Cách mạng lần thứ ba và tương lai Trung Quốc
Nguyễn Quang Dy
Cách mạng thường có nghĩa là thay đổi để tiến lên. Nhưng trong lịch sử
hãn hữu có trường hợp cách mạng giật lùi (regression) như cách mạng Hồi
giáo cực đoan tại Iran (1978-1979) do giáo chủ Avatollah Khomeini cầm
đầu. Không hiểu tại sao người ta lại gọi đó là “cuộc cách mạng vĩ đại
thứ ba trong lịch sử” (sau Cách mạng Pháp và Cách mạng Nga).
Gần đây, “Cách mạng Lần thứ ba” tại Trung Quốc do Tập Cận Bình cầm đầu
(từ 2012) đã làm ngược lời khuyên của Đặng Tiểu Bình là “Dấu mình Chờ
Thời” và khôi phục Sùng bái Cá nhân như thời Mao Trạch Đông. Tập Cận
Bình đã trở thành “Hoàng đế Đỏ” quá sớm như “Cao Biền dậy non”, dẫn đến
đối đầu Mỹ-Trung và chiến tranh lạnh về kinh tế.
Gần đây, chủ trương kiểm soát cực đoan đã xô đầy hàng triệu người Hong
Kong xuống đường phản đối luật dẫn độ đang đe dọa quy chế tự do dân chủ
của Hong Kong. Nếu nhà cầm quyền không nhân nhượng, phái diều hâu ở Mỹ
sẽ có thêm lý do để chống Trung Quốc. Hong Kong Policy Act và Taiwan Act
có giá trị răn đe Trung Quốc không được vi phạm cam kết. Hong Kong và
Đài Loan là hai quả bom nổ chậm làm Bắc Kinh đau đầu.
Theo Minxin Pei, khi đối đầu Mỹ-Trung leo thang làm Trung Quốc khó tiếp
cận nguồn vốn và công nghệ Mỹ, vai trò Hong Kong càng quan trọng hơn.
Trừ phi lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận thảm họa, “Bắc Kinh nên
rút bỏ dự luật này trước khi quá muộn”. (China
Is Courting Disaster in Hong Kong,
Minxin Pei, Project Syndicate, June 13, 2019).
Trong đối đầu chiến lược Mỹ-Trung đầy biến số, tương lai Trung Quốc phụ
thuộc nhiều vào nguồn vốn và công nghệ cao. Ngày 24/5/2019, chương trình
SpaceX của Elon Musk đã phóng thành công 60 vệ tinh đầu tiên của dự án
Starlink, nhằm cung cấp Internet tốc độ cao cho toàn thế giới. Starlink
có thể làm hệ thống 5G của Huawei trở nên lạc hậu.
Cách mạng lần thứ ba
Theo các học giả, kể từ khi lập quốc (1949) Trung Quốc đã trải qua ba
cuộc cách mạng hiện đại. Lần thứ nhất là khi Hồng quân của Đảng Cộng sản
do Mao Trạch Đông cầm đầu đã giải phóng lục địa và thống nhất Trung
Quốc. Nhưng sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Mao đã nôn nóng phạm
sai lầm nghiêm trọng về “Đại Nhảy vọt” (1958-1961) làm hơn 30 triệu
người chết và “Cách Mạng Văn Hóa” (1966-1976) làm Trung Quốc suy sụp.
Lần thứ hai là khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền trong hai thập niên
(1970 và 1980), đã triển khai cải cách kinh tế thị trường triệt để với
khẩu hiệu thực dụng “Mèo trắng mèo đen, miễn là bắt được chuột”, nới
lỏng kinh tế nhà nước và kiểm soát chính trị. Đó là thời kỳ mở cửa ngoại
giao mà Richard Nixon và Henry Kissinger đã bắt tay hòa hoãn với Bắc
Kinh (1972) để rút quân khỏi Việt Nam và chống Liên Xô trong thời kỳ
chiến tranh lạnh.
