Lựa chọn của
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu mới
(Bài gốc
đã gửi đăng Số Xuân Nhâm Dần 2022 của Tạp chí Kinh tế Sài
Gòn.
Nguyễn Đức
Thành[*]
Việt Nam tiến dần vào thập niên mới
Hai năm đầu tiên của thập niên 2020 đã trôi qua. Việt Nam bước vào năm
2022 trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều chuyển biến
phức tạp, bất ngờ. Một điều không thể phủ nhận là trong những thập kỷ
qua, Việt Nam đã thành công trong việc tạo và duy trì được đà phát triển
tương đối nhanh trong khu vực và trên thế giới, dần tự hình thành cho
mình một vị thế địa-chính trị-kinh tế trong khu vực.
Việt Nam có lợi thế về quy mô dân số tương đối lớn, với cơ cấu dân số
còn khá trẻ và độ dung hợp xã hội cao, tầng lớp trung lưu đang phát
triển và từng bước định hình lý tính về một xã hội hiện đại. Quy mô sản
xuất của nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, nguồn lực xã hội được tích
lũy, và hợp tác quốc tế ngày càng tự tin hơn. Nhưng bên cạnh đó, Việt
Nam còn khá nhiều hạn chế như trình độ kỹ năng của lao động còn thấp,
năng lực sản xuất phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chưa tự chủ công nghệ dù ở mức cơ bản. Thiết chế xã hội và hệ
thống luật pháp còn chưa theo kịp sự phát triển kinh tế. Kết quả là cấu
trúc nền kinh tế chưa vững chắc vì khu vực tư nhân còn yếu và dàn trải,
mô hình tăng trưởng chất lượng thấp, nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ,
dễ tổn thương trong môi trường thể chế và kinh tế vĩ mô bất trắc.
Còn quá sớm để có thế đánh giá xem trong thập niên trước, Việt Nam đã
tận dụng được hết cơ hội và tiềm năng của mình hay chưa. Tuy nhiên, nhìn
vào thập niên trước mắt, có thể thấy Việt Nam chắc chắn phải đối mặt với
những lựa chọn to lớn có vai trò quyết định con đường phát triển và ổn
định của đất nước trong dài hạn. Vì vậy, tư duy về một tầm nhìn chiến
lược cho Việt Nam trong thập kỷ này là việc làm cần thiết. Trong bài
viết này, tác giả mong muốn tham gia vào cuộc thảo luận về những lựa
chọn chiến lược cho Việt Nam. Sự thảo luận này, trước hết, phải gắn liền
với nhận định chiến lược về bối cảnh thế giới và khu vực trong thời gian
tới.
Nhân tố quyết định bức tranh thế giới và khu vực trong thập niên tới và
xa hơn, rõ ràng là mối quan hệ giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Mối quan hệ này sau bốn thập kỷ mang tính hỗ trợ (giai đoạn đầu từ 1972)
và hợp tác (cho tới khoảng 2014) có tính chủ động từ phía Mỹ, đã đổ vỡ
trong cuộc va chạm gay gắt vào nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump. Khi
Mỹ đã nhận ra ở Trung Quốc thái độ xét lại trật tự thế giới Hậu Chiến
Tranh Lạnh do Mỹ làm bá chủ, và Trung Quốc không hề có ý định xuống
thang từ chối nhận định này, cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung đã trở nên quyết
liệt. Chúng ta sẽ không mong đợi sự trở lại những ngày rộn ràng của chủ
nghĩa Tân-Tự do khi Mỹ và đồng minh mở cửa đón Trung Quốc gia nhập WTO
với niềm hy vọng về một trật tự thế giới nguyên trạng về chính trị và
phát đạt về kinh tế. Giờ đây, từ sự trưởng thành nội tại, vì lợi ích và
an ninh của chính mình, Trung Quốc phải củng cố một vùng ảnh hưởng trước
hết là xung quanh lãnh thổ của họ càng rộng, càng vững chắc, càng tốt.
