Những ẩn số và biến
số trên bàn cờ Biển Đông
Nguyễn Quang Dy
“Ai kiểm soát Biển
Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế
giới.”
(Alexander Vuving, “Trung Quốc
sẽ làm gì ở Biển Đông”, Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016).
Trong báo cáo “Asia-Pacific
Rebalance 2025: Capabilities, Presence, and Partnerships”, CSIS, January
19, 2016), các chuyên gia CSIS đã cảnh báo rằng Trung Quốc trỗi dậy
là “thách thức chính” đối với
Mỹ, và “đến năm 2030 thì Biển
Đông hầu như sẽ trở thành cái ao của Trung Quốc” (“by 2030 the South
China Sea will be virtually a Chinese lake”).
Liệu Việt Nam và Mỹ có muốn điều
đó không, và có thể làm gì để ngăn chặn điều đó?
Biển Đông lại nổi sóng
Đầu tháng 5/2014, Trung Quốc kéo dàn khoan khổng lồ HD891 vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông, tạo ra khủng hoảng và bước
ngoặt trong quan hệ Việt-Trung. Nếu sự kiện đó là “tập một” trong chiến
lược giàn khoan (oil rig offenssive) thì những gì đang diễn ra có thể là
“tập hai”, nhằm từng bước biến Biển Đông thành cái ao của Trung Quốc
(nếu Mỹ và các nước khác hành động quá ít và quá chậm). Ngày 16/6/2017,
Trung Quốc lại thông báo giàn khoan HD981 “sẽ
hoạt động ngay gần cửa vịnh Bắc Bộ trong 3 tháng…”
Trong khi HD891
tiếp tục di chuyển xuống phía Nam thì Trung Quốc triển khai khoảng 40
tàu hải giám (và máy bay Y8) tại khu vực quanh bãi Tu Chính
(Vanguard Bank) để ngăn cản Việt Nam triển khai dự án khai thác dầu
Cá Rồng Đỏ (lô 136-3) cách
Vũng Tàu khoảng 450km (trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam), do
PetroVietnam hợp tác với Talisman (nay là Repsol của Tây Ban Nha). Theo
Carl Thayer (UNSW) có khả năng
xảy ra đụng độ trong những ngày tới.
Lê
Hồng Hiệp (ISEAS) cũng nhất trí: “Nếu
Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình và tiếp tục thăm dò, thì
đương nhiên sẽ xảy ra đụng độ với Trung Quốc”.
Biển Đông lại nổi
sóng và kịch bản cũ dường như đang được lặp lại, nhưng trong một bối
cảnh mới khó dự đoán hơn, vì có nhiều ẩn số và biến số.
Theo Bill Hayton (BBC, 26/6/2017), tướng Phạm Trường Long đã đến Tây Ban
Nha trước khi đến Việt Nam (có lẽ để yêu cầu chính phủ Tây Ban Nha ép
Repsol bỏ cuộc).
Chưa biết Việt Nam
sẽ nhượng bộ hay sẽ thách thức Trung Quốc. Lúc này có thể Trung Quốc
chưa sẵn sàng làm liều, vì họ còn đang bận chuẩn bị Đại hội Đảng 19 (vào
cuối năm nay) và đang triển khai chiến dịch lấy lòng người (Charm
Offensive) để quảng cáo cho quốc sách “Một
vành đai, Một con đường”.
Trong khi đó, dư luận Việt Nam (và quốc tế) đang ồn ào về sự kiện tướng
Phạm Trường Long (phó chủ tịch quân ủy TW) và phái đoàn quân sự cấp cao
Trung Quốc đến Hà Nội (18/6/2017) đã đột ngột bỏ về. Tại sao tướng Long
đến rồi lại đột ngột bỏ về? Nguyên nhân gì làm quan hệ Việt-Trung căng
thẳng? Liệu có dẫn đến xung đột hay không? Ý nghĩa của hợp tác chiến
lược Viêt-Mỹ/Việt-Nhật? Và những biến số trên bàn cờ Biển Đông?
Để làm rõ các câu hỏi đó, cần đặt chúng trong bối cảnh mới. Quan hệ
Viêt-Trung có nhiều vấn đề, nhưng tranh chấp Biển Đông vẫn là then chốt
nhất, vì nó không chỉ liên quan đến quan hệ song phương Việt-Trung (như
Trung Quốc muốn) mà còn liên quan đến nhiều nước khác ngoài ASEAN, đặc
biệt là tam giác Mỹ-Trung-Nhật. Những biến chuyển trong quan hệ Viêt-Mỹ
và Việt-Nhật gần đây đã tác động trực tiếp đến quan hệ Việt-Trung.