Quan hệ hợp tác Mỹ-Trung đã phát triển sâu rộng trong suốt ba nhiệm kỳ
tổng thống Mỹ, với chủ trương can dự (constructive engagement) giúp
Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, bất chấp vụ đàn áp đẫm máu tại Thiên An Môn
(1989). Bill Clinton đã cho Trung Quốc hưởng quy chế “tối huệ quốc” và
gia nhập WTO (năm 2001). Đó là những điều kiện tiên quyết để Trung Quốc
trỗi dậy và “cất cánh”, vượt Nhật Bản (2010), và cạnh tranh với Mỹ.
Elizabeth Economy (CFR) đã liệt kê những biến chuyển sâu rộng mà Tập Cận
Bình đã tạo ra và coi đó là “cuộc cách mạng lần thứ ba” (third
revolution) hay chính xác hơn là “phản cách mạng” (counterrevolution)
như Orville Schell đã điểm cuốn sách này. Economy phân tích tại sao
thách thức của Trung Quốc đối với trật tự do Mỹ dẫn đầu lại nghiêm trọng
như vậy, và các mâu thuẫn trong chính sách của Bắc Kinh lại đe dọa các
tham vọng của Tập.
Cuối cùng, Economy đã lạnh lùng truy cứu những nghịch lý trong chiến
lược của Tập Cận Bình với câu hỏi cơ bản đặt ra khi ông theo đuổi “Giấc
mộng Trung Hoa” nhằm “làm Trung Quốc vĩ đại trở lại”: Một quốc gia phi
dân chủ muốn lãnh đạo một trật tự thế giới dân chủ (an illiberal state
seeking leadership in a liberal world order). (The
Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State,
Elizabeth Economy, Oxford
University Press, 2018).
Sự quyết đoán của Trung Quốc đã bùng nổ cùng với sự trỗi dậy củng cố
quyền lực của Tập Cận Bình (từ 2012). Năm 2014, Tập bắt đầu kêu gọi
Trung Quốc “không chỉ sẵn sàng viết lại luật chơi mà còn xây dựng sân
chơi toàn cầu”. Tập không chỉ khôi phục “Sùng bái Cá nhân” như thời Mao
Trạch Đông, mà còn xây dựng một hệ thống kiểm soát xã hội và cho điểm
công dân (social credit system) như trong một tác phẩm của George
Orwell.
Trong hệ thống đó, tin tặc được nhà nước bảo trợ và thể chế hóa để ăn
cắp công nghệ của Mỹ, vi phạm bản quyền và nhân quyền. Kết cục là người
Mỹ buộc phải lên tiếng chống lại (backlash). Cuốn sách của Economy phản
ánh sự điều chỉnh trong tư duy chiến lược của Mỹ về Trung Quốc trong 50
qua, cũng như biến động trong quan hệ đối ngoại Mỹ-Trung.
Theo một tài liệu nghiên cứu của nhóm đặc nhiệm gồm 15 chuyên gia hàng
đầu về Trung Quốc, (như Elizabeth Economy, David Shambaugh, Winston
Lord) do Asia Society và University of California tổ chức, Mỹ-Trung
“đang đối đầu” (on a collision course) và “nguy cơ xung đột công khai”
(overt conflict) lớn hơn trước. Tuy họ hoan nghênh Trump đã chống lại
(pushback) Trung Quốc, nhưng bản thân sự chống lại đó không phải là một
chiến lược.
Họ cho rằng Trump đã làm tăng nguy cơ tính toán sai lầm và khả năng xung
đột với Trung Quốc bằng cách làm giảm giá trị hai lợi thế lớn nhất của
Mỹ là “hệ thống đồng minh/đối tác và những cơ chế đa phương toàn cầu”.
Việc Trump bỏ rơi TPP là một sai lầm tai hại. Trump làm giảm giá trị của
pháp quyền và uy tín của Mỹ, làm đồng minh lo lắng và làm đối tác bị mắc
kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Trump khen các nhà độc tài (như Tập và Putin)
làm Bắc Kinh càng thêm cứng rắn, và làm khó dễ những người Trung Quốc
muốn cải cách chính trị.