Tất cả những nỗ lực như hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân;
thúc đẩy chiến lược Vành đai-Con đường; quyết tâm thay đổi thực trạng
trên Biển Đông và tăng cường đe dọa Đài Loan, v.v… đều được coi là nhằm
đạt tới vị thế thống trị khu vực. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một
cường quốc nếu không thể thống trị khu vực địa lý của mình, thì chẳng
những không thể mở rộng sức mạnh ra toàn cầu, mà còn không có khả năng
bảo đảm cho chính số phận của mình. Ngược lại, nếu một cường quốc đã bảo
đảm được an ninh cho chính mình nhờ đạt tới quyền bá chủ khu vực, thì
lại lập tức trở thành mối đe dọa ở cấp độ toàn cầu cho bất cứ một cường
quốc hay thậm chí là siêu cường nào đang tồn tại. Đây là thế “lưỡng nan
an ninh” nổi tiếng trong chính trị thế giới.
Vì lẽ trớ trêu đó, Mỹ sẽ bằng mọi giá ngăn cản Trung Quốc trở thành bá
chủ khu vực – hay một triển vọng hãi hùng hơn là bá chủ toàn bộ lục địa
Á-Âu – vì mục đích an ninh và quyền lợi của chính nước Mỹ. Còn Trung
Quốc sẽ không từ bỏ cơ hội cũng như niềm kiêu hãnh của mình để chống lại
ý đồ đó của Mỹ. Việc ngửa bài cạnh tranh không che đậy từ nay trở đi,
còn giúp lãnh đạo hai siêu cường củng cố tính chính danh của mình trong
chính trị đối nội. Do đó, từ vị thế của mình, Việt Nam cần chuẩn bị sẵn
sàng cho một cuộc Chiến tranh Lạnh mới tất yếu leo thang giữa hai siêu
cường đối đầu nhau không chỉ vì quyền thống trị thế giới, mà vì sự tồn
vong của chính họ.
Cần phải thừa nhận rằng, cho tới nay, thế trận của Mỹ vẫn mang tính áp
đảo nhờ nắm giữ nhiều điểm chặn chiến lược. Mỹ đang và sẽ tiếp tục chia
thế giới thành ba vùng địa chiến lược: Vùng Một ở vòng
ngoài, xa Trung Quốc, gồm những đồng minh truyền thống và lôi kéo những
nước kém thân thiện với Trung Quốc. Vùng Hai gồm khu vực địa lý
tiếp giáp Trung Quốc, bao gồm những nước đã có sẵn mâu thuẫn với Trung
Quốc và có thể làm đồng minh với Mỹ. Vùng Ba cũng là khu vực sát
với Trung Quốc, nhưng gồm những nước là đồng minh của Trung Quốc, thù
địch hoặc kém thân thiện với Mỹ.
Với hai Vùng đầu tiên, Mỹ sẽ mở rộng hợp tác kinh tế thương mại, và nếu
cần thì liên minh quân sự. Điển hình ở Vùng Một là Mỹ mới thành lập Liên
minh quân sự Úc-Mỹ-Anh (AUKUS). Trục xương sống cho Vùng Hai hiện nay,
ngoài hệ thống chuỗi đảo trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn ổn
định từ sau Thế chiến II, đang hình thành nhóm Bộ tứ Mỹ-Nhật-Ấn Độ-Úc
(QUAD) và Bộ tứ mở rộng (QUAD ++) hy vọng bổ sung một số trung cường
trong khu vực như Indonesia và Hàn Quốc. Có thể nói QUAD++ sẽ đóng vai
trò trục chính cho chiến lược Indo-Pacific mà Mỹ sẽ theo đuổi trong dài
hạn nhằm ngăn chặn vị thế bá quyền của Trung Quốc trên lục địa Á-Âu.
