Hệ quả không định trước

Nguyễn Quang Dy

 

“Quyền lực thường tha hóa và quyền lực tuyệt đối sẽ tha hóa tuyệt đối”. (Lord Acton)

 “Hệ quả không định trước” (unintended consequences) là một quy luật diễn ra trong nhiều lĩnh vưc, nhưng ít người để ý, lại càng ít người biết cách vận dụng để lý giải thực tế trái chiều hoặc tác động làm thay đổi hiện trạng. Có thể do vướng chấp nên người ta dễ bị “điểm mù” (blind spot) che khuất tầm nhìn, nên tuy mắt sáng nhưng không nhìn thấy, hoặc thấy nhưng không chịu thừa nhận. Vì thế mới có câu, “người mù nhất là người không chịu nhìn” (Hoặc người điếc nhất là người không chịu nghe).

Hãy thử tìm hiểu quy luật này để vận dụng nhằm lý giải một số thực tế hoặc tác động làm thay đổi dòng chảy của sự kiện, trong bối cảnh tranh giành quyền lực đang diễn ra hiện nay.  

Càng gần Đại hội, không khí càng nóng lên, tuy giữa Mùa Đông. Có nhà bình luận nói chưa thấy Đại hội Đảng nào lại căng thẳng, kịch tính và quyết liệt như lần này. Trong khi các phe nhóm phân hóa sâu sắc, choảng nhau quyết liệt một mất một còn, để tranh giành quyền lực (và lợi ích), thì giới trí thức đòi dân chủ và nhân quyền cũng như giới truyền thông cũng phân hóa không kém. Một số ngộ nhận, ủng hộ “ông này”, chống “ông kia” một cách quyết liệt, thâm chí thóa mạ nhau. Việt Nam chưa đa đảng nhưng đã “đa nguyên” một cách bất bình thường (như kinh tế thị trường định hướng XHCN). Vì truyền thông trực tuyến có vai trò ngày càng lớn, nên bị các phe nhóm thao túng (như công cụ của họ) trong cuộc chiến truyền thông, tung tin thật giả lẫn lôn, làm dư luận càng dễ ngộ nhận. Tuy chưa biết ai thắng ai thua, nhưng thấy rõ người Việt càng bị chia rẽ thì đất nước càng suy yếu, trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.  

Xét theo khía cạnh này thì đó là một hệ quả đáng buồn và nguy hiểm (vì dễ mất nước). Nhưng xét theo khía cạnh khác, thì những gì tồi tệ đang diễn ra có thể dẫn đến một “hệ quả không định trước”, làm xuất hiện cơ hội thay đổi đột phá, biến điều không thể thành có thể. Nói cách khác (theo “quẻ biến”), thì “càng xấu xa lại càng tốt”, theo tư duy đột phá “ngoài cái hộp” (out-of- the- box thinking).     

Một vài dẫn chứng

Năm 1983, tại một hội nghị quốc tế về bệnh lý “erectile dysfunction” (liệt dương) ở Las Vegas, nhà nghiên cứu Giles Brindley đã bất ngờ tụt quần để trưng bày “của quý” đang cương cứng, trước khi thuyết trình về vấn đề này. Bằng một hành động gây ấn tượng mạnh, Brindley đã có công thức tỉnh cộng đồng y khoa về một vấn nạn của xã hội loài người mà lúc đó chưa có lời giải. Các hãng dược phẩm lớn đã nhận ra cơ hội thị trường tiềm năng và đổ xô vào nghiên cứu. Nhưng mãi đến năm 1995 hãng dược Pfizer mới nghiên cứu và bào chế thành công thuốc Viagra, làm cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người trên thế giới bị bệnh lý ED (thiểu năng tình dục), và do đó họ thu được hàng tỷ đô-la lợi nhuận.