Theo Michael Pillsbury (Hudson Institute), Tập Cận Bình ngày càng hung
hăng là một phần của chiến lược nhằm “thay thế vị trí bá quyền của Mỹ”.
Pillsbury đã lập luận một cách thuyết phục rằng Mỹ đã hiểu sai về Trung
Quốc. Trong khi giới tinh hoa tiếp tục bị phân hóa, thì Pillsbury lên án
các chuyên gia Mỹ đã nhất quán coi thường giới diều hâu Trung Quốc, nay
mới tỉnh ngộ nhận ra Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất đối với vị thế
của Mỹ và trật tự thế giới dân chủ (the liberal world order). (The
Hundred Year Marathon:
China's Secret
Strategy to Replace America As the Global Superpower,
Michael Pillsbury, St Martin Press, 2015).
Cuốn sách của Economy tuy không gây tranh cãi bằng cuốn của Pillsbury,
nhưng đã nêu bật được các điểm yếu và nghịch lý trong chiến lược của Tập
Cận Bình, có thể làm hỏng tham vọng của ông. Economy nghi ngờ sức mạnh
của Bắc Kinh đã cản trở giáo dục và Internet, nạn trộm cắp bản quyền và
hệ thống bất cập đã ngăn cản sự phát triển của một môi trường hậu thuẫn
cho nghiên cứu cơ bản với chất lượng cao. Theo David Shambaugh, chỉ có
khoảng 2,2 triệu trong số 4 triệu sinh viên Trung Quốc du học từ 1987 đã
trở về nước. Trung Quốc không thể bước lên các bậc thang giá trị gia
tăng để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
Tương lai Trung Quốc
Theo Ali Wynes (RAND), GNP của Trung Quốc đã tăng 9 lần trong những năm
2001-2016, (từ US$1,34 tỷ lên US$11,2 tỷ) trở thành nền kinh tế lớn thứ
hai thế giới (sau Mỹ). Năm 2009, Trung Quốc vượt Đức trở thành nước xuất
khẩu lớn nhất, và năm 2013 trở thành nước buôn bán lớn nhất. Đóng góp
của Trung Quốc cho kinh tế toàn cầu đã tăng bốn lần (từ 4% lên 16%). Đến
năm 2016, Trung Quốc đã chiếm 34% tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Hiện nay, 4 ngân hàng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc: (1)
Industrial and Commercial Bank of China (US$4,000 tỷ), (2) China
Construction Bank (US$3,400 tỷ), (3) Agriculture Bank of China (US$3,240
tỷ), (4) Bank of China (US$2,990 tỷ), trong khi JP Morgan Chase được xếp
thứ 6 hoặc 7 trong danh sách các ngân hàng đứng đầu thế giới. Nhưng
China Development Bank (CDB)
lớn bằng tất cả các ngân hàng đó cộng lại. Người ta nói “Nếu Đảng Cộng
sản là Chúa Trời (God) tại Trung Quốc, thì CDB là Nhà Tiên tri
(Prophet).
CDB đã thuê những nhân vật nổi tiếng trên thế giới tham gia “Hội đồng Cố
vấn Quốc tế” (International Advisory Council): Hank Greenberg (cựu chủ
tịch AIG), Henry Kissinger (cựu ngoại trưởng), Fred Bergsten
(economist), và Frenkel (cựu thống đốc Bank of Israel). Họ đem lại uy
tín cho CDB, và các thương vụ ngầm (behind closed doors).
Tạp chí Forbes
(năm 2018) đã liệt kê 5 nền kinh tế đứng đầu thế giới là: USA, China,
Japan, Germany, và UK. Nhưng theo các nhà kinh tế, đến năm 2030 thì danh
sách này sẽ bị đảo lộn theo một thứ tự khác: China, USA, India, Japan,
và Indonesia. Theo tạp chí
Fortune (năm 2018), trong danh sách 500 công ty đứng đầu thế giới
thì Mỹ có 126 công ty, Trung Quốc có
120 công ty, Nhật có 52
công ty, Ấn Độ có 7 công ty. Trong danh sách
100 công ty đứng đầu thế
giới thì Mỹ có 30, Trung Quốc có 18, Nhật có 8, và Ấn Độ có 1 công ty.
Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, gấp hai lần rưỡi Nhật Bản là
nước có dự trữ ngoại hối đứng thứ hai thế giới. Nếu cộng dự trữ ngoại
hối của Trung Quốc và Hồng Kong lại, thì tổng số là US$3,600 tỷ. Ấn Độ
xếp thứ 8 (năm 2018) với forex reserves là US$403,7 tỷ, trong khi của Mỹ
là US$123,5 tỷ và của Anh là US$187,4 tỷ. Theo Joe Nye, Trung Quốc tuy
có tiềm lực kinh tế hùng mạnh như vậy, nhưng vẫn là “người khổng lồ chân
đất sét”.
Cuộc chiến thương mại đang phơi bày những tử huyệt của Trung Quốc. Nay
người ta thấy rõ Huawei, niềm tự hào của Trung Quốc về công nghệ cao,
cùng với ZTE, đang bị “bẻ nanh” (defanged). Có thể nói Trung Quốc đã
chậm chân về công nghệ ít nhất 10 năm. Tình trạng tương tự đang diễn ra
trong các ngành quốc phòng, công nghiệp ô tô, hàng không vũ trụ và nhiều
lĩnh vực khác. Vấn đề của
Huawei cho thấy những ảo tưởng của Trung Quốc, vì đến nay chìa khóa công
nghệ cao vẫn nằm trong tay Mỹ, Đức, Nhật và Hàn Quốc. (The
trade war shows China’s economic dream is dying, South China Morning
Post, June 11, 2019).
Theo Asia Times (23/5/2019), 14 nhà lập pháp đảng Dân chủ và đảng Cộng
hòa, đại diện bởi thượng nghị sĩ Marco Rubio, đã đệ trình lên Quốc Hội
dự luật trừng phạt các cá nhân và tổ chức Trung Quốc có dính líu đến
hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông và Hoa Đông. Theo quy trình, Ngoại
trưởng Mike Pompeo sẽ là người chịu trách nhiệm phải báo cáo định kỳ với
Quốc Hội danh sách những tổ chức và cá nhân Trung Quốc nào sẽ bị cấm
vận.
Danh sách ban đầu có thể gồm 25 công ty lớn của Trung Quốc, như CCCC
Dredging Group (thuôc Tập đoàn Xây dựng viễn thông Trung Quốc, tham gia
xây các đảo nhân tạo ở Biển Đông), Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc
(Sinopec), Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC), Tổng công
ty Viễn thông Trung Quốc (China Telecom), Tập đoàn Khoa học và công
nghiệp hàng không vũ trụ Trung Quốc (CASIC), và China Mobile…
Theo TNS Rubio, Trung Quốc “là mối đe dọa toàn diện nhất mà đất nước này
từng đối mặt”, trong các lĩnh vực viễn thông, điện toán lượng tử, AI và
bất kỳ ngành công nghiệp nào thu thập dữ liệu lớn (big data). Quan điểm
của Mỹ về Trung Quốc cứng rắn hơn, với sự đồng thuận và hợp nhất ý tưởng
trong bộ máy chính sách đối ngoại, bao gồm các thành viên của 2 đảng
trong Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc, Bộ Tư pháp, các cơ quan tình
báo và Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Trump và Phó Tổng thống
Mike Pence…
Nếu “Đạo luật Cấm vận Biển Hoa Đông và Biển Đông” được thông qua, Mỹ có
quyền tịch thu tài sản của Trung Quốc ở Mỹ và thu hồi hoặc hủy bỏ thị
thực Mỹ đối với bất kỳ ai liên quan tới “các hành động hoặc chính sách
đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định tại Biển Đông”. Theo Bonnie Glaser
(CSIS) khoảng 73% các sự vụ chính xảy ra ở Biển Đông từ năm 2010 có liên
quan tới các tàu chấp pháp của Trung Quốc…“Dự thảo này không nhằm vào