Với Vùng Ba, Mỹ sẽ thực hiện thu hẹp hợp tác kinh tế thương mại, và nếu
có lý do sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt hoặc bao vây kinh tế, nhằm làm
suy yếu các nước này. Điển hình các nước trong khu vực này là Nga, Bắc
Hàn và gần đây là Campuchia. Các nước tiềm năng khác là Myanmar và
Pakistan.
Ngược lại, từ phía Trung Quốc, nước này cũng sẽ mở rộng vùng ảnh hưởng
của mình thông qua hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư qua nền tảng Vành
đai-Con đường đã được thiết lập. Mục tiêu của Trung Quốc là kết nối ổn
định với các vùng nguyên liệu và năng lượng lớn, bảo đảm thông thương và
mở rộng thị trường.
Khi cuộc xung đột tiến dần lên những nấc thang mới, Mỹ và đồng minh sẽ
sẵn sàng loại bỏ Trung Quốc khỏi các thị trường quan trọng của họ, và
điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn gốc sức mạnh kinh tế của Trung
Quốc trong dài hạn.
Lịch sử cho thấy, như mới đây nhất qua gần nửa thế kỷ Chiến tranh Lạnh
giữa Mỹ và Liên Xô, cục diện và trật tự thế giới được định hình bởi các
siêu cường đã chi phối đáng kể số phận các nước nhỏ. Nhiều nền kinh tế
trong khu vực Đông Á đã trỗi dậy mãnh liệt nhờ tham gia vào chuỗi cung
ứng hậu cần cho bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ ở Đông Dương, hoặc sự
phục hồi thần kỳ của kinh tế Tây Âu dưới sự viện trợ của Mỹ nhằm cân
bằng sức mạnh với Liên Xô và Đông Âu. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã
đánh mất cơ hội phát triển hoặc mang những vết thương lớn vì trở thành
nạn nhân trong thế trận Chiến tranh Lạnh.
Nhận thức được tầm quan trọng chiến lược trong bối cảnh thế giới ngày
nay, Việt Nam cần làm gì để tìm kiếm và phát huy những cơ hội giúp đất
nước tiếp tục phát triển, thậm chí phát triển nhảy vọt, trong thập niên
này và xa hơn?
Có thể nói, trong những thập niên qua, Việt Nam đã thực hiện sự lựa chọn
phù hợp với bối cảnh chung, là mở cửa và hội nhập quốc tế, tập trung
phát triển kinh tế. Việt Nam về cơ bản đã tận dụng được cơ hội của giai
đoạn cơm ngon canh ngọt giữa Mỹ và Trung Quốc, cùng đồng hành với sự cải
thiện kinh tế chung của khu vực. Đến bây giờ, khi cái bóng của cuộc xung
đột dài hạn Mỹ-Trung đang đổ trùm lên khu vực, Việt Nam đứng trước một
số thách thức quan trọng, nhưng nhìn chung, có thể đánh giá thời cuộc
đang mang lại cho Việt Nam cơ hội nhiều hơn thách thức, nếu Hà Nội không
bị lôi kéo vào những tính toán địa chính trị sai lầm.
Như phân tích ở phần trước, Việt Nam có vị trí địa chính trị thuộc cả
Vùng Hai và Vùng Ba trong quan điểm của Mỹ, và tọa lạc ngay
sát cửa ngõ đi xuống phía Nam trong mắt Trung Quốc. Cho đến nay, Hà Nội
đang chọn giải pháp trung dung như một vùng xám giữa hai vùng nêu trên,
nhằm tránh bị lôi kéo về một vùng cụ thể, đồng thời khai thác lợi thế
hợp tác với cả hai siêu cường.
Nhìn vào mục tiêu phát triển dài hạn, điều kiện tiên quyết đối với Việt
Nam là phải đảm bảo an ninh cả đối nội và đối ngoại. Vì lý do đó, chắc
chắn Việt Nam sẽ không muốn chủ động chọn trở thành một nước thuộc
Vùng Ba. Khác với Campuchia hoặc Triều Tiên, thậm chí Pakistan, Việt
Nam hiểu rằng thị trường Trung Quốc là không đủ và chỉ có toàn bộ thị
trường thế giới mới tương xứng với tiềm năng phát triển của đất nước.