Nhưng ít người biết rằng Viagra là “hệ quả không định trước” của một dự án nghiên cứu của Pfizer (từ năm 1991) về hóa chất Sildenafil dùng để điều trị bệnh nhồi máu cơ tim (chứ không phải “cơ chim” đâu). Trong khi làm thí nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã tình cờ phát hiện ra một dược tính kỳ diệu khác của Sildenafil có thể làm cương dương. Và thế là trong mấy năm sau đó, Pfizer đã quyết định đầu tư lớn cho các trung tâm nghiên cứu về Sildenafil tại Anh, Mỹ và các nước khác, để tìm ra bằng được phương thuốc điều trị bệnh lý ED, và đến năm 1995 họ đã thành công, đáp ứng nhu cầu thị trường theo “Chỉ số Quốc tế về Chức năng Cương dương” (International Index of Erectile Function).  

Hãy lấy một ví dụ khác cho đỡ “nhạy cảm”. Ai cũng biết trong thế kỷ 18 và 19, những người Pháp thực dân đã đến Việt Nam (và Đông Dương) để chiếm và khai thác thuộc địa, gây nhiều đau khổ, oán hận cho người dân bản địa, dẫn đến cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh khốc liệt (đến tận 1954). Đấy là một trang sử đau buồn về chế độ thực dân cũ (cho cả hai dân tộc). Nhưng bên cạnh những người Pháp thực dân tham lam, còn có những người Pháp tử tế đã làm nhiều việc tốt lành để khai minh cho người dân bản địa, đóng góp phát triển một đất nước còn lạc hậu. Đó là cha Alexandre de Rhodes (1591-1660) và những người khác, đã có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt, một bước ngoặt về văn hóa. Đó là Louis Pasteur (1822-1895) và Alexandre Yersin (1863-1943) và những người khác, là những nhà khoa học và bác sỹ mà tên tuổi và việc làm của họ đã gắn bó với người dân bản địa như là ân nhân đã tìm cách cứu họ khỏi những nạn dịch. Đó là danh họa Victor Tardieu (1870-1937) và đồng nghiệp, đã sáng lập ra trường Mỹ thuật Đông dương (Ecole des Beaux Arts de l’Indochine, 1925), cái nôi của một thế hệ danh họa Việt Nam, đã để lại những kiệt tác bất tử cho đời sau. Đó là các kiến trúc sư C. Batteur và E. Hébrard và những người khác, đã thiết kế hầu hết các biệt thự và công sở tại Hà Nội (và Sài Gòn). Đó là vài dụ về “hệ quả không đinh trước” trong lịch sử quan hệ Pháp-Việt, đã để lại những di sản văn hóa, y học, hội họa, kiến trúc… như “sức mạnh mềm” kết nối hai dân dân tộc, bất chấp trang sử thực dân đau buồn.

Một ví dụ khác là Chiến tranh Việt Nam đẫm máu (kết thúc 1975) cũng để lại một trang sử đau buồn mà 40 năm sau vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, như bóng ma của quá khứ. Mãi 20 năm sau (1995) hai nước mới bình thường hóa quan hệ, và cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara mới thừa nhận sai lầm về Việt Nam. 40 năm sau, hai nước trở thành đối tác toàn diện (và đang trở thành đối tác chiến lược) để ngăn chăn sự trỗi dậy đầy hiếu chiến của Trung Quốc, đặc biệt là tại Biển Đông. Trước đây Mỹ đánh (Bắc) Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Sau đó họ lại bắt tay với Trung Cộng (bằng Shanghai Communique và “Constructive Engagement”) để chống Liên Xô và Việt Nam. Nay Mỹ lại “xoay trục”, hơp tác với Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Lịch sử đang lặp lại, với những “hệ quả không định trước”.

Bên cạnh những di họa của chiến tranh (như bom mìn, chất độc da cam), còn có những “hệ quả không định trước” như “sức mạnh mềm” gắn kết hai dân tộc. Đó là mối quan hệ “vừa yêu vừa ghét” (love hate) giữa hai cựu thù, nay trở thành đối tác chiến lược. Đó là thế hệ những cựu chiến binh của Vietnam War như thượng nghị sỹ John Kerry và John McCain, đại sứ Pete Peterson, và rất nhiều người khác (cả cựu binh và nhà báo, nhà văn và nhà buôn…) đã không quên được Việt Nam vì ám ảnh của quá khứ và lương tâm, làm chiếc cầu nối giữa hai dân tộc. Họ đã dũng cảm trong hòa bình (cũng như trong chiến tranh) để góp phần hòa giải hai dân tộc và hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng một thế giới tử tế hơn.

