Hòa thượng Thích Trí Quang vừa ra đi hôm 8/11/2019, thọ 97 tuổi. Một con người thông tuệ và quả cảm, một nhân cách lớn và sự dấn thân vì dân tộc, vì đạo pháp vì hòa bình và hạnh phúc của chúng sinh.
Thượng tọa Thích Trí Quang –
“Người
làm rung
chuyển
nước Mỹ”
Nguyễn Hữu Thái
Hình ảnh Thầy
Trí Quang trên bìa báo Mỹ, 1966
Trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc chống thực dân
đế quốc phương Tây vì độc lập và thống nhất đất nước kéo dài suốt 117
năm (1858-1975), Phật giáo Việt Nam đã không thể ngồi yên đứng ngoài
cuộc. Cuộc vận động giành lại quyền được đối xử bình đẳng cho Phật giáo
năm 1963 và tranh thủ chủ quyền, hòa bình, hòa hợp dân tộc bằng con
đường thứ Ba của Phật giáo trong chiến tranh ác liệt Việt-Mỹ những năm
1960-1970, thực sự là một cuộc hành trình cam go giữa 2 làn đạn, nay cần
được đánh giá lại một cách sâu sắc và bình tĩnh hơn. Chửi bới, nguyền
rủa không căn cứ, tìm hiểu qua loa và cả thái độ “xếp lại quên đi” không
giúp làm sáng tỏ sự thật lịch sử và trả lại công bằng cho mọi người.
Chính vì nghịch cảnh và chướng
duyên của tình hình đó, không ít nhà
lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam, dù muốn hay không, đã bị cơn lốc
thị phi va chạm. Một trong những vị lãnh đạo Phật giáo bị nhiều thị phi
nhất là Thượng tọa Thích Trí Quang. Chỉ một mình Thầy mà từ mấy thập
niên qua thiên hạ đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để viết ra vô số
bài viết, nghiên cứu, biên khảo, sách báo với đủ mọi sắc thái khen, chê.
Thậm chí gần đây còn có cả những âm mưu lợi dụng chuyện về Thầy để ngụy
tạo, bóp méo, và xuyên tạc lịch sử với ý đồ bôi nhọ Phật giáo Việt Nam.
Có được nhiều dịp tiếp xúc Thầy Trí Quang vào những
thời khắc trọng đại, bản thân tôi am hiểu được phần nào cuộc đấu tranh
của Thầy và phong trào Phật giáo yêu nước ở miền Nam. Quả thực, Thầy đã
đóng một vai trò khá quan trọng
trong
diễn biến cuộc chiến
tranh Việt Nam vào các mốc lịch sử 1963, 1966 và cả 30/4/1975.
Thầy gốc người
Quảng Bình, từ
nhỏ đã
được gửi đi tu học tại Chùa Bảo Quốc, Huế với
những vị sáng lập Phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Trung Việt Nam.
Năm 1938, theo học chương trình đào tạo tăng sĩ và hoàn tất chương trình
vào năm 1944.
Mùa hè năm 1946,
Thầy
được mời ra Hà Nội thành lập Phật
học viện tại chùa Quán
Sứ. Cuối năm 1946,
Thầy
trở về Quảng Bình thọ tang cha, sau đó ra Huế tu tại chùa Từ Đàm.
Thầy
bị chính quyền Pháp thời ấy bắt giam và
sau là
quản thúc
do
hoạt động trong Hội Phật giáo Cứu quốc. Đầu năm 1947, Pháp chiếm Quảng
Bình,
Thầy
vào chiến khu chống Pháp, phụ trách quận hội của Liên Việt.
Sau 1954. Thầy
Trí Quang hoạt động thống
nhất Phật giáo và có một
thời gian dài làm việc với Phật giáo Nam Việt ở Sài Gòn.
Cuộc đấu tranh của Phật giáo
chống chính
quyền Ngô Đình Diệm
năm 1963
do Phật giáo và Thầy Trí Quang lãnh đạo
có quy mô to lớn và mang tính cách quyết liệt, đã nổ ra suốt mùa hè để
kết thúc là sự sụp đổ của chế độ Diệm.