Việt Nam đã theo đuổi chiến lược này trong suốt 30 năm cải cách mở cửa
và chắc chắn sẽ không từ bỏ điều đó.
Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là Việt Nam sẽ gia nhập Vùng Hai.
Nhiều người cho rằng hiển nhiên Mỹ muốn Việt Nam thuộc về Vùng Hai.
Nhưng xét về tính toán chiến lược, Mỹ thực chất sẽ giữ một thái độ trung
dung thận trọng, không vồn vã lôi kéo cũng không nài nỉ ép buộc Việt
Nam. Lý do đơn giản là bản thân Mỹ sẽ không muốn cam kết là đồng minh
với Việt Nam – ngay cả khi khả năng đó tồn tại. Như một số tướng lĩnh
cao cấp và chiến lược gia Mỹ đã nhận định, việc Mỹ kết thân quá mức với
Việt Nam có thể khiến Trung Quốc phát động xung đột với Việt Nam nhằm
thách thức uy quyền của Mỹ. Trong trường hợp đó, Mỹ gặp phải thế lưỡng
nan là nếu có can thiệp thì tốn kém mà không có nhiều lợi ích, trong khi
đó nếu không can thiệp thì vô hình trung phát đi một tín hiệu (sai lầm)
cho thấy sự bất lực của Mỹ và thừa nhận vị thế bá chủ khu vực của Trung
Quốc. Do đó, Mỹ có ít động lực cam kết đồng minh với Việt Nam để Trung
Quốc không có lý do “ghi điểm” trong khu vực. Nhiệm vụ của Mỹ tại chốt
chặn Đài Loan có lẽ là đã đủ về mặt chiến lược.
Hiểu được bối cảnh này, Hà Nội nhận ra Việt Nam có một không gian lựa
chọn tương đối linh hoạt, và sức ép chọn bên không quá căng thẳng, ngay
cả khi cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung leo thang. Việt Nam có lẽ là một trong
số ít quốc gia có thể duy trì vị trí trung dung của mình một cách khôn
ngoan và quyết đoán, để vừa hợp tác với hai siêu cường vừa duy trì an
ninh cho chính mình. Nói cách khác, về đường lối đối ngoại, Việt Nam có
thể áp dụng phương châm, theo cách nói thời cổ đại, “ngoại Nho nội Pháp”
(bên ngoài mềm dẻo khiêm nhường linh hoạt, nhưng bên trong cứng rắn có
nguyên tắc). Trong ngôn ngữ chính trị học hiện đại, người viết đề xuất
gọi đó là thái độ “do dự chiến lược” giữa các siêu cường.
Một số chiến lược
cụ thể
Việc lựa chọn một đường lối chiến lược nhằm duy trì ổn định cho đất
nước, là nền tảng để thực hiện mục tiêu cốt lõi là bảo đảm sự phát triển
kinh tế vững chắc. Trong thập kỷ này và xa hơn, phát triển kinh tế vẫn
giữ vai trò quan trọng nhất trong tiến trình phát triển chung của Việt
Nam. Chiến lược phát triển kinh tế cần diễn ra song hành cả trong lĩnh
vực hơp tác quốc tế và cải cách trong nước như đã được thực hiện trong
quá khứ.