Một “hệ quả không định trước” khác của Vietnam War là sự hình thành cộng đồng người Viêt tại Mỹ, với gần 2 triệu người đã định cư vào các thời điểm khác nhau. Bên cạnh đặc điểm phức tạp do bị phân hóa sâu sắc (như bộ phim “Terror in Little Sai gon” đã phần nào phản ánh), cộng đồng người Viêt ở Mỹ đã đóng góp đáng kể vào xã hội đa sắc tộc của Mỹ (như “melting pot”) cũng như làm cầu nối để gắn kết hai quốc gia cựu thù, nay đang trở thành đồng minh chiến lược. Tại các nước khác (Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức, v.v. ) cộng đồng người Việt tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có vai trò tương tự. Có thể nói, công đồng người Việt tại Mỹ (và các nước khác) là một “hệ quả kép” của Vietnam War, là một tài sản tiềm năng làm cầu nối cho quan hệ hợp tác Mỹ-Việt. Bên cạnh đó, tính đến năm 2015 đã có khoảng 16.500 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á).  Dự án Đại học Fullbright (đã được ký kết) là một ví dụ khác về tiềm năng hợp tác xây dựng “sức mạnh mềm”, để gắn kết hai dân tộc. 

Liên hệ thực tiễn

Năm 1990-1991, Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với bức tường Berlin, chủ yếu vì những nguyên nhân nội tại của hệ thống. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của Gorbachev như một tác nhân đã thúc đẩy quá trình sụp đổ đó, như một “hệ quả không định trước”. Ngày nay, tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang cố gắng làm ngược lại với Gorbachev, nhằm duy trì CNCS, bằng “Giấc mộng trung Hoa” (China Dream) và “Đả hổ Diệt ruồi” để thanh trừng các phe phái đối lập bằng lá cờ chống tham nhũng. Có lẽ Tập Cận Bình “đâm lao phải theo lao”. Nhưng càng cố làm ngược lại, thì Tập Cận Bình càng đẩy nhanh quá trình sụp đổ không thể tránh khỏi, mà kết cục của nó không khác những gì Gorbachev đã làm. Đó là một nghịch lý, như một “hệ quả không định trước”.

Nói cách khác, “màn chót của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp mạnh tay của Tập Cận Bình chỉ đưa đất nước đến đến gần hơn sự đổ vỡ” (David Shambaugh, “the Coming China Crackup”, Wall Street Journal, March 6, 2015:).  Kết luận của David Shambaugh trùng hợp với nhận xét của Paul Krugman (và nhiều học giả khác) là Trung Quốc đã “đến điểm giới hạn” (Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, New York Times, July 18, 2013).  Tại sao tỷ Phú Lý Gia Thành phải “bỏ chạy” khỏi Trung Quốc?  Tại sao 64% người giàu Trung Quốc (có tài sản trên 1.6 triệu USD) đã hoặc đang di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth Economy at Council on Foreign Relations). Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay CNXH mang màu sắc Trung Quốc, hay “Giấc mộng Trung Hoa” cũng không ngăn được người Trung Quốc đang “bỏ phiếu bằng chân” hàng loạt (en masse). Đó là “gót chân Asin” của gã khổng lồ Trung Quốc.     

Để đối phó với những mâu thuẫn nội tại, nhằm duy trì nguyên trạng (bên trong), Tập Cận Bình gây căng thẳng để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài). Với Nhật thì Trung Quốc tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku), với Việt Nam và ASEAN thì tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa, để kiểm soát Biển Đông. Trung Quốc muốn khuấy động tinh thần dân tộc cực đoan của người Trung Quốc, bành trướng ra ngoài để đánh lạc hướng sức ép bên trong. So với các hướng bành trướng khác, hướng Biển Đông là dễ thôn tính nhất. Trung quốc đã âm mưu chiếm đoạt Biển Đông từ lâu, nhưng nay mới có cơ hội. Tháng 5/2014, Trung Quốc cho rằng cơ hội đã đến nên quyết định đưa dàn khoan HD981 vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cuộc chơi (game changer).  