Tại sao Phạm Trường
Long đột ngột bỏ về?
Sau hai chuyến đi Mỹ và Nhật (liền nhau) của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc,
với kết quả đạt được về kinh tế và an ninh, chắc chắn Trung Quốc khó
chịu và phản ứng. Tại sao lần này Bắc Kinh lại cử tướng Phạm Trường Long
(Fan Changlong) chứ không phải Dương Khiết Trì hay Trương Cao Lệ (như
lần trước)? Có lẽ vì vấn đề cốt lõi trong chuyến đi Mỹ và Nhật của Thủ
tướng Phúc là hợp tác quốc phòng. Tuy vấn đề thương mại (ký được hợp
đồng $8 tỷ với Mỹ) cũng quan trọng, nhưng không quan trọng bằng thỏa
thuận về quốc phòng.
Về điểm này, tôi tán thành nhận xét của Lê Hồng Hiệp:
“đáng chú ý là nội dung về
hợp tác quốc phòng giữa hai bên, Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như Việt Nam
và Nhật Bản, được nêu bật, đặc biệt là trong tuyên bố chung giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ, hai bên thảo luận việc để tàu sân bay của Hoa Kỳ vào cảng
Cam Ranh. Đây có thể là nguyên nhân chính khiến cho Trung Quốc không cảm
thấy thoải mái, và rõ ràng là Trung Quốc muốn gây sức ép để Việt Nam
không nghiêng quá gần về phía Hoa Kỳ hay Nhật Bản, vì Hoa Kỳ và Nhật Bản
là những đối thủ cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc trong khu vực này”.
(ISEAS, June 20, 2017).
Hà Nội có biết
trước là Bắc Kinh sẽ phản ứng không? Chắc chắn là biết. Nhưng Việt Nam
bị mắc kẹt (như “catch- 22”)
giữa hai nước lớn, nên buộc phải cân bằng quan hệ trong tam giác
Mỹ-Trung-Việt. Tuy không muốn làm mất lòng Trung Quốc, nhưng Việt Nam
phải tăng cường hợp tác với Mỹ và Nhật vì lợi ích sống còn (cả kinh tế
và an ninh). Vì vậy, Chủ tịch nước Trần Đại Quang phải đi thăm Trung
Quốc (11-15/5/2017) trước khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thăm Mỹ
(29-31//2017). Đó là nước cờ “ngoại
giao phòng ngừa” để cân bằng quan hệ với hai nước lớn, nhưng có thể
không đủ để xoa dịu Bắc Kinh, vì lợi ích cốt lõi của hai bên khác nhau
tới mức không thể dung hòa. Xã
luận Thời báo Hoàn Cầu chỉ trích Việt Nam ngay khi tướng Long đến Hà
Nội. Họ lớn tiếng kẻ cả khuyên ta “chọn
bạn mà chơi”, ám chỉ Việt Nam không được xích lại quá gần Mỹ và Nhật
(Global Times, May 18, 2017).
Ngày 18/6/017,
thượng tướng Phạm Trường Long cùng một đoàn sỹ quan cao cấp gồm tư lệnh
mặt trận Phía Nam (Viên Dự Bách), Phó Tổng tham mưu trưởng Liên quân
(Thiệu Nguyên Minh), Tham mưu trưởng Lục quân (Lưu Chấn Lập), Phó Tư
lệnh Hải quân (Lưu Nghị), Phó Chính ủy Không quân (Tống Côn), và Đại sứ
Hồng Tiểu Dũng, đã đến Hà Nội. Tướng Long đã gặp các lãnh đạo cao nhất
của Đảng, Nhà nước và Quân đội Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên từ sau
chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Thường Vạn Toàn (3/2016), Trung
Quốc cử một đoàn quân sự
cấp cao như vậy đến Việt Nam, chắc không phải vô cớ.
Theo New York Times
(21/6/ 2017), Bộ Quốc phòng Trung Quốc thông báo chương
trình Giao lưu Hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt-Trung lần thứ 4 đã bị
hủy vì “những lý do liên quan đến
sắp xếp” giữa hai nước. Nhưng nguyên nhân thực sự là tướng Long “đã
tỏ ra giận dữ trong hội đàm kín” về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
và hoạt động ngoại giao tích cực của Việt Nam với Mỹ và Nhật vừa qua.
Tướng Long đã cắt ngắn chuyến thăm và rời Việt Nam tối 18/6 mà không
công bố nguyên nhân. Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tránh né
không giải thích, trong khi báo chí chính thống của Việt Nam không đưa
tin. Trong hội đàm chính thức với Việt Nam, tướng Long nhấn mạnh “toàn
bộ các đảo ở Biển Nam Hải đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời
thượng cổ”. Báo chí chính thống của Việt Nam cũng không đưa tin.