Về chiến lược hợp
tác kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã có một
“lưng vốn” tương đối đầy đặn với các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã
ký với các nước trong khu vực cũng như các nền kinh tế lớn trên thế
giới. Việt Nam cần tiếp tục nghiêm túc cải cách thể chế, củng cố luật
pháp và môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp khai thác tối đa lợi
ích từ các FTA này. Bên cạnh đó, có thể hình dung trước động thái của Mỹ
muốn quay trở lại CPTPP trước khi Trung Quốc tìm cách xâm nhập vào hiệp
định quan trọng này. Trong trường hợp Mỹ thấy có nhiều ràng buộc trong
nước cản trở việc sớm gia nhập CPTPP, Việt Nam có thể hướng tới viễn
cảnh về một hiệp định thương mại tự do với Mỹ. Mặc dù điều này không hề
dễ dàng, vì trong lịch sử Mỹ chỉ ký các hiệp định kiểu này một cách rất
chọn lọc với những đối tác có vai trò chiến lược tại những khu vực địa
chính trị chiến lược, nhưng Việt Nam hoàn toàn có thể khai thác vị trí
đặc biệt của mình hiện nay từ góc độ “do dự chiến lược.”
Đây sẽ là một bước đột phá quan
trọng đem lại lợi ích lớn cho Việt Nam trong hiện thực. Thêm vào đó,
việc mở rộng và thắt chặt hợp tác kinh tế-đầu tư với các nước thuộc
Vùng Một và Vùng Hai có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam có thể
sử dụng các nước này như một vùng đệm trong quan hệ chiến lược với Mỹ
(mà thực chất vẫn thực hiện từ trước tới nay). Bên cạnh các nước đã trở
nên tin cậy và gắn bó với Việt Nam như Nhật Bản và Hàn Quốc, Ấn Độ chắc
chắn là một đối tác đem lại nhiều lợi ích dài hạn cho Việt Nam trong bối
cảnh mới.
Về chiến lược phát
triển kinh tế trong nước,
bên cạnh đường lối
tiếp tục theo đuổi mô hình kinh tế thị trường mở, Việt Nam cần quyết tâm
đảm bảo kiện toàn thể chế thị trường đầy đủ thông qua cải cách pháp luật
và làm trong sạch bộ máy công quyền. Cải cách hành chính sẽ không có
hiệu quả nếu không cải cách được chế độ tiền lương trong khu vực công
theo hướng thị trường, đi liền với một bộ máy nhà nước có trách nhiệm
giải trình. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo Việt Nam cần tìm ra một trọng tâm
chiến lược mới để thúc đẩy về chất quá trình phát triển kinh tế. Trong
hai thập niên qua, trọng tâm ấy là hội nhập quốc tế, đã đạt được nhiều
thành tựu nhờ tự do hóa nguồn lực và cơ hội trong nước. Với thập niên
tới và xa hơn, việc chuyển đổi số toàn xã hội và dịch chuyển nền công
nghiệp từ nâu sang xanh có lẽ là hai trọng tâm thích đáng. Trong tháng
11/2021, tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của
Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26)
Thủ tướng Chính phủ đã chính thức công bố cam kết của Việt Nam đạt mức
phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Đây chính là một bước đi có ý
nghĩa chiến lược cho phép khởi động quá trình xây dựng mô hình tăng
trưởng kinh tế của tương lai. Giống như các hiệp định thương mại tự do
đã giúp Việt Nam vững bước trên con đường cải cách trong những thập niên
qua, việc cam kết giảm phát thải ròng sẽ tạo động lực cho nền kinh tế
chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách kiên định và đúng đắn. Thêm vào đó, nên cân nhắc phát triển một số ngành kinh tế đặc thù trong bối cảnh mới. Cụ thể là ngành công nghiệp quốc phòng nên được mở rộng và gắn với khu vực tư nhân trong nước, nhằm tăng tính cạnh tranh đồng thời kiến tạo năng lực kỹ thuật và tiềm lực sản xuất dài hạn cho các tổ hợp tư nhân. Bên cạnh đó, một Biển Đông tấp nập hơn có thể đem lại cho Việt Nam cơ hội mới trong lĩnh vực hậu cần cảng biển quân sự-dân sự phối hợp. Khi các cường quốc ngày càng can dự nhiều hơn ở Biển Đông, Việt Nam cần chủ động phát huy lợi thế địa lý để củng cố lợi ích kinh tế và do đó là an ninh cho chính mình
Nguyễn Đức Thành
|