Sự kiện dàn khoan HD981, cũng như việc Trung Quốc ráo riết san lấp đảo và xây dựng hạ tầng quân sự (sân bay và cảng) trên các đảo nhân tạo, đã làm cho phái thân Trung Quốc ở Việt Nam bị mất uy tín và suy yếu trong cuộc khủng hoảng lãnh đạo, đã xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ. Mỹ buộc phải xoay trục, ngày càng cứng rắn hơn trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) và tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam như một đối tác chiến lược (bỏ dần lệnh cấm bán vũ khí sát thương). Đó cũng là một “hệ quả không định trước”. Trung Quốc càng hung hăng, càng chơi xấu với Việt Nam, thì họ càng xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam tuy xích lại gần Mỹ nhưng không dám quá gần, tuy tách xa Trung Quốc nhưng không dám quá xa. Việt nam tuy đang xoay trục thân Phương Tây hơn, nhưng không dám quá thân. Tóm lại, chừng nào cái bóng của Trung Quốc còn quá lớn, bàn tay của Trung Quốc còn quá dài, trong khi Mỹ vẫn tiếp tục “tiếng kèn ngập ngừng”, thì lãnh đạo Hà Nội vẫn lo sợ cả hai (bên ngoài), và lo sợ lẫn nhau (bên trong). Lo sợ là một căn bệnh tâm thần khó chữa. 

Đáng lẽ Việt Nam phải mạnh lên để “Thoát Trung”, thì gần mười năm qua Viêt Nam đã “phát triển giật lùi”, xóa sổ gần hết những thành quả cải cách kinh tế trước đó. Tham nhũng tràn lan và quản trị vĩ mô yếu kém đã dẫn đến thua lỗ lớn và nợ công chồng chất. Những “quả đấm thép” (như Vinashin và Vinalines) đã tan chảy thành bùn, đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy suy thoái và cái “bẫy thu nhập trung bình”. Kinh tế và chính trị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Quá trình thay đổi thể chế và chuyển đổi cơ cấu diễn ra quá chậm, đến bây giờ vẫn còn giữ “định hướng XHCN”, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, mặc dù các tập đoàn nhà nước đã trở thành thảm họa. Chẳng ai muốn thế, nhưng đó là hệ quả của một tầm nhìn sai. Nó vừa là lỗi của Chính phủ (đứng đầu là Thủ tướng), vừa là lỗi của hệ thống (do Đảng độc quyền lãnh đạo). Những gì đang diễn ra sẽ tiếp tục làm vô hiệu hóa mọi cố gắng cải cách (do tham nhũng và quản trị yếu kém), làm người dân càng bất mãn (do bị chiếm đất, bóp nghẹt dân chủ và nhân quyền), đẩy chế độ đến gần hơn sự đổ vỡ (crackup) chẳng khác gì Trung Quốc. Vậy “thoát Trung” thế nào?

Trong bối cảnh đó, chỉ có hai kịch bản. Kịch bản xấu nhất (worst case scenario) là trì hoãn cải cách thể chế, tiếp tục lệ thuộc vào Trung Quốc (cả kinh tế và chính trị), mất dần chủ quyền và lãnh hải, dẫn đến “Bắc thuộc Kiểu mới”. Kịch bản tốt nhất (best case scenario) là đẩy nhanh cải cách thể chế và dân chủ hóa, thoát khỏi định hướng XHCN (theo kinh tế thị trường), từng bước “Thoát trung” bằng cách xoay trục để hợp tác chiến lược với Mỹ và đồng minh (qua TPP). Giữa hai kịch bản trên là một vùng xám (grey area), nơi có thể xảy ra bất cứ điều gì, với “hệ quả không định trước” (hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn). Trong vùng xám đó, nếu các phe nhóm (hay cá nhân) tranh giành quyền lực một cách cực đoan, bất chấp luật chơi (lawless), chỉ vì lợi ích cá nhân, không vì lợi ích quốc gia, thì họ chỉ phục vụ ý đồ của Trung Quốc.        