(Vào lúc đó các báo đài bận kỷ niệm “ngày
báo chí cách mạng” 21/6).
Nguyên nhân căng
thẳng Viêt-Trung
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước sức ép to lớn và thách thức nan giải,
cả về kinh tế lẫn an ninh, buộc chính phủ phải đổi mới thể chế và điều
chỉnh chiến lược nước lớn sang tư thế “tái cân bằng tích cực”
(pro-active rebalancing). Muốn duy trì tính chính danh của chế độ trước
cộng đồng quốc tế và cộng đồng dân tộc, khi dân chúng đã mất lòng tin và
bất bình (vì kinh tế xuống dốc, ô nhiễm môi trường, chiếm dụng đất đai,
vi phạm nhân quyền, và phụ thuộc Trung Quốc), Đảng buộc phải tuyên bố
thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế (nghị quyết TW5) chống tham nhũng và điều
chỉnh quan hệ với các nước lớn, để tìm cách tháo gỡ khó khăn.
Có ba nhóm vấn đề chính cần tháo gỡ. Thứ nhất, kinh tế tiếp tục suy
thoái và tụt hậu, ngân sách thâm hụt (thu không đủ chi) vì nợ công quá
lớn và nợ nước ngoài đến hạn, nếu không tái cơ cấu kinh tế một cách thực
chất thì không thể chặn được đà này. Thứ hai, sau khi Mỹ rút khỏi TPP
thì Việt Nam bị hẫng hụt, nếu không đổi mới thể chế và tăng cường hợp
tác quốc tế (với Mỹ, Nhật và EU) thì không thể duy trì được tăng trưởng.
Thứ ba, hầu như ai cũng muốn thoát Trung, vì đất nước phụ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị nên ngày càng rủi ro và
nguy hiểm cho độc lập và chủ quyền quốc gia. Nếu không điều chỉnh quan
hệ với các nước lớn đồng thời tăng cường nội lực thì không thể thoát
Trung được.
Nếu Trung Quốc muốn
“trùm chăn” từng nước láng giềng bằng quan hệ song phương để dễ bắt nạt
thì các nước (ASEAN) phải tung chăn ra và liên kết lại để cùng đối phó
(tại Biển Đông). Tuy Trung Quốc có thể dễ dàng bẻ gãy từng chiếc đũa,
nhưng khó lòng bẻ gãy cả bó đũa. Nếu bó đũa ASEAN còn yếu, họ càng phải
tăng cường liên kết ngoài ASEAN (với Mỹ, Nhật, Ấn, Úc).
Xung quanh chuyến đi Mỹ và Nhật của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, có những
động thái mới đáng chú ý, được phản ánh trong nội dung Tuyên Bố Chung.
Ngày 22-25/5/2017, Mỹ chuyển giao cho Cảnh sát Biển Việt Nam một tàu
tuần duyên (lớp Hamilton,
trọng tải 3250 tấn) và 6 xuồng tuần tra tốc độc cao (trong số 18 chiếc
đã thỏa thuận). Ngày 2/6/2017, khu trục hạm
USS John S. McCain đã đến
Cảng Quốc tế Cam Ranh trong khi TNS John McCain dẫn đầu phái đoàn Ủy ban
Quân lực Thượng viện (cùng Hạ viện Mỹ) đang thăm Việt Nam, đã gặp Chủ
tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Bộ
trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch. Sau đó TNS McCain đã đến Cam Ranh thăm
tàu USS John S. McCain. Đó là một sự kiện mang ý nghĩa tượng trưng cao.
Ngày 11-15/6/2017,
tàu USS Coronado (LCS
4) lại đến Cảng Quốc tế Cam Ranh để thực hiện chương trình bảo dưỡng dự
phòng viễn dương trong khuôn khổ “chuyến
thăm kỹ thuật”. Một ngày không xa, người ta có thể thấy tàu sân bay
Mỹ cập Cảng quốc tế Cam Ranh. Ngày 20/5/2017, tàu
sân bay trực thăng JS Izumo
(tàu chiến lớn nhất của Nhật) đã đến Cảng quốc tế Cam Ranh để tham gia
chương trình “Đối tác Thái Bình
Dương 2017” (PP17) tại Khánh Hòa. Cùng đến Cam Ranh
để tham gia chương trình PP17 còn có tàu khu trục
JS Sazanami của Nhật và tàu
vận tải cao tốc USNS Fall River
của Mỹ. Ngày 13/6/2017, tàu tuần dương
JS Echigo của Nhật lại đến
cảng Tiên Sa, Đà Nẵng để tham gia chương trình huấn luyện chung với Bộ
tư lệnh Cảnh sát Biển Vùng 2 về phối hợp hoạt động trên biển. Nói cách
khác, những hoạt động hợp tác hải quân nói trên là một sự răn đe đối với
Trung Quốc.