những đối tượng xấu khác, mà thực sự nhằm vào Trung Quốc”. Glaser nhấn
mạnh Biển Đông chưa bao giờ được chú ý đặc biệt như thế trong chính sách
của chính quyền Trump…
Lầu Năm Góc vừa lập ra một cơ quan mới là “Văn phòng Phân tích Kinh tế
và Thương mại” có nhiệm vụ rà soát các hợp đồng quốc phòng có liên quan
đến các công ty Trung Quốc thông qua bên cung ứng thứ ba. Theo James
Mulvenon (một chuyên gia về an ninh mạng) Lầu Năm Góc đã coi chất bán
dẫn là “ngọn đồi” mà họ phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ. Đó là ngành
công nghiệp mà Mỹ phải dẫn đầu vì mọi thứ khác đều dựa vào đó. Trong khi
đó, Kiron Skinner (Bộ Ngoại giao) cho rằng xung đột giữa các nền văn
minh và sắc tộc đang diễn ra, và nhấn mạnh rằng Mỹ cần ngăn chặn Trung
Quốc như trước đây đối với Liên Xô.
Gần đây, Bộ Tư lệnh Tuần duyên Mỹ đã điều hai tàu USCGC Bertholf và
USCGC Stratton tham gia các hoạt động cùng Hạm đội 7 đóng tại Okosuka,
Nhật Bản, đến hoạt động ở khu vực Biển Đông với mục đích giúp các nước
khu vực thực thi pháp luật, và xây dựng năng lực trong hoạt động đánh
cá. Đây là một chủ trương mới nhằm đối phó với lực lượng “dân quân biển”
của Trung Quốc, lâu nay vẫn áp đảo và bắt nạt các nước trong khu vực.
Phát biểu trong một cuộc họp báo (11/6/2019), Phó đô đốc Linda Fagan, Tư
lệnh Vùng Thái Bình Dương của Tuần duyên Mỹ cho biết họ đang theo dõi
các hoạt động xâm lấn của “dân quân biển” Trung Quốc ở Biển Đông. Chuyến
tuần tra đầu tiên của tàu Tuần duyên Mỹ tại Biển Đông đã diễn ra sau 7
năm, và Fagan cho biết sự trở lại của Tuần duyên Mỹ hoàn toàn phù hợp
với luật quốc tế cho phép các tàu được đi qua các vùng biển quốc tế.
Động thái này của Tuần Duyên Mỹ mở ra triển vọng hợp tác về tuần duyên
trong khu vực.
Triển vọng Việt Nam
Theo Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), phái “thu tô” hay “trục lợi”
(rent-seeking) được hiểu là một trường phái chính sách (chứ không hẳn là
một phe phái chính trị), không vì lợi ích dân tộc, cũng chẳng vì lý
tưởng chủ nghĩa nào, mà chỉ lợi dụng quyền lực nhà nước để “thương mại
hoá” quyền lực ấy. Họ thường lập luận “giữ ổn định để phát triển” nhưng
thực tế họ muốn “giữ ổn định bằng mọi giá, kể cả không phát triển”. (Việt
Nam với bộ máy trục lợi và nhân sự Đảng trước Đại Hội 13,
Joaquin Nguyễn Hòa, BBC, June 8, 2019).
Khi bước vào thời kỳ “đổi mới” (từ cuối 1986), lúc đầu có hai trường
phái chính sách chủ yếu là “bảo thủ” và “đổi mới”, nhưng sau đó đã xuất
hiện trường phái thứ ba là phái “thu tô/trục lợi”, được hiểu là “các tổ
hợp chính trị-thương mại” (hay các nhóm lợi ích thân hữu) đã thao túng
nền kinh tế Việt Nam trong suốt giai đoạn quá độ (chuyển đổi). Không có
gì đáng ngạc nhiên nếu “nhà nước thu tô” đẻ ra tình trạng “không chịu
phát triển” như chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã nhận xét. Tinh thần
“chấn hưng” của người Việt chưa bao giờ vượt qua được cửa ải “giữ ổn
định”, làm “nhà nước thu tô” mạnh hơn hẳn “nhà nước kiến tạo”.