Khởi đi là việc chính quyền cấm treo cờ Phật giáo vào
mùa Phật Đản tại Huế cùng vụ tàn sát học sinh ở đài phát thanh vào tháng
tư, để tiến đến đỉnh cao là
ngọn lửa tự thiêu Quảng Đức vào giữa tháng 6 và
cuộc bố ráp chùa chiền, bắt bớ hàng nghìn sư sãi ở Sài Gòn và các tỉnh vào
cuối tháng tám. Trong “Sự kiện Phật Đản 1963” , Thầy là nhà lãnh đạo Phật giáo được báo chí quốc tế nhắc nhở tới nhiều nhất. Khi Chùa Xá Lợi bị tấn công, tăng ni bị bắt, việc Thầy vượt khỏi hàng rào nhà tù vào lánh nạn trong Toà Đại Sứ Mỹ tại Saigon từng được coi là một điểu bí ẩn.
Thầy Trí Quang
(bìa trái) vào lánh nạn trong sứ quán Mỹ
Sau
khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hai anh em Diệm Nhu bị giết,
Thầy Trí Quang
vẫn
không trở về với vị trí bên lề của trường chính trị,
mà
tiếp
tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị của Việt
Nam Cộng hòa bằng cách từ chối hậu thuẫn cho những chế độ quân nhân
chủ trương chiến tranh
điều
hành quốc gia từ 1964 đến 1966 và chủ
trương phải tái lập chế độ dân chủ cùng sớm vãn hồi hòa bình.
Trong việc leo
thang chiến tranh ở Việt Nam với việc trực tiếp đổ quân chiến đấu Mỹ kể
từ năm 1965, Phật giáo cũng không thể ngồi yên.
Vào đầu năm
1966, sau cuộc hội họp với Tổng thống Mỹ Johnson
ở Honolulu vào đầu năm 1966, các tướng
Nguyễn Văn
Thiệu -
Nguyễn Cao
Kỳ muốn nhanh chóng tóm thu quyền hành về một mối để dễ cai trị với bàn tay
sắt cũng như rảnh tay điều hành cuộc chiến theo ý đồ của người Mỹ. Cái
gai trước mắt của họ là lực lượng Phật giáo miền Trung và tư lệnh Vùng
I, Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, người hùng của cuộc đảo chính chống
Diệm bất
thành
năm 1960. Tướng Thi bị nhóm tướng lãnh Sài Gòn cách chức. Vụ bãi chức này
chỉ là một cái cớ để Phật giáo tung ra cuộc đấu tranh mới, đòi các tướng
lãnh đáp ứng các yêu cầu chính đáng của nhân dân. Đó là lập lại các định
chế dân chủ như soạn thảo hiến pháp, bầu quốc hội dân cử như đã hứa hẹn
từ ngày lật đổ Ngô Đình Diệm. Binh lính Quân đoàn I hầu như đã đồng loạt
nổi dậy, sát cánh cùng đồng bào Phật tử chống lại chính quyền Sài Gòn.
Sài Gòn chuyển Thủy quân lục chiến ra sân bay Đà
Nẵng, quyết dẹp tan cuộc binh biến. Các thành phố Đà Nẵng-Huế hầu như
biến thành các căn cứ địa nổi dậy mới, với các đội
‘Sinh viên Quyết tử', quần chúng vũ trang
sát cánh cùng binh lính nổi loạn, chuẩn bị sẵn sàng đánh trả quân Sài
Gòn. Binh lính Quân đoàn I cũng quay nòng súng đại bác chĩa vào sân bay
và căn cứ Mỹ. Thấy quân dân miền Trung làm dữ, tướng Nguyễn Cao Kỳ một
mặt hứa hẹn sớm tổ chức bầu cử Quốc hội, đưa cả tướng Thi ra xoa dịu
tình hình. Nhưng mặt khác vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đàn áp, có
quân Mỹ hỗ trợ ngầm đàng sau.