Liệu căng thẳng có
dẫn đến xung đột?
Việt Nam bị sức ép phải duy trì tốc độ tăng trưởng nên buộc phải tăng
cường khai thác dầu khí tại Biển Đông, mặc nhiên sẽ đụng chạm tới cái mà
Trung Quốc coi là lợi ích của họ. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách ngăn cản
các hoạt động này của Việt Nam. Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên nếu mâu
thuẫn Việt-Trung tăng lên khi Việt Nam tiếp tục khai thác dầu khí, và
tăng cường hợp tác hải quân với Mỹ và Nhật, qua hai chuyến đi của ông
Phúc. Có lẽ đây là nguyên nhân chính làm quan hệ Viêt-Trung căng thẳng,
và làm tướng Long bỏ về sớm. Tuy đây là “một
chuyện chưa từng có tiền lệ” (theo lời ông Nguyễn Vinh Quang, cựu
phó Đại sứ VN tại Trung Quốc), nhưng có thể Bắc Kinh đã tính toán từ
trước, chứ không phải ngẫu nhiên.
Việt Nam thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa của mình là một
việc chính đáng, không làm phức tạp thêm tình hình vì Việt Nam có chủ
quyền ở đó theo Luật Biển của LHQ. Nhưng nếu Trung Quốc phản đối và ngăn
cản bằng vũ lực thì họ sẽ thách thức quan hệ Việt-Trung, tạo ra khủng
hoảng mới, ngang bằng (thậm chí lớn hơn) vụ khủng hoảng giàn khoan tháng
5/2014. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, chắc cả hai bên đều không
muốn xảy ra xung đột (vì chưa sẵn sàng). Nhưng liệu trong thời gian tới,
hai bên có thể ngăn chặn được xung đột hay không, vẫn là một câu hỏi khó
đoán (vì còn nhiều ẩn số và biến số). Nhưng cả hai bên đều không thể
nhượng bộ, vì phải giữ thể diện và lợi ích cốt lõi. Tuy lần này chưa xảy
ra bạo loạn (như tháng 5/2014), nhưng khó kiềm chế được người dân biểu
tình chống Trung Quốc.
Nếu
Việt Nam khẳng định chủ quyền của mình và tiếp tục thăm dò dầu khí tại
dự án Cá Voi Xanh (lô 118) và Cá Rồng Đỏ (lô 136-3), thì
có thể xảy ra đụng độ với Trung Quốc.
Trong trường hợp Việt Nam rút các tàu thăm dò của mình về thì vô hình
trung thừa nhận khu vực đó có tranh chấp, và như vậy phải từ bỏ lợi ích
sống còn của mình cho Trung Quốc. Nếu Trung Quốc bỏ qua vụ này, thì vô
hình trung họ chấp nhận “một tiền
lệ nguy hại cho chiến lược Biển Đông của Trung Quốc” (theo Alexander
Vuving). Chính vì phải giữ thể diện và lợi ích quốc gia mà hai bên khó
hóa giải được mâu thuẫn. Nếu Trung Quốc đưa lực lượng Hải giám (và giàn
khoan HD891) tới áp đảo, mà Việt Nam vẫn không chịu lùi bước, thì xác
xuất rủi ro xung đột rất cao. Nếu Trung Quốc dấn tới, họ sẽ thách thức
không chỉ Việt Nam mà còn nhiều nước khác trong và ngoài khu vực có lợi
ích về tự do hàng hải ở Biển Đông. Vấn đề là thái độ phản ứng của Mỹ và
Nhật thế nào? Tuy họ chia sẻ với Việt Nam về tầm nhìn chiến lược tại
Biển Đông, nhưng họ chưa phải là đồng minh chiến lược, mặc dù lợi ích
chiến lược của chính họ cũng khó cho phép họ làm ngơ. Hàng năm lưu lượng
hàng hóa đi qua Biển Đông là hơn $5,000 tỷ (bằng gần một nửa thương mại
quốc tế), trong đó riêng Mỹ chiếm $1,200 tỷ.