Đó là bức tranh đối nội, còn về đối ngoại, Vuving cho rằng quan
hệ Việt-Mỹ ngày càng “nồng ấm hơn”, trong khi quan hệ Việt-Trung “có vẻ
tốt đẹp bên ngoài nhưng lạnh nhạt bên trong”. Tuy thuyết “cái
bẫy Thucydides” (Graham Allison) được nhiều người đề cập, nhưng ít có
khả năng (unlikely) xảy ra xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc.
“Yếu tố Nga” tuy có thể giúp Việt Nam phần nào để chống lại sức ép từ
Trung Quốc nhưng không nhiều, và khả năng Nga chống lưng cho Việt Nam
“khá mong manh”. Để chống lại sức ép Trung Quốc, Việt Nam phải tăng
cường quan hệ với một loạt cường quốc có lợi ích chiến lược trong khu
vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, và các nước khác như Anh, Pháp, Úc, Canada,
Hàn Quốc, Đài Loan, cũng như các nước láng giềng có ảnh hưởng trực tiếp
đến không gian sinh tồn của khu vực như Lào và Campuchia, cũng như
ASEAN...
Xu thế chung của Việt Nam hiện nay là dịch chuyển “gần Mỹ hơn và xa
Trung Quốc hơn”, nhưng với tốc độ nhỏ giọt để “không gây ra chấn động”.
Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam vẫn “không muốn quá gần Mỹ hoặc quá xa
Trung Quốc”. Nhưng gần đây, lãnh đạo Việt Nam tỏ ra lo ngại về Trung
Quốc nhiều hơn (trước đây thường lo ngại về Mỹ nhiều hơn). Xu thế xích
lại gần Mỹ “nay nhỉnh hơn” so với xu thế thích gần Trung Quốc.
Các yếu tố truyền thống như ý thức hệ và sự níu kéo của Trung Quốc, vốn
nuôi dưỡng tham nhũng và cản trở đổi mới, nay sẽ bớt tác dụng hơn. Điều
đó khiến người Việt lạc quan hơn về triển vọng cất cánh của Việt Nam
trong tương lai. Về lâu dài, xu hướng ‘thoát Trung” (dịch chuyển khỏi
quỹ đạo Trung Quốc) sẽ làm giảm môi trường nuôi dưỡng các phái “thu
tô/trục lợi”. Tuy nhiên,
chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam là gì thì chưa rõ. Bản thân chiến
lược của Mỹ đối với khu vực và Trung Quốc vẫn còn đang hình thành.
Nói cách khác, sau 2 năm rưỡi cầm quyền, chính quyền Trump vẫn “trống
đánh xuôi kèn thổi ngược” về chiến lược. Trong khi ngoại trưởng Mike
Pompeo nhấn mạnh “hiện thực, kiềm chế,
và tôn trọng” (realism,
restraint, and respect),
John Bolton (cố vấn ANQG) vẫn muốn “thay đổi chế độ” (như Maduro ở
Venezuela, Assad ở Syria và Khomeni ở Iran). Tuy trước mắt Trump có thể
vận dụng sự lộn xộn đó làm thiên hạ khó lường, nhưng về lâu dài đó không
phải là chiến lược. Điều duy nhất Trump có thể vận dụng để chống Trung
Quốc là “đồng thuận lưỡng đảng”. (American
Foreign Policy Adrift”,
Foreign Affairs, June
5, 2019).