Tranh giành quyền lực ở VN (cũng như ở Trung Quốc) là một trò chơi cực đoan và bạo liệt, vì họ không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ lẫn nhau. Nhà thơ Nguyễn Duy nói, “phe nào thắng thì nhân dân đều thua”. Nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị dồn vào tình huống xấu nhất, không phải chỉ mất cơ hội làm Tổng Bí Thư mà còn có thể mất tất cả, chẳng lẽ Nguyễn Tấn Dũng lại khoanh tay chịu chết, mà không có đòn cuối tại Đại Hội này (như tại Đại hội XI và Hội nghị TƯ 6), có thể đem lại một kết cục bất ngờ (không theo kịch bản), vượt ra khỏi tính toán của các bên, như một “hệ quả không định trước”. Đến giờ phút này, khi mọi thông tin về Đại hội XII vẫn bị bưng bít trong màn sương mù bí mật, thì mọi khả năng đều có thể (như lời đồn đoán).   

Những yếu tố làm thay đổi cuộc chơi

Thứ nhất, ai kiểm soát được luật chơi (thủ tục) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi. Trong trường hợp này, Tổng Bí thư và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã nắm quyền chủ động cuộc chơi và giành được thế thượng phong, làm cho đối phương bất ngờ (nếu chủ quan, mất cảnh giác). Luật chơi (thủ tục bầu cử) có ý nghĩa quyết định trong việc sắp xếp nhân sự (Bộ Chính trị, các vị trí chủ chốt (như “tứ trụ”), Ban Chấp hành Trung ương, Đại biểu dự Đại hội) có lợi cho phe cánh của mình (để giành phiếu). Nhưng thay đổi luật chơi quá mức lộ liễu (Quyết định 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014) có thể vi phạm điều lệ Đảng (luật chơi cơ bản), gây phản ứng ngược lại. Quy định Tổng Bí Thư phải là người “Miền Bắc và có lý luận”, sẽ gây phản cảm và phản ứng, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Thư của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh có thể tác động đến thái độ của nhiều người tham gia cuộc chơi, trong trận chiến cuối cùng.  

Thứ hai, ai nắm được quân đội và an ninh (nhất là Quân khu Thủ đô) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi (như “quyền lực cứng” có tác dụng răn đe trong trường hợp có bạo động). Việc Chủ tịch Quốc hội đột ngột sang thăm Trung Quốc trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội, và khi Trung Quốc có những động thái mới như ra luật chống khủng bố (có thể điều quân can thiệp vào nước khác), tăng cường các chuyến bay vi phạm không phận VN, điều tàu và giàn khoan HD981 vào hải phận VN, là những biện pháp răn đe để tác động vào kết quả Đại hội. Nhưng các động thái này có thể tác động ngược lại đến thái độ của những người VN tham gia cuộc chơi (vẫn còn ý thức dân tộc), như một “hệ quả không định trước”.    

Thứ ba, ai có nhiều tiền hơn và nắm được thế giới ngầm (underworld) người đó có lợi thế trong cuộc chiến  quyết liệt, để giành giật phiếu và thế thượng phong. Điều này đã từng xảy ra (không có gì lạ), vì tham lam và lo sợ luôn là huyệt yếu của con người trong các xã hội lạc hậu và độc tài.