Từ sau vụ khủng hoảng giàn khoan (5/2014), quan hệ Việt-Trung đã tốt
hơn. Việt Nam vừa cảnh giác, vừa cố gắng cải thiện quan hệ với Trung
Quốc, đồng thời tăng cường hợp tác với các đối thủ chiến lược của Trung
Quốc là Mỹ, Nhật, và lôi kéo sự quan tâm của EU và các nước khác tới
Biển Đông. Quan trọng hơn, các sáng kiến hợp tác quốc phòng cụ thể giữa
Việt Nam với Mỹ và Nhật cũng được nêu bật trong các tuyên bố chung trong
hai chuyến đi Mỹ và Nhật mới đây của Thủ tướng Phúc. Các tuyên bố này
nhấn mạnh lập trường cứng rắn của Việt Nam với Mỹ và Nhật về Biển Đông.
Mỹ và Nhật bắt đầu chuyển giao cho Việt Nam tàu tuần duyên và xuồng tuần
tra, và giúp Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải. Những động thái nói
trên chắc làm Bắc Kinh tức giận và phản ứng. Cho dù lý do thực sự làm
tướng Long bỏ về là cố ý (hay bị “mời về”) thì sự cố đó không phải là
một tín hiệu tốt cho quan hệ hai nước. Vì vậy trong thời gian tới có thể
xảy ra một làn sóng căng thẳng mới trong quan hệ Việt-Trung.
Theo Carl Thayer, nếu tướng Long khẳng định “Nam
Hải (Biển Đông) là lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa” và yêu cầu
Việt Nam ngừng thăm dò dầu khí tại mỏ
Cá Voi Xanh và
Cá Rồng Đỏ, thì chắc Việt Nam
sẽ coi tuyên bố và yêu cầu đó là “quá khích” (inflammatory).
Lãnh đạo Việt Nam chắc sẽ từ chối và phản ứng bằng cách khẳng
định lại chủ quyền của mình tại Biển Đông. Alexander Vuving cũng nhận
định: “có thể cả hai phía đều
tính toán sai” và cả hai quốc gia “đều
quyết tâm chứng tỏ cho phía bên kia thấy quyết tâm của mình về chủ quyền”.
Dù sao, việc tướng Long đột ngột bỏ về tối 18/6 là một dấu hiệu bất
thường làm sóng gió đang nổi lên trong quan hệ Viêt-Trung. (“China
Cancels Military Meeting With Vietnam Over Territorial Dispute”,
Mike Ives & Jane Perlez,
New York Times, 21/6/2017).
Ý nghĩa hợp tác
chiến lược
Trong bối cảnh Việt Nam tăng cường hợp tác toàn diện với Mỹ, dự án hợp
tác PetroVietnam và Exxon Mobil đã ký (1/2017) để khai thác mỏ
Cá Voi Xanh (lô 118) vừa có ý
nghĩa kinh tế to lớn (trị giá $10 tỷ) vừa có ý nghĩa chiến lược phòng vệ
(hedging). Trước đây, Exxon Mobil
không sợ Trung Quốc, thì bây giờ Exxon Mobil càng không sợ, vì
Ngoại trưởng Rex Tillerson vốn là CEO của tập đoàn Exxon Mobil. Trung
Quốc chỉ có thể bắt nạt Việt Nam chứ không bắt nạt được Mỹ và Exxon
Mobil. Điều đáng chú ý là mỏ khí
Cá Voi Xanh cách Đà nẵng (bán đảo Sơn Trà) có 88km, và giáp gianh
“đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Cùng với cam kết
của Mỹ và Nhật giúp Việt Nam tăng cường
năng lực hải quân, quyết tâm triển khai dự án dầu khí
Cá Voi Xanh và
Cá Rồng Đỏ, cũng như ý định
đưa tàu sân bay Mỹ đến Cảng Quốc tế Cam Ranh là các vấn đề rất nhạy cảm
trong quan hệ Mỹ-Trung-Việt, nhất là trong bối cảnh hiện nay có những
tin đồn về thỏa thuận ngầm giữa Việt Nam và Mỹ về căn cứ Cam Ranh. Có lẽ
đây là ẩn số quan trọng nhất trong hợp tác chiến lược Việt-Mỹ.
Tuy chưa rõ hai bên đã đạt được thỏa thuận hay chưa, nhưng nhiều người
tin rằng Việt Nam sớm muộn cũng phải cho Mỹ thuê căn cứ Cam Ranh như một
giải pháp tình huống có ý nghĩa răn đe và phòng vệ chiến lược (strategic
hedging and deterence) bên cạnh ý nghĩa kinh tế (trong lúc ngân sách gần
trống rỗng). Tiếp theo chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Leon
Panetta đến Cam Ranh (3/6/2012) như bước khởi đầu, các chính khách Mỹ và
chiến hạm Mỹ đã liên tiếp tới Cam Ranh trong mấy năm qua. Quan trọng
nhất là Tổng thống Obama đã tuyên bố bỏ cấm vận vũ khí trong chuyến thăm
Việt Nam (23-2/5/2016), mở ra triển vọng hợp tác chiến lược Viêt-Mỹ.