Thầy Trí Quang,
Huế 1965
Cuộc biến động miền Trung lần này có tác động phân
chia lực lượng quốc gia đô thị làm thành hai phe rõ rệt. Trong hàng ngũ
Phật giáo, nhóm chủ chiến Bắc di cư của thượng tọa Thích Tâm Châu đứng
hẳn về phía nội các chiến tranh Nguyễn Cao Kỳ. Đa số Phật tử thì đứng về
lập trường hòa bình nhưng cũng không mấy đồng nhất. Thượng tọa Thích Trí
Quang nay lại xuất hiện, chủ trương tiến hành bầu cử quốc hội thể hiện
được nguyện vọng của toàn dân. Hy vọng với đa số nằm trong quốc hội,
Phật giáo sẽ nói lên được ý nguyện của nhân dân là đem lại chủ quyền và
hòa bình cho Việt Nam.
Vào ngày 15 tháng 5/1966, lực lượng
Thủy
quân lục chiến Sài Gòn từ sân bay Đà Nẵng tấn công vào thành phố, đánh
chiếm khu Quân đoàn I, các ngôi chùa tỉnh hội Phật giáo.
Từ Huế, Thầy
Trí Quang lần đầu tiên lên tiếng
tố cáo cái mà ông gọi là sự
“tráo trở” của
tổng thống Mỹ Johnson. Sau này tôi nghe nói đích
thân tổng thống Mỹ đã
viết thư
hứa hẹn tổ chức bầu cử và yêu cầu Phật
giáo tạm ngưng đấu tranh. Nay rõ ràng họ đã nuốt lời hứa để cho Nguyễn
Cao Kỳ hành động !
Bàn thờ xuống
đường ở Huế, 1966
Quân của Kỳ từ Đà Nẵng tiến ra đàn áp phong trào Phật giáo Huế,
nhân dân đã đưa bàn thờ xuống đường, nhưng làm sao ngăn nỗi được xe tăng
và súng đạn. Nhiều người trong phong trào đấu tranh bị bắt. Không còn
con đường nào khác, nhiều sinh viên học sinh đã lên chiến khu Giải phóng
tiếp tục cuộc chiến đấu.
Binh lính tham
gia ly khai bị đưa đi giam giữ tại đảo Phú Quốc.
Báo chí Mỹ đã gọi cuộc nổi dậy của Phật giáo miền Trung năm 1966 là “cuộc
nội chiến trong một cuộc chiến tranh” !
Thầy Trí Quang sau đó bị bắt chuyển vào Sài Gòn giam
lỏng cho đến ngày giải phóng Sài Gòn 1975.
Theo
dư luận trong sự
kiện
chấm dứt chiến
tranh 30/4/1975
thì
Thầy
Trí Quang
đã cử nhiều Phật tử tham gia nội các Dương Văn Minh và
là một kênh liên lạc của đại tướng Dương Văn Minh với phía
bên kia
nhắm thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc.
Khi viết sách
về phong trào đấu tranh của Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, sử gia Mỹ
James McAllister ghi nhận có sự chia rẽ trong nhận
định :
"Học giả bên cánh hữu thì cho rằng
Thượng tọa Thích Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà
Nội. Học giả bên cánh tả thì lý luận rằng
ông
là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà
dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng."
Một người am
tường thời cuộc miền Nam Việt Nam là Lý
Qúi Chung (Tổng trưởng thông tin
nội các Dương Văn Minh) trong hồi ký của mình xác định các sự
kiện tháng 4/1975 :
“… Với Phật giáo, ngoài sự tham
gia ngay trong nhóm ông Minh của luật sư Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ quốc hội và
là chủ tịch Lực lượng hòa giải dân tộc, nhóm còn tìm cách giành cho được
sự tán đồng công khai của thượng tọa Thích Trí Quang, người có ảnh hưởng
chính trị lớn nhất trong Phật giáo Ấn Quang.
…Khi thì bị coi là người của cộng
sản, khi thì bị nghi ngờ làm việc cho CIA, thật sự Thích Trí Quang là
người của ai? Lúc đó tôi không có đủ điều kiện trả lời câu hỏi này,
nhưng với tôi, thượng tọa Trí Quang
trước hết là một nhà tu yêu nước”.
Sau năm 1975 Thầy sống tĩnh tâm,
thiền tịnh dịch kinh sách.
Về tác giả
Nguyễn Hữu Thái
Tác giả và Thầy Trí Quang
Tác giả Nguyễn Hữu Thái, nguyên
chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-1964), một trong những lãnh
đạo phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, đã quan hệ với TT Trí Quang
vào các thời điểm lịch sử trọng đại của miền Nam.
|