Muốn kiến tạo, Việt Nam phải chuyển sang tâm thế bứt phá để bung ra. Chỉ
khi nào chuyển từ vai trò nhà nước quản lý sang nhà nước giải phóng sức
sáng tạo của xã hội thì Việt Nam mới có thể cất cánh được. Người Việt
phải nuôi dưỡng bản lĩnh dám đương đầu với khó khăn, đặc biệt là thách
thức trong cuộc chạy đua công nghệ lần thứ 4 và trong cuộc cạnh tranh
chiến lược Mỹ-Trung, vì “thách thức tuy lớn nhưng cơ hội không nhỏ”. Nếu
không bồi dưỡng bản lĩnh để chơi những cuộc chơi mới, thì Việt Nam không
bao giờ cất cánh được.
Hiện nay, sức ép đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước đến chủ yếu từ
hai nguồn. Thứ nhất, sự yếu kém về quản trị, là hang ổ của nạn tham
nhũng đã lộ diện ngày càng nhiều, khiến TBT/CTN Nguyễn Phú Trọng, vốn
ủng hộ mạnh mẽ kinh tế nhà nước, nay cũng phải đặt lại vấn đề kinh tế tư
nhân tại Hội nghị Trung ương 10 vừa qua. Thứ hai, cả 2 hiệp định thương
mại tự do (CPTPP và EVFTA) tuy không có Mỹ tham gia, nhưng đã thay đổi
phần nào luật chơi và sân chơi, khiến các doanh nghiệp nhà nước bị cắt
giảm thêm khá nhiều quyền ưu đãi.
Theo Vuving, vai trò các nhóm vận động cho xã hội dân sự và dân chủ ở
Việt Nam trong bối cảnh chính trị nội bộ trước mắt vẫn phụ thuộc chủ yếu
vào tương tác giữa họ với chính quyền và người dân trong nước, “chứ
không phải vào chiến lược của Mỹ”. Tuy nhiên, về lâu dài nếu Việt Nam
dịch xa quỹ đạo Trung Quốc thì sẽ phải xích lại gần hơn các nước Mỹ,
Nhật, Ấn, Úc để tạo đối trọng. Các nước này có xã hội dân sự phát triển
mạnh, nên bản thân Việt Nam với xu hướng hội nhập, sẽ phải coi trọng hơn
vai trò của xã hội dân sự tại Việt Nam.
Lời cuối
Người ta nói Việt Nam có “rừng vàng, biển bạc”, nhưng nay tài nguyên
thiên nhiên đang bị khai thác đến cạn kiệt, và bị lấn chiếm và ngăn cấm
bởi người hàng xóm mạnh hơn và tham lam đang muốn kiểm soát Biển Đông.
Chỉ có cái mỏ người là vô tận và tự tái sinh, nếu biết nâng cao dân trí
và thay đổi thể chế để giải phóng năng lực sáng tạo. Israel là một bài
học về “quốc gia khởi nghiệp” và Hong Kong là một bài học về dân trí
cao, tuy có 7 triệu dân nhưng là một mỏ vàng.
Việt Nam có 97 triệu dân (2019)
là một cái mỏ vàng tiềm ẩn khổng lồ, nhưng đáng tiếc vì đất nước vẫn
nghèo nàn, tụt hậu và năng suất lao động thấp nhất khu vực.
Tài liệu tham khảo
1. The Hundred Year Marathon:
China's Secret
Strategy to Replace America As the Global Superpower,
Michael Pillsbury, St Martin Press, 2015
2.
The Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State,
Elizabeth Economy, Oxford
University Press, 2018
3.
American Foreign Policy Adrift”,
Foreign Affairs, June
5, 2019.
4.
The trade war shows
China’s economic dream is dying. Beijing now has a choice: open up or
stagnate,
Graeme Maxton,
SCMP, June 11, 2019
5.
China Is Courting Disaster in Hong Kong,
Minxin Pei,
Project Syndicate, June 13, 2019
6. Việt Nam với bộ máy trục lợi
và nhân sự Đảng trước ĐH 13,
Joaquin Nguyễn Hòa, BBC, (phỏng vấn Alexander Vuving), June 8, 2019. NQD. 20/6/2019 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 21-6-19
|