Trong bối cảnh căng thẳng Việt-Trung tăng lên, vấn đề Mỹ thuê căn cứ Cam
Ranh dường như chỉ là vấn đề thời gian và giá cả cụ thể mà thôi.
Câu chuyện Mỹ thuê Cam Ranh trở nên nhạy cảm và bí ẩn trong chuyến đi Mỹ
của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Ngày 4/6/2017, Reuters đưa tin Podesta
Group là công ty môi giới giữa Chính phủ Việt Nam với Chính quyền Trump
(với tiền công là $30.000/tháng) đã kín đáo thừa nhận hai bên đã ký kết
“một thỏa thuận quan trọng”. Thỏa thuận đó không phải về thương mại vì
không có mặt Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng lại có mặt Thứ trưởng Bộ
Quôc phòng (tướng Nguyễn Chí Vịnh) và Bộ trưởng Bộ Công An (tướng Tô
Lâm).
Có một số hiện tượng đáng lưu ý. Hội nghị TW5 lẽ ra họp vào tháng 3/2017
nhưng đã hoãn đến tháng 5/2017 (phải chăng để chờ ông Trump khẳng định?)
Ngày 21/5/2017, Nhà Trắng thông báo Tổng thống Trump sẽ tiếp Thủ tướng
Phúc ngày 31/5/2017. Liệu ông Trump có mời ông Phúc sang thăm không nếu
TW5 không thông qua phương án cho thuê Cam Ranh? Một điểm nữa đáng chú ý
là trong vụ khủng hoảng con tin Đồng Tâm, có tin Podesta Group đã nhắn
tin cho Hà Nội rằng ông Trump sẽ không mời ông Phúc sang thăm
nếu xảy ra đàn áp bằng bạo
lực, và nếu vậy thì ông Phạm Bình Minh cũng không nên đi Mỹ.
Trước khi ông Phúc lên đường thăm Mỹ, Reuters lại đưa tin chuyến thăm Mỹ
của Thủ tướng Phúc là kết quả
của một cuộc “thương lượng ngầm” với Mỹ. Tuyên bố Chung có một đoạn tích
cực về Biển Đông: “Tổng thống Donald Trump của Hoa Kỳ nhấn mạnh là
nước Mỹ sẽ tiếp tục cho tàu và máy bay di chuyển và hoạt động tại bất cứ
nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. Một đoạn khác về song phương: “chính
phủ Việt Nam coi trọng và mong muốn thúc đẩy hợp tác hữu nghị với Hoa Kỳ
theo hướng thực chất, toàn diện, ổn định và lâu dài trên cơ sở tôn trọng
thể chế chính trị của nhau”. Trong câu trên không thấy cụm từ
“toàn vẹn lãnh thổ” như mọi
khi để ám chỉ chính sách “Ba không” (không có căn cứ quân sự nước
ngoài).
Có một chi tiết quan trọng khác là trong khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
hội đàm với Tổng thống Trump tại Nhà Trắng (31/5/2017) thì đồng thời tại
Hà Nội, Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân
Lịch gặp TNS John McCain (Chủ tịch Ủy ban Quân lực Thượng viện). Ngày
hôm sau, không phải vô cớ mà TNS John McCain bay đi Cam Ranh, đến thăm
chiến hạm USS John S.McCain đang đậu tại Cảng Quốc tế Cam Ranh. Ngày
5/6/2017, phái đoàn John McCain về đến Mỹ đã ra thông cáo: “Chúng tôi
hy vọng sự hiện diện của USS John S. McCain là biểu tượng cho sự hòa
giải giữa Mỹ và Việt Nam, cũng như nhắc nhở các đồng minh và kẻ thù của
chúng ta về cam kết lâu dài của Mỹ tại khu vực”.
Những nghịch lý tại
Biển Đông
Theo Báo cáo
Asia-Pacific Rebalance 2025,
muốn đối phó hiệu
quả với sự trỗi dậy hung hăng của Trung quốc hiện nay (đặc biệt là tại
Biển Đông), Mỹ phải kết hợp cả ba yếu tố là “tham dự” (engagement), “răn
đe” (deterrence) và “trấn an” (reassurance). Đó là một chiến lược đúng,
nhưng hơi muộn, vì chưa kịp triển khai thì chính quyền Trump đã thay thế
chính quyền Obama, với những bước đi chập chững gây bất an và bất định
cho khu vực.
