. Ông yêu mến lòng trung
thành, nhưng ông không bao giờ sở hữu nó. Sau cùng, ông đã từng nói,
"con người hành động vì quyền lợi của chính bản thân họ". Đó đơn
giản là bản chất tự nhiên của con người, không phải một lỗi lầm hay
một khiếm khuyết. Mặt trái của một người lạc quan - mà ông là một -
là quá tin vào người khác. Nhưng Mandela công nhận rằng cái cách để
làm việc với những người ông không tin là trung hòa họ bằng sức hấp
dẫn.
Nguyên tắc thứ 6.
Chú ý đến diện mạo bên ngoài - và
nhớ Tươi Cười. (Appearancess matter - and remember to smile)
Khi Mandela là một sinh viên luật
nghèo ở Johannesburg thường mặc bộ comle cũ sờn, ông đã chú ý đến
cách ăn mặc của Walter Sisulu. Silulu là một nhân viên địa ốc và là
một lãnh đạo trẻ của ANC. Mandela cảm nhận được người đàn ông da đen
thành công và sành điệu, người mà ông có thể cạnh tranh. Silulu đã
thấy được tương lai.
Silulu đã từng nói với tôi rằng nỗ
lực lớn nhất của ông trong những năm 1950 là biến ANC thành một
phong trào lớn mạnh; và vào một ngày sau khoảng thời gian đó, ông
nhớ lại một nụ cười, "một người lãnh đạo lớn đi vào trong văn phòng
của tôi". Mandela cao và đẹp trai, một võ sĩ đấm bốc nghiệp dư,
người mà mang theo không khí vương giả của đứa con trai một người
lãnh đạo. Và anh ta có nụ cười giống như mặt trời khi ra khỏi một
ngày đầy mây.
Chúng ta thỉnh thoảng quên đi mối
quan hệ lịch sử giữa khả năng lãnh đạo và tố chất. George Washington
là người cao nhất và chắc chắn là người khỏe mạnh nhất trong mỗi căn
phòng ông ta bước vào. Kích cỡ và sức mạnh liên quan nhiều tới DNA
hơn là những gì với khả năng lãnh đạo, tuy nhiên Mandela hiểu rằng
diện mạo của ông có thể tạo ra một sự thuận lợi. Với tư cách là lãnh
đạo của cánh quân sự ngầm của ANC, ông khăng khăng rằng ông nên được
chụp hình trong những bộ đồng phục tươm tất và với một bộ râu, và
xuyên suốt sự nghiệp, ông đã chú tâm đến cách ăn mặc hợp lý cho vị
trí của ông. George Bizos, luật sư của ông, nhớ rằng lần đầu ông gặp
Mandela tại một tiệm hớt tóc của người Ấn Độ khoảng những năm 1950,
và Mandela là người da đen Nam Phi đầu tiên tươm tất trong bộ
comple. Giờ đây, đồng phục của Mandela là một loạt những áo sơ mi in
một cách hoa mỹ; điều này nhằm thể hiện rằng ông vui sướng là người
khai sinh ra một nước Nam Phi hiện đại.
Khi Mandela chạy đua cho chiến dịch
tranh cử tổng thống năm 1994, ông biết rằng những biểu tượng có ý
nghĩa không kém vật chất. Ông chưa bao giờ là một nhà hùng biện công
cộng giỏi, và người ta thường chuyển kênh tivi ngay sau khi nghe ông
nói được vài phút đầu. Tuy nhiên, người ta hiểu ông nhờ những hình
ảnh. Khi ông ở trên bục diễn thuyết, ông thường luôn luôn làm
toyi-toyi, một kiểu nhảy địa phương tượng trưng của sự đấu tranh.
Nhưng quan trọng hơn là một nụ cười đẹp và tỏa sáng. Đối với người
Nam Phi da trắng, nụ cười biểu tượng cho sự quên đi sự đắng cay của
Mandela và nghĩ rằng ông ta thông cảm với họ. Đối với những cử tri
da đen, điều đó nói lên rằng, tôi là một chiến binh vui vẻ và chúng
ta sẽ chiến thắng. Những quảng cáo tranh cử khắp nơi của ANC chỉ đơn
giản là một khuôn mặt cười. "Nụ cười là thông điệp", Ramaphosa nói.
Sau khi ông ra khỏi tù, người ta
thường nói bỏ qua, bỏ qua. Nhưng thật là ngạc nhiên rằng ông ta
không cảm thấy cay đắng. Có hàng ngàn lý do mà Nelson Mandela cảm
thấy cay đắng, nhưng ông đã biết rằng hơn bất cứ thứ gì khác, ông
phải diễn đạt chính xác cái xúc cảm đối nghịch. Ông luôn nói "Quên
quá khứ" - nhưng tôi biết ông chưa bao giờ làm như vậy.
Nguyên tắc thứ 7.
Không có Trắng hay Đen
(Nothing is black or white)
Khi chúng tôi bắt đầu loạt phỏng
vấn, tôi thường hỏi Mandela những câu hỏi kiểu như câu sau đây: khi
ông quyết định giải thể đấu tranh vũ trang, có phải bởi vì ông đã
nhận ra rằng ông không có đủ sức để lật đổ chính quyền hay bởi vì
ông biết rằng ông có thể chiến thắng dư luận thế giới bằng cách chọn
hình thức phi bạo lực ? Ông nhìn tôi bằng một ánh mắt lạ lùng và nói
"tại sao không là cả hai ?".