Thứ tư, ai nắm được công cụ truyền thông, người đó có lợi thế lớn trong cuộc chiến giành phiếu hiện nay, có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thái độ những người tham gia (như “quyền lực mềm”). Nhưng vì báo chí “lề phải” dường như mất tác dụng trong trò chơi này, nên báo chí “lề trái” (social media và blogosphere) đã trở thành những kênh thông tin hiệu quả mà các phe phái thao túng trong cuộc chiến truyền thông quyết liệt hiện nay. Nhiều thông tin rò gỉ không thể kiểm chứng được vì các phe phái tung ra nhằm triệt hạ lẫn nhau, làm cho môi trường thông tin bị ô nhiễm. Những nhà báo (hay bloggers) thiếu bản lĩnh và sáng suốt có thể bị phân hóa, trở thành công cụ của các phe nhóm (như bồi bút). Sự phát triển của thế giới mạng và truyền thông kỹ thuật số cũng là một “hệ quả không định trước”. 

Thứ năm, trong khi giới truyền thông bị phân hóa, thì giới trí thức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cũng bị phân hóa theo. Có lẽ người Việt Nam có truyền thống dễ bị phân hóa (?) Một số nhảy vào tham gia cuộc chơi, ủng hộ “ông này” chống “ông kia” vì nhiều lý do khác nhau (không nhất thiết vì ông này tôt, hay ông kia xấu). Một số khác thì đứng ngoài cuộc (như vô can), quan sát như xem đá bóng, chờ kết quả trận đấu. Người ta nói chính trị là bẩn thỉu (ở đâu cũng vậy), nhưng đứng ngoài hay tham gia thế nào là một chuyện không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn. Người ta nói im lặng hay phản kháng đều là chính trị. “Ngay cả khi bạn không làm chính trị, thì chính trị sẽ đến với bạn” (Aung San Suu Kyi).

Thay cho lời kết  

Robert Merton đã liệt kê năm nguyên nhân chủ yếu thường dẫn đến “hệ quả không định trước”: (1) Do ngu dốt nên không dự báo được trước, không phân tích và phán đoán được tình thế; (2) Do sai sót khi phân tích vấn đề, dựa vào thói quen cũ nên không phù hợp với tình thế mới; (3) Chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài; (4) Những giá trị cơ bản có thể tác động làm thay đổi tình thế vào lúc cuối; (5) Do quá lo ngại về hậu quả, mà người ta hay vội vã tìm giải pháp trước khi vấn đề xảy ra, nên không có vấn đề lại trở thành vấn đề. (Tại sao điều 5200 quân bảo vệ Đại hội).

Con người dễ bị nhầm lẫn, và bệnh nhầm lẫn (hay lú lẫn) là một tai họa. Khi nhầm lẫn thì những người tài giỏi và ngu dốt cũng nguy hiểm như nhau. Hệ quả của ngộ nhận không phải chỉ do ngu dốt mà còn do chấp và ngã, do quá lo sợ, làm tầm mắt bị che khuất bởi điểm mù (blind spot). Những người cực đoan và bảo thủ thường hay nhầm lẫn, vì chấp và ngã của họ quá lớn và quá lâu. Vì luôn cho mình là đúng, nên họ thường không chịu lắng nghe, nên không nhìn thấy và không chịu thừa nhận những cái khác bên ngoài cái hộp tư duy kín mít của họ. Cực đoan và bảo thủ gây ách tắc cho đổi mới (bottleneck).    

Có lẽ lúc này Việt Nam đang trong tình thế hiểm nghèo nhất (từ sau chiến tranh lạnh), đứng trước một “hiểm họa kép” (double danger) rất khó hóa giải. Đó là hệ quả của suy thoái kinh tế và thể chế (bên trong) đồng thời với đe dọa chủ quyền (bên ngoài). Nhưng dường như lãnh đạo Việt Nam vẫn đang lúng túng và nhầm lẫn trong việc tìm lối thoát. Muốn thoát hiểm, để trở thành một nền kinh tế “rồng bay” tại Đông Á, vấn đề không phải chỉ phụ thuộc vào lựa chọn lãnh đạo nào (ông X hay ông Y), chọn lối đi nào (TPP hay “Giấc mộng Trung Hoa), mà còn tùy thuộc vào hệ quả của cuộc chiến giành quyền lực đang diễn ra tại Hà Nội. Thay đổi lãnh đạo mà không thay đổi tầm nhìn thì vẫn là bi kịch.  

NQD. 21/1/2016

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 21-1-16