Chính sách ngoại giao đổi chác của ông Trump làm đồng minh Châu Á bất
an, lo ngại Mỹ sẵn sàng thỏa hiệp với Trung Quốc (để kiểm soát Bắc Triều
Tiên), nên không sẵn sàng chống lại sự trỗi dậy hung hãn của Trung Quốc.
Nếu ông Trump không sẵn sàng thách thức những đòi hỏi ngang ngược của
Bắc Kinh ở Biển Đông, thì các nước khu vực có thể bị xô đẩy ngả theo Bắc
Kinh. Philippines từng là đồng minh gắn bó nhất của Mỹ ở khu vực, nay
cũng công khai tách khỏi Mỹ để ngả theo Trung Quốc. Nhưng “tuần
trăng mật” của Donald Trump và Tập Cận Bình từ sau Mar A Lago Summit
đã tàn, vì hợp tác Mỹ-Trung về vấn đề Triều Tiên hầu như chỉ là ảo
tưởng, làm Washington thất vọng vì không có kết quả thực chất.
Trong khi đó, Trung Quốc vận dụng “Binh pháp Tôn tử” (và cờ vây), tiếp
tục triển khai “Tam chủng Chiến pháp” (three-warfare doctrine) kết hợp
chiến tranh tâm lý với truyền thông và pháp lý. Tuy Trung Quốc không
muốn xung đột với Mỹ, nhưng lại gây căng thẳng tối đa tại Biển Đông (như
trò “brinkmanship”). Thứ nhât, Mỹ là mối lo lớn nhất của Trung Quốc, nên
họ gây căng thẳng để hù dọa Mỹ không dám can thiệp vào khu vực này. Nếu
xung đột nhỏ với Việt Nam hay Philippines xảy ra thì Trung Quốc dễ dàng
bắt nạt đối phương và coi đó là việc nội bộ (song phương), không liên
quan đến Mỹ. Thứ hai, Trung Quốc cũng không muốn Nhật, Úc, Ấn Độ can
thiệp vào Biển Đông (cùng với Mỹ) vì một liên minh như vậy
(Mỹ-Nhât-Úc-Ấn) là mối lo thứ hai của của Trung Quốc. Nếu vô hiệu hóa
được hai mối lo trên, Trung Quốc dễ dàng cô lập, bắt nạt và phân hóa
ASEAN (như đang diễn ra hiện nay).
Bị Trung Quốc phân hóa nên ASEAN đang đánh mất vai trò, trong khi Mỹ sao
nhãng. Đó là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc bắt nạt nước láng giềng Việt
Nam (claimant) hay Singapore (ASEAN coordinator). Theo Alexander Vuving,
đây là “cơ hội ngàn vàng” để Trung Quốc lấp chỗ trống quyền lực, nhằm
thay thế vai trò lãnh đạo khu vực của Mỹ. Trung Quốc triển khai chiến
lược lấn sân từng bước, thay đổi thực địa tại Biển Đông bằng cách xen kẽ
chiến dịch lấy lòng người (Charm Offensive) bằng một đợt dùng sức mạnh
để cưỡng chế (coercion). Đó là chính sách “cái
gậy và củ cà rốt” tuy cổ truyền nhưng vẫn có tác dụng (nhất thời).
Hiện nay, Việt Nam được coi như lá bài chủ chốt giúp Mỹ ngăn chặn tham
vọng bá quyền của Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông, nhất là sau khi
Philippines đã ngả theo Bắc Kinh. Hợp tác chiến lược Việt-Mỹ là cơ sở
thiết yếu cho quan hệ đối tác chiến lược, giúp tăng cường ảnh hưởng của
Mỹ ở khu vực, và tăng cường vai trò của Việt Nam trong ASEAN.
Mỹ và các đồng minh/đối tác trong khu vực cần
lập
ra một liên minh trên thực tế (de facto coalition) theo khuôn khổ “đối
tác an ninh khu vực” (regional security partnership).
Về lâu dài, lợi ích an ninh của Việt Nam (cũng như ASEAN) gắn liền với
“tứ giác Mỹ-Nhật-Úc-Ấn” (bên cạnh cộng đồng ASEAN). Một liên minh
“defacto” như vậy có thể chia sẻ thông tin tình báo, hợp tác hải quân và
hàng hải để nâng cao năng lực an ninh quốc phòng. Thông qua chuyển giao
trang thiết bị/huấn luyện/tập trận chung, liên minh này có thể giúp các
nước khu vực (như Việt Nam) từng bước tham gia tuần tra Biển Đông
(FONOPs). Chỉ có như vậy mới có thể giúp các nước ASEAN tự tin, đoàn kết
và “thoát Trung”.