Tôi bắt đầu hỏi những câu thông minh
hơn, nhưng thông điệp thì rất rõ ràng: cuộc sống chưa bao giờ là
trắng hay đen. Những quyết định rất phức tạp, và có những yếu tố
mang tính cạnh tranh. Để tìm những cách lý giải đơn giản, hãy nhìn
sự thiên lệch của bộ não con người, nhưng nó cũng không tương thích
với thực tế. Không có điều gì là dễ hiểu hơn như khi nó mới xuất
hiện.
Mandela thích hợp với sự mâu thuẫn.
Với vai trò một chính trị gia, ông ta là một người thực dụng, thấy
được thế giới có vô vàn sắc thái. Có được nhiều thứ đó, tôi tin
rằng, do ông sống với tư cách một người da đen dưới một chế độ phân
biệt chủng tộc cung cấp các chọn lựa khắt khe và suy nhược về tính
đạo đức hàng ngày: tôi có nên chiều theo ông chủ da trắng để có một
việc làm và tránh bị trừng phạt ? Tôi có nên mang giấy phép ?
Với tư cách là một chính khách,
Mandela, một cách khác thường, trung thành với Muammar Gaddafi và
Fidel Castro. Họ cũng đã giúp ANC khi mà Hoa Kỳ còn gọi Mandela là
một tên khủng bố. Khi tôi hỏi ông về Gaddafi và Castro, ông ám chỉ
rằng Hoa Kỳ có xu hường nhìn những sự việc giữa trắng và đen, và ông
đã quở trách tôi vì sự thiếu kiến thức về sắc thái (nuance). Mỗi bài
toán có nhiều vấn đề. Trong khi ông rõ ràng và dứt khoát chống lại
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, những nguyên nhân của chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc rất phức tạp. Chúng nó là những nguyên nhân có tính
lịch sử, xã hội và tâm lý. Cách tính toán của Mandela luôn là, mục
đích cuối cùng tôi đang tìm kiếm là gì ? và đâu là con đường thực tế
để đạt được nó ?
Nguyên tắc thứ 8.
Rời bỏ cũng là lãnh đạo
(Quitting is leading, too).
Năm 1993, Mandela hỏi tôi có biết
bất cứ quốc gia nào mà tuổi thấp nhất được quyền bầu cử là dưới 18
tuổi. Tôi làm một cuộc tra cứu và đưa ông một danh sách: Indonesia,
Cuba, Nicaragua, Bắc Triều Tiên và Iran. Ông gật đầu và thốt ra:
"Rất tốt, rất tốt". Hai tuần sau, Madela lên truyền hình Nam Phi và
đề nghị tuổi thấp nhất được quyền bầu cử là 14 tuổi. "Ông ta cố gắng
đưa ra cho chúng ta một ý kiến", Ramaphosa nhớ lại, "nhưng ông là
người duy nhất (ủng hộ). Và ông ta phải đối diện với thực tế là nó
sẽ không được tán thành. Ông ta chấp nhận nó với một sự khiêm tốn
lớn. Ông không hờn dỗi. Điều đó cũng là một bài học về khả năng lãnh
đạo".
Biết cách từ bỏ một ý kiến, một
nhiệm vụ hay một mối quan hệ sai lầm thường là loại quyết định khó
khăn nhất một lãnh đạo phải làm. Theo nhiều cách, sự hợp pháp lớn
nhất của Mandela trong vai trò một tổng thống Nam Phi là cách ông đã
chọn để rời bỏ nó. Khi thắng cử vào năm 1944, Mandela có thể chắc
chắn để ấn định là tổng thống suốt đời - và có nhiều nhiều người
nghĩ rằng để bù đắp cho khoảng thời gian ông ta ở tù, đó là điều ít
nhất mà Nam Phi có thể làm.
Trong lịch sử Nam Phi, chỉ có một
nhúm lãnh đạo được bầu dân chủ là sẵn lòng bước ra khỏi chiếc ghế.
Mandela đã quyết đinhk tạo thành một tiền lệ cho những người theo
sau ông ta - không chỉ ở Nam Phi mà toàn bộ phần còn lại của châu
lục. Ông ta là một người chống lại Mugabe - người khai sinh ra đất
nước ông - đang cố gắng nắm giữ quyền lực. "Nhiệm vụ của ông là tạo
ra một con đường đi, không phải vận hành con tàu". Ramaphosa nói.
Ông ta biết rằng những người lãnh đạo thể hiện vai trò lãnh đạo bằng
cách chọn những cái họ không làm có ý nghĩa quan trong không kém như
khi họ chọn cái để làm.
Cuối cùng, chìa khóa để hiểu Mandela
là trong suốt 27 năm tù của ông. Một người đàn ông bước trên đảo
Robben vào năm 1964 xúc động, ương ngạnh, dễ bị chọc tức. Người đàn
ông bước ra khỏi tù cân bằng và kỷ luật. Ông ta chưa bao giờ tự xem
xét nội tâm. Tôi thường hỏi ông một người ra khỏi tù khác một người
trẻ tuổi ương ngạnh vừa mới bước vào tù như thế nào. Ông ghét câu
hỏi này. Cuối cùng, trong tâm trạng bực tức vào một ngày, ông nói
"tôi đã bước ra một cách trưởng thành". Không có gì là hiếm có - hay
giá trị như vậy - khi là một người đàn ông trưởng thành. Chúc mừng
sinh nhật, Madiba.
Nguyễn Huy Vũ dịch
18.07.2008
Nguồn:
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1821467,00.html
[*]
Bài viết của tạp chí Time nhân ngày Nelson Mandela thọ 90
tuổi
NHV gửi cho viet-studies ngày 6-12-13 |