Mấy lời cuối
Cuộc chiến “mèo vờn chuột” trên Biển Đông đang gia tăng. Lực lượng Hải
giám hùng hậu của Trung Quốc như “hạm
đội dân quân biển” ngày càng hung dữ. Những vụ tàu Hải giám Trung
Quốc đâm tàu Kiểm ngư Việt Nam còn gia tăng, có thể dẫn đến xung đột
trên biển rất nguy hiểm, dễ rơi vào bẫy Trung Quốc. Trong khi lực lượng
hải quân Việt Nam (hay Mỹ và Nhật) không thể trực tiếp can thiệp, thì “hạm
đội dân quân biển” của Trung Quốc tung hoành bắt nạt lực lượng Kiểm
ngư và Cảnh sát Biển còn nhỏ yếu của Việt nam. Người Việt tuy giỏi đánh
du kích (trong rừng) nhưng Biển Đông không giống rừng Trường Sơn.
Nhưng điều đáng lo ngại nhất không phải ta thua vì thiếu tàu chiến hay
máy bay, mà sợ “quân đội nhân dân” đánh mất lòng tin của dân, không còn
“trung với nước, hiếu với dân”.
Lâu nay “quân đội chuyên nghiệp” của ta quá mải mê làm kinh tế để
làm giàu, bận chiến đấu tại trận địa Đồng Tâm hay sân golf Tân Sơn Nhất,
nên các nhóm lợi ích quân đội tham nhũng không thua kém ai, làm quân đội
mất sức chiến đấu. Trong khi Trung Quốc quyết liệt chống tham nhũng và
cải tổ quân đội, thì chúng ta đã làm gì?
Nay lời kêu gọi “quân đội
thôi làm kinh tế” để tâp trung bảo vệ tổ quốc, nghe như một khẩu
hiệu yếu ớt và muộn màng. Nhưng thà “muộn
còn hơn không”, vì đã đến lúc “đổi
mới hay là chết” (do “cùng
tắc biến”).
Mỹ và Nhật đã bắt đầu chuyển giao cho Cảnh sát Biển Việt Nam một số tàu
tuần duyên/tuần tra và tăng cường huấn luyện/tập trận trên biển, nhưng
điều này còn quá ít và quá chậm (too little too latte) trước tình thế
cấp bách hiện nay. Tàu tuần duyên (lớp Hamilton) mà Mỹ vừa chuyển giao
cho Việt Nam chưa hoạt động được trước tháng 11/2017 (vì cần 6 tháng
huấn luyện sau khi chuyển giao). Có nhiều hệ quả do chính sách “đi dây”
cân bằng thụ động của Việt Nam, cũng như chủ trường “lãnh
đạo từ phía sau” (leading from behind) của ông Obama, tuy “xoay
trục” nhưng “vừa đái vừa run” như “tiếng
kèn ngập ngừng” (uncertain trumpet). Mỹ đã để Trung Quốc cướp mất
bãi cạn Scarborough của Philippines, nên đã làm cho ông Duterte mất lòng
tin vào Washington, đã quyết định bỏ Mỹ để ngả theo Trung Quốc.
Tuy Mỹ vẫn tuần tra Biển Đông (FONOP) nhưng bằng cách “đi
qua vô hại” (innocent passage), làm Trung Quốc coi thường. Ông Tập
Cận Bình đã “nắn gân” và qua mặt ông Obama. Mấy năm qua Trung Quốc đã
ráo riết “thay đổi thực địa”
và quân sự hóa Biển Đông như cắt
lát salami, nên đã chiếm được thế thượng phong. Theo Carl Thayer, “Biển
Đông nay là cái ao của Trung Quốc”. Nhưng cái giá phải trả là Trung
Quốc đang đẩy Việt Nam vào tay người Mỹ, như trước đây họ đã đẩy Việt
Nam vào tay người Nga. Vì vậy, Cam Ranh cũng như
Cá Voi Xanh là những ẩn số và
biến số có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changers).
Dù sao tôi vẫn tin trong trời đất và thế gian này luôn có quy luật “cùng
tắc biến, biến tắc thông”. Cái gì không thể xấu hơn được nữa thì sẽ
tốt lên. Trong mọi chuyện xảy ra trên đời này, luôn có quy luật “hệ
quả không định trước” (unintended consequences).
NQD. 27/6